top of page

TRANG TÌM KIẾM

Tìm thấy 77 kết quả với một nội dung tìm kiếm trống

  • [75] CÁC CÁCH THỨC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ THEO LUẬT QUỐC TẾ

    Tác giả: Phạm Thị Lan Hương, Nguyễn Hà Minh Thu   Tóm tắt: Trong suốt quá trình phát triển của các quốc gia, lãnh thổ luôn giữ vai trò quan trọng gắn liền với chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, do các biến động lịch sử như chiến tranh, di cư, và thỏa thuận chính trị, ranh giới lãnh thổ của nhiều quốc gia thường thay đổi. Chính vì vậy, ngành luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ ra đời nhằm điều chỉnh những biến động này một cách hợp pháp. Bài viết tập trung phân tích 05 cách thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản theo luật quốc tế, bao gồm: (1) chuyển nhượng; (2) chiếm hữu; (3) chiếm hữu theo thời hiệu; (4) bồi tụ; (5) sử dụng vũ lực/xâm lược - phương thức đã bị cấm sau năm 1945. Từ khóa: Luật Quốc tế, thụ đắc lãnh thổ, cách thức thụ đắc lãnh thổ, chuyển nhượng, chiếm hữu, chiếm hữu theo thời hiệu, bồi tụ, xâm lược. Mở đầu Theo luật quốc tế “Thụ đắc lãnh thổ” là quá trình một quốc gia xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mới, hay nói cách khác, là việc một quốc gia mở rộng lãnh thổ hiện có một cách hợp pháp thông qua các hành động mà luật quốc tế cho phép. Truyền thống phân loại các phương thức thụ đắc lãnh thổ bắt nguồn từ luật La Mã cổ đại,[1] theo đó có 05 cách thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản: chuyển nhượng; chiếm hữu; chiếm hữu theo thời hiệu; bồi tụ; và xâm lược - phương thức hiện đã bị cấm sau năm 1945 theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Tuy nhiên cách phân loại này hiện nay được đánh giá là chưa đầy đủ và không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện đại[2] do tính phức tạp của các tranh chấp lãnh thổ, vì vậy không thể chỉ dựa vào một phương thức thụ đắc đơn lẻ mà cần xem xét toàn diện nhiều yếu tố, bao gồm sự công nhận của cộng đồng quốc tế và các hành vi thực thi chủ quyền của quốc gia liên quan.[3] Vì vậy, các phương thức thụ đắc lãnh thổ chỉ nên được xem như những cách phân loại thuận tiện để nghiên cứu, còn thực tế việc xác định chủ quyền lãnh thổ đòi hỏi phải xét đến nhiều yếu tố phức tạp và đa chiều hơn. 1. Thụ đắc lãnh thổ theo hình thức chuyển nhượng (Cession)  Chuyển nhượng là phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng cách chuyển nhượng lãnh thổ của quốc gia này sang quốc gia khác dựa trên sự đồng thuận giữa các quốc gia, thông thường qua việc ký kết các điều ước quốc tế có hiệu lực pháp lý.[4] Cơ sở cho phương thức này chính là ý định của các quốc gia.[5] Đồng thời các quốc gia không thể chuyển nhượng nhiều hơn những gì mình có, trừ trường hợp thụ đắc bằng phương thức bồi tụ (accretion).[6] Trong  Vụ Đảo Palmas (Hoa Kỳ v. Hà Lan) , tòa đã nhấn mạnh điểm này và các bên chấp nhận rằng Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng cho người Mỹ nhiều hơn những quyền họ đang sở hữu.[7] Trong lịch sử từng tồn tại những trường hợp cưỡng ép chuyển nhượng lãnh thổ bằng việc đe dọa hay sử dụng vũ lực, ví dụ như trong vụ Iloilo (Hoa Kỳ v. Philippines), Philippines đã chuyển nhượng khu vực này cho Mỹ theo Điều ước Paris 1898 mặc dù quân đội Mỹ đã chiếm cứ Iloilo 2 tháng trước đó.[8] Sau này trong Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969, các điều ước quốc tế cần phải có hiệu lực theo luật quốc tế để bảo để bảo đảm tính hợp pháp, bao gồm những điều ước quốc tế về việc chuyển nhượng, điều này đồng nghĩa với việc các điều ước này không thuộc những trường hợp bị vô hiệu hoá trong công ước.[9] Ngoài ra, chuyển nhượng khác với việc cho thuê lãnh thổ hay còn được hiểu là chuyển nhượng quyền hành chính (administrative cession) của một lãnh thổ.[10] Điển hình của việc chuyển nhượng quyền hành chính là trường hợp Trung Quốc cho Anh thuê toàn bộ Hồng Kông hiện nay theo Hiệp ước về Mở rộng Lãnh thổ Hồng Kông năm 1898 trong vòng 99 năm kể từ ngày 01/07/1898. Trong Tuyên bố chung Anh-Trung về Vấn đề Hồng Kông ngày 19/12/1984, các bên công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hồng Kông và lên tiến trình bàn giao khôi phục việc thực thi chủ quyền của Trung Quốc tại Hồng Kông.[11] Trong khi đó, các hiệp ước chuyển nhượng thường sẽ nêu rõ quốc gia gia này chuyển chủ quyền lãnh thổ sang quốc gia khác. Ví dụ, ngay tại Điều 1 hiệp ước chuyển nhượng tài sản của Nga ở Bắc Mỹ, hiệp ước đã ghi nhận sự đồng ý thành văn của Sa hoàng Nga về chuyển nhượng tài sản ở Bắc Mỹ cho Mỹ: “Sa hoàng Nga đồng ý nhượng cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ toàn bộ lãnh thổ và quyền thống trị hiện đang có theo hiệp ước này, ngay sau khi trao đổi các văn kiện phê chuẩn.” [12] Lịch sử thế giới cũng ghi nhận nhiều trường hợp chuyển nhượng lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau thông qua mua bán như Hoa Kỳ mua lại Louisiana từ Pháp,[13]   Anh và Đức đã trao đổi hai vùng Heligoland và Zanzibar.[14] Ngày nay, do tính chất nhạy cảm của chủ quyền lãnh thổ và phản ứng của dư luận, việc chuyển nhượng giữa các quốc gia trở nên hiếm hoi và chủ yếu tại các vùng cận biên liên quan đến thiết lập biên giới như Hoa Kỳ nhượng lại quần đảo Swans cho Honduras năm 1971.[15] Tóm lại, chuyển nhượng là một phương thức thụ đắc mang tính chất hòa bình, dựa trên sự đồng thuận của các quốc gia có chủ quyền, thông qua một hoặc nhiều điều ước quốc tế và tuân thủ luật pháp quốc tế nói chung mặc dù trước Công ước viên 1969, còn tồn tại trường hợp đe doạ sử dụng vũ trang hoặc sử dụng vũ trang để cưỡng ép chuyển nhượng. Thực tiễn quốc tế cho thấy, việc chuyển nhượng không chỉ dừng lại ở chuyển giao chủ quyền, mà còn bao gồm các hình thức chuyển giao quyền hành chính có giới hạn về thời gian, như trường hợp Hồng Kông nói trên. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, do tính nhạy cảm về vấn đề chủ quyền nên các trường hợp chuyển nhượng ngày càng trở nên hiếm hoi, nếu có thì chủ yếu xảy ra ở khu vực biên giới nhằm giải quyết tranh chấp hoặc hoàn thiện đường biên.   2. Thụ đắc lãnh thổ bằng hình thức chiếm hữu (Occupation) Một trong những phương thức thụ đắc lãnh thổ lâu đời trong lịch sử luật quốc tế là chiếm hữu (occupation),[16] xuất phát từ khái niệm occupatio từ thời La Mã cổ đại. Khái niệm này vốn không đề cập trực tiếp về thụ đắc đất đai, lãnh thổ mà liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật bị từ bỏ quyền sở hữu hoặc vật của người khác đánh mất nhưng bản thân đã sử dụng trong khoảng thời gian lâu dài, hợp lý.[17] Chiếm hữu là cách thức pháp lý hoà bình xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ vô chủ, không thuộc về bất kỳ một ai tại thời điểm thụ đắc  (terra nullius) .[18] Lãnh thổ vô chủ là điều kiện cơ bản cho phép quốc gia xác lập chủ quyền bằng phương thức thụ đắc chiếm hữu.[19] Lãnh thổ vô chủ hay lãnh thổ không thuộc về một ai tại thời điểm thụ đắc có thể là các vùng lãnh thổ và đảo không có người sinh sống,[20] hoặc một số trường hợp khác như quốc gia trước đó từ bỏ chủ quyền.[21] Trước đây, một số học giả phương Tây cho rằng lãnh thổ có cư dân bản địa sinh sống nhưng không được quản lý bởi một nhà nước vẫn có thể được coi là terra nullius ,[22] quan điểm này sau đó bị bác bỏ bởi tòa ICJ trong Ý kiến tư vấn trong Vụ Tây Sahara .[23] Nhận định của Tòa rằng “ Mặc dù các luật gia có những ý kiến khác nhau, thực tiễn chung trong thời điểm đó không công nhận những lãnh thổ có sự sinh sống của bộ tộc hoặc nhóm người có một tổ chức chính trị - xã hội là terra nullius”, [24] đã   phản ánh việc cần có những đòi hỏi chặt chẽ hơn để xác minh lãnh thổ vô chủ. Trên thực tế, thế giới hiện nay gần như không có khu vực nào đủ “trống”[25] hay nằm ngoài chủ quyền một quốc gia nhất định[26] để được công nhận là terra nullius.  Biển cả nằm ngoài phạm vi của phương thức này do là res communis  (dành cho tất cả các quốc gia).[27] Đối với trường hợp lãnh thổ đã từng thuộc chủ quyền của một quốc gia nhưng sau đó bị từ bỏ, cần xét đến hai yếu tố: (i) không có những hành động thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó và (ii) ý định từ bỏ chủ quyền của quốc gia trước đó.[28] Nhằm xác lập chủ quyền lãnh thổ, các quốc gia từng sử dụng cách thức phát hiện hay khám phá (discovery).[29] Nhìn lại lịch sử, cùng với sự phát triển của ngành hàng hải từ thế kỷ XII, các quốc gia Châu Âu đã đặt chân đến những vùng đất mới nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ. Khoảng giữa thế kỷ XV đến XVI, các quốc gia có thể thiết lập chủ quyền trên lãnh thổ vô chủ được quốc gia đó phát hiện. Điển hình, Hiệp ước Tordesillas giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1494 đã pháp điển hoá sắc lệnh của Giáo hoàng Alexander VI, cho phép Bồ Đào Nha lập chủ quyền đối với các đảo và đất liền tìm thấy và sẽ tìm thấy ở phía Đông của một đường cách đường nối từ Cực Nam với Cực Bắc thông qua phía Tây đảo Cape Verde 370, các vùng lãnh thổ ở phía Tây đường này thuộc về Tây Ban Nha.[30] Tuy nhiên theo thời gian, cách thức này bộc lộ nhiều hạn chế.[31] Nhiều lập luận cho rằng, cách thức này chỉ tạo ra “danh nghĩa ban đầu” (inchoate title) chứ không thể thiết lập chủ quyền,[32] luật pháp quốc tế đòi hỏi cách thức xác lập chủ quyền thực chất hơn. Thông qua việc để lại bằng chứng mang tính biểu tượng trên các vùng lãnh thổ vô chủ như cắm cờ hay ra tuyên bố quốc tế,[33] cách thức chiếm hữu tượng trưng có nhiều ưu điểm hơn cách thức phát hiện nhưng dễ dẫn đến tranh chấp do nhiều điều kiện như thông tin chưa phát triển lúc bấy giờ.[34] Thế kỷ XIX, những điều kiện mới xuất hiện đã đặt ra yêu cầu cách thức chiếm hữu bằng phát hiện hiện cần song hành với thời gian hợp lý bởi chiếm hữu thực sự (effective occupation).[35] Hai yếu tố cần xét đến để chứng minh sự hữu hiệu của chiếm hữu (occupation) chính là sự chiếm hữu (possession) và sự quản lý hành chính (administration).[36] Nói một cách dễ hiểu, chiếm hữu hữu hiệu được thể hiện thông qua sự chiếm hữu về mặt lãnh thổ và động thái quản lý của chính quyền nhà nước. Sự chiếm hữu (possession) ở đây bao gồm hai điều kiện: (i) chiếm hữu hữu hình (corpus) , có thể được biểu hiện tùy thuộc vào đặc điểm lãnh thổ; và (ii) ý định chiếm hữu lãnh thổ  (animus) , thường được chứng minh thông qua những động thái chính thức thể hiện ý định xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ mới được chiếm hữu của quốc gia có yêu sách chủ quyền.[37] Phân tích về chiếm hữu thực sự, James Crawford[38] trích dẫn nhận định của tòa trong Vụ Eastern Greenland (Đan Mạch v. Na Uy) : “Một yêu sách chủ quyền không dựa trên một số hành động cụ thể hay danh nghĩa chủ quyền được thiết lập dựa trên điều ước chuyển nhượng mà chỉ dựa trên việc tiếp tục thể hiện thẩm quyền, bao gồm hai yếu tố mà mỗi yếu tố phải được chứng minh là tồn tại: ý định và ý chí hành động với tư cách chủ quyền, và một số hành động thực tế hoặc sự thể hiện thẩm quyền đó.” [39] Lập luận về chiếm hữu thực sự này sau đó tiếp tục được đề cập tới trong một số vụ việc như Eritrea v. Yemen. [40] Theo đó, ý định của quốc gia trong việc thiết lập chủ quyền đối với lãnh thổ và những động thái trên thực tế là hai điều kiện tối quan trọng để quốc gia thụ đắc lãnh thổ theo cách thức chiếm hữu thực sự. Yếu tố quản lý (administration) đòi hỏi quốc gia chiếm hữu cần có các động thái quản lý tiếp sau khi chiếm hữu lãnh thổ terra nullius để được cấu thành thành chiếm hữu thực sự.[41] Trong Định ước Berlin năm 1885, mặc dù chỉ giới hạn giữa các thành viên tham gia Hội nghị Berlin và lãnh thổ châu Phi, cũng quy định hai điều kiện công nhận tính hợp pháp của hành động chiếm hữu với các vùng lãnh thổ châu Phi là phải thông báo cho các quốc gia tham gia hội nghị và nước chiếm hữu phải duy trì sự hiện diện của nhà nước tại vùng lãnh thổ mới chiếm hữu.[42] Mối tương quan giữa phát hiện và chiếm hữu thực sự có thể được nhìn thấy trong Vụ Đảo Palmas. Trong vụ việc này, Hoa Kỳ cho rằng theo Hiệp ước Paris năm 1898, Tây Ban Nha đã nhượng lại toàn bộ chủ quyền của Tây Ban Nha đối với đảo này dựa trên việc Tây Ban Nha đã phát hiện đảo vào thế kỷ XIV, trong khi Hà Lan khẳng định nước này đã xác lập chủ quyền thông qua việc thực thi chủ quyền trong thời gian dài.[43] Tòa trọng tài nhận định sự phát hiện chỉ tạo ra danh nghĩa ban đầu (inchoate title) , không có những động thái chiếm hữu trên thực tế.[44] Danh nghĩa này chỉ được hoàn thiện đầy đủ với “việc chiếm hữu thực chất khu vực được cho là được phát hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (a reasonable period)”.[45] Như vậy Tây Ban Nha đã không thể xác lập chủ quyền đầy đủ đối với đảo Palmas, do đó không thể chuyển nhượng cho Hoa Kỳ nhiều hơn những gì Tây Ban Nha có.[46] Như vậy, chiếm hữu từ lâu đã xuất hiện trong buổi bình minh của luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ và sau này được phát triển và hoàn thiện bởi những đòi hỏi chặt chẽ về chiếm hữu thực sự. Tuy theo thời gian, việc chứng minh tiền đề terra nullius ngày càng khó khăn và phức tạp do sự trái biệt về các học thuyết và tiến bộ công nghệ - kic thuật. Thực tiễn quốc tế cho thấy chính sự khó khăn này dẫn đến việc khó phân biệt rạch ròi giữa cách thức chiếm hữu và chiếm hữu theo thời hiệu. 3. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức chiếm hữu theo thời hiệu (Prescription) Chiếm hữu theo thời hiệu là cách thức xác lập chủ quyền lãnh thổ dựa trên các hoạt động thực thi chủ quyền thực chất, hòa bình, liên tục trong một khoảng thời gian hợp lý.[47] Đối tượng của chiếm hữu theo thời hiệu là lãnh thổ được giành từ một quốc gia khác một cách bất hợp pháp, không phải là lãnh thổ vô chủ, hoặc những trường hợp không xác minh được tính hợp pháp của hành vi thụ đắc lãnh thổ.[48] Chiếm hữu theo thời hiệu yêu cầu bên xác lập chủ quyền phải đáp ứng quá trình thụ đắc các yếu tố thực thi chủ quyền phải thực chất, phải hoà bình, không bị các quốc gia khác phản đối[49] dẫn đến sự gián đoạn tiến trình thụ đắc. Paul Fauchille chỉ ra bốn điều kiện để thụ đắc lãnh thổ bằng cách thức chiếm hữu theo thời hiệu trong luật quốc tế như sau: (i) việc chiếm hữu cần phải được thực thi với tư cách chủ quyền  (à titre de souverain) , quốc gia thụ đắc không chỉ cần thực thi chủ quyền mà còn cần không thừa nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào khác tại vùng lãnh thổ được thụ đắc; (ii) sự chiếm hữu cần hòa bình và không bị gián đoạn, hay được hiểu là yêu sách chủ quyền của một quốc gia trên vùng lãnh thổ liên quan không bị thách thức; (iii) chiếm hữu phải công khai; (iv) chiếm hữu phải liên tục (persist).[50][51] Các điều kiện trên nhận được sự đồng tình của nhiều học giả như James Crawford,[52] hay David Johnson.[53] Tòa trọng tài trong Vụ Chamizal (Hoa Kỳ v. Mexico)  cũng sử dụng những điều kiện này để phủ nhận lãnh thổ El Chamizal trong vụ việc được Hoa Kỳ thụ đắc bằng cách thức chiếm hữu theo thời hiệu khi các trọng tài đồng thuận rằng không có gì chắc chắn quá trình chiếm hữu của Mỹ tại khu vực này không bị xáo trộn, gián đoạn và thách thức kể từ ngày ký thỏa thuận thành lập tòa trọng tài.[54] Mặt khác, sự chiếm hữu vật chất của công dân Hoa Kỳ và sự kiểm soát chính quyền của chính quyền địa phương và chính phủ liên bang đã luôn bị thách thức và hoài nghi thông qua các nhà ngoại giao của Mexico.[55] Phản đối ngoại giao hay các hành động hay phát biểu khác có tính chất phản đối đối với tình trạng chiếm hữu hữu hiệu sẽ vô hiệu hóa việc chiếm hữu theo thời hiệu[56] khi gián đoạn quá trình chiếm hữu. Trong một số trường hợp, sự chấp thuận của bên đối lập cũng trở thành một yếu tố quan trọng trong đánh giá yêu sách của một quốc gia dựa trên chiếm hữu theo thời hiệu.[57] Sự chấp thuận ở đây là sự im lặng hoặc không có sự phản đối của các quốc gia trong điều kiện cần thiết phải có những động thái phản đối rõ rệt.[58] Vụ Chamizal nêu trên là một ví dụ điển hình. Yêu cầu về “một khoảng thời gian hợp lý” không phải điều kiện mang yếu tố quyết định mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác và tình tiết vụ việc.[59] Trên thực tế, thời hiệu chỉ đóng vai trò bổ trợ chứng minh sự kiểm soát hiệu quả của một quốc gia đối với vùng lãnh thổ đó.[60] Trong một số vụ việc cụ thể, không dễ để phân biệt cách thức thụ đắc là chiếm hữu theo thời hiệu hay chiếm hữu thực sự do sự ngặt nghèo trong việc chứng minh terra nullius, liệu có hay không vùng lãnh thổ đó thật sự là terra nullius hay từng thuộc chủ quyền một quốc gia “thứ nhất” trước khi quốc gia “thứ hai” đưa ra yêu sách chủ quyền. Chẳng hạn, trong Vụ Đảo Palmas , phán quyết trọng tài không khẳng định liệu hòn đảo có thuộc chủ quyền Tây Ban Nha[1]  trước khi Hà Lan tiến hành kiểm soát hay không.[61] Trong trường hợp từ bỏ chủ quyền lãnh thổ[62] khi cần chứng minh quốc gia ban đầu đã từ bỏ cả về lãnh thổ (corpus) và ý định chiếm hữu lãnh thổ đó (aminus). [63] Tóm lại, cách thức chiếm hữu theo thời hiệu là cách thức thụ đắc lãnh thổ đối với lãnh thổ không phải vô chủ (terra nullius), dựa trên chiếm hữu thực sự, hòa bình, liên tục trong một khoảng thời gian hợp lý. 4. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức bồi tụ (Accretion) Bồi tụ (Accretion) là phương thức thụ đắc lãnh thổ thông qua các hiện tượng tự nhiên như bồi đắp phù sa, chuyển dòng chậm rãi của sông, hoạt động núi lửa hoặc do quá trình kiến tạo đất liền làm phát sinh phần lãnh thổ gắn liền với lãnh thổ hiện hữu của một quốc gia.[64] Theo đó, quốc gia có quyền xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mới hình thành này với điều kiện quá trình bồi tụ phải diễn ra một cách khách quan, tự nhiên và từ từ, và không làm phát sinh tranh chấp từ các quốc gia lân cận.[65] Một ví dụ điển hình về việc công nhận lãnh thổ mới do hoạt động của núi lửa là sự công nhận một hòn đảo mới nổi lên trong vùng biển lãnh hải của đảo Iwo Jima thuộc Nhật Bản năm 1986, sự kiện này đã được chính phủ Anh công nhận ngay lập tức là một phần lãnh thổ của Nhật Bản mà không cần các hành động chiếm hữu chính thức nào.[66] Trái ngược với bồi tụ (accretion), thuật ngữ xói mòn hay chuyển dịch đột ngột (avulsion) cũng thường được đề cập đến khi nói về cách thức thụ đắc lãnh thổ này, đặc biệt là các dòng sông biên giới.[67] Sự chuyển dịch tự nhiên của dòng sông, qua thời gian có thể làm thay đổi đường biên giới đã vạch ra trước đó, và đặt ra câu hỏi đường biên giới giữa hai quốc gia có dịch chuyển theo dòng chảy mới không? Câu trả lời phụ thuộc vào cách thức dịch chuyển của dòng sông. Trường hợp dòng sông thay đổi một cách đột ngột, mạnh mẽ và đáng kể (avulsion) thì sẽ không được xem là thay đổi đường biên giới; nói cách khác, đường biên giới sông lúc này không được tính theo dòng nước mà theo phần đất bên dưới.[68] Ngược lại, trường hợp thay đổi của dòng sông là sự tích lũy trầm tích và không dễ nhận thấy, có thể dẫn đến việc mở rộng chủ quyền của quốc gia ven sông.[69] Tính chất từ từ của quá trình bồi tụ dẫn đến sự giả định về chiếm hữu của quốc gia ven sông và sự mặc nhiên chấp nhận của các quốc gia khác; do đó biên giới lúc này được xem là chuyển dịch với sự thay đổi dòng sông.[70] Điều này cũng được áp dụng đối với các hồ biên giới.[71] Ví dụ trong vụ  Nebraska v. lowa,  143 U.S. 359 (1892), Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã xác định biên giới giữa hai bang là dòng sông Missouri vốn có sự thay đổi dòng chảy theo thời gian và là thay đổi đột ngột (avulsion), do đó ranh giới giữa bang Nebraska và bang lowa vẫn được giữ nguyên tại dòng chảy cũ.[72] Tương tự, vụ Chamizal  (Mexico v. Hoa Kỳ) là một ví dụ điển hình cho quá trình bồi tụ liên quan đến sự dịch chuyển dòng chảy tự nhiên của sông Rio Grande. Theo đó, phán quyết trọng tài đã xác định rằng những thay đổi ở Rio Grande trong khoảng thời gian từ năm 1852 đến năm 1864 là kết quả của quá trình xói mòn dần dần và lắng đọng phù sa, trong khi vào năm 1864 là sự thay đổi đột ngột.[73] Do đó đường biên giới sông được giữ nguyên tại trung tâm dòng sông như đã được xác định vào thời điểm trước trận lũ năm 1864, ngược lại sự thay đổi đột ngột trong trận lũ năm 1864 không được xem là cơ sở hợp pháp cho việc thay đổi biên giới.[74] Như vậy phần diện tích đất hình thành trước năm 1864 được xác định là kết quả của quá trình bồi tụ tự nhiên và dần dần, nên được xem là thụ đắc hợp pháp theo nguyên tắc bồi tụ. Tóm lại, trong thực tiễn quốc tế, bồi tụ vừa là kết quả của các quá trình tự nhiên, vừa là cơ sở để quốc gia ven biên xác lập và mở rộng chủ quyền một cách hòa bình. Khác với sự thay đổi đột ngột (avulsion), quá trình bồi tụ chậm rãi, khách quan và liên tục thường dẫn đến sự mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của quốc gia ven sông hoặc vùng lãnh thổ tiếp giáp. Các phán quyết quốc tế như vụ Nebraska v. Iowa  hay Chamizal được nhắc đến ở trên đã làm rõ sự phân biệt giữa hai khái niệm này và khẳng định nguyên tắc: sự dịch chuyển lãnh thổ do bồi tụ có thể làm thay đổi đường biên giới, với điều kiện không có tranh chấp và được các bên mặc nhiên chấp nhận. 5. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức sử dụng vũ lực/xâm lược Phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng xâm lược là một khái niệm từng tồn tại trong luật quốc tế, khi các quốc gia sử dụng vũ lực để chiếm đóng và sáp nhập lãnh thổ của một quốc gia khác.[75] Về mặt lịch sử, xâm lược từng được coi là một phương thức hợp pháp để thụ đắc lãnh thổ. Bởi trước thế kỷ XX, luật pháp quốc tế không phân biệt nguyên nhân chính đáng và không chính đáng của các hành vi xâm lược, cũng như không cấm việc sử dụng vũ lực để mở rộng lãnh thổ; do đó, việc chiếm đoạt lãnh thổ bởi các hành vi xâm lược không bị xem là injuria  (hành vi sai trái).[76] Điều này có thể thấy qua lịch sử mở rộng quyền lực của Anh ở Ấn Độ; của chủ quyền Hà Lan tại Đông Ấn; của quyền lực đế quốc Nga ở Bắc và Trung Á; và của sự cai trị của Pháp ở Đông Dương.[77] Tuy nhiên, sự phát triển của luật quốc tế đã nghiêm cấm hành vi xâm lược và coi việc thụ đắc lãnh thổ do sử dụng vũ lực là bất hợp pháp.[78] Quá trình phát triển của nguyên tắc này bắt đầu từ sau Thế chiến I với sự ra đời của Hiệp ước Thành lập Hội Quốc Liên (1919). Trong đó Điều 10 của Hiệp ước nêu rõ: “ Các thành viên của Liên minh cam kết tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị hiện có của tất cả các thành viên của Liên minh trước sự xâm lược từ bên ngoài.” [79] Hiệu quả của điều khoản này là cấm tuyệt đối việc chiếm hữu lãnh thổ bằng vũ lực và buộc thành viên của Hiệp ước phải cam kết ngăn chặn mọi hành vi xâm lược khi chúng xảy ra.[80] Tuy nhiên Hiệp ước năm 1919 không hoàn toàn coi tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược trở thành bất hợp pháp, do các điều khoản chủ yếu nhằm ngăn chặn chiến tranh bằng cách khuyến khích quốc gia giải quyết tranh chấp bằng các phương thức hòa bình.[81] Tiếp sau Hiệp ước năm 1919, Hiệp ước Kelogg-Briand năm 1928 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc pháp điển hóa nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, khi hầu hết các cường quốc trên thế giới đều bỏ quyền sử dụng chiến tranh như một công cụ của chính sách quốc gia.[82] Tuy nhiên, chiến tranh vẫn được coi là hợp pháp trong trường hợp tự vệ - một ngoại lệ không được nêu rõ trong văn bản của Hiệp ước nhưng đã được ngầm hiểu trong các cuộc trao đổi ngoại giao trước kí kết.[83] Theo các học giả như McMahon và Brownlie phân tích, việc các quốc gia khác tham gia vào “chiến tranh trừng phạt” để khôi phục hòa bình, có thể đẫn đến sự thay đổi lãnh thổ và được cộng đồng quốc tế công nhận nếu thấy đây là biện pháp cần thiết để ngăn chặn sự tái phát xâm lược trong tương lai.[84] Do đó, Hiệp ước Kelogg-Briand chỉ tăng cường hạn chế đối với hành vi mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực, mà không loại bỏ hoàn toàn khả năng thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức này, đặc biệt khi đi kèm với vấn đề trừng phạt kẻ xâm lược và duy trì an ninh tập thể.[85] Với sự phát triển của luật pháp quốc tế sau Thế chiến II, sự ra đời của Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định rõ ràng và dứt khoát Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực nhằm mở rộng lãnh thổ. Cụ thể Điều 2(4) của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định tất cả các quốc gia thành viên phải từ bỏ đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực nhằm chống lại toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào.[86] Tương tự, Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhấn mạnh “sự không thể chấp nhận của việc chiếm lãnh thổ bằng chiến tranh”.[87] Và Tuyên bố Các Nguyên tắc Pháp lý Quốc tế năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng quy định: “ Lãnh thổ của một quốc gia sẽ không phải là đối tượng của việc chiếm đoạt bởi một quốc gia khác thông qua đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Không có sự chiếm đoạt lãnh thổ nào từ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực sẽ được công nhận là hợp pháp ”.[88] Sau năm 1945, Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực không chỉ được quy định trong các văn kiện pháp lý mà còn được được củng cố trong thực tiễn thông qua phản ứng của cộng đồng quốc tế và được công nhận là một quy phạm tập quán quốc tế trong phán quyết kinh điển  Vụ Nicaragua v. Mỹ năm 1986.[89] Bên cạnh đó, Nguyên tắc trên liên tục được khẳng định thông qua các trường hợp cụ thể khi một số quốc gia tìm cách chiếm đóng lãnh thổ bằng vũ lực, song đều không được cộng đồng quốc tế công nhận.[90] Một ví dụ điển hình của việc bác bỏ hành vi sử dụng vũ lực là trường hợp Iraq xâm lược Kuwait năm 1990. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã nhanh chóng lên án hành vi xâm lược và quyết định rằng việc Iraq tuyên bố sáp nhập Kuwait “dưới bất kỳ hình thức nào và với bất kỳ lý do nào đều không có giá trị pháp lý và bị coi là vô hiệu”.[91] Sự kiện này đã tái khẳng định rằng việc chiếm lãnh thổ bằng vũ lực là bất hợp pháp và không thể tạo ra quyền thụ đắc lãnh thổ theo luật quốc tế hiện nay. Như vậy, mặc dù trong lịch sử, xâm lược từng được coi là phương thức hợp pháp để thụ đắc lãnh thổ, song sự phát triển của luật pháp quốc tế hiện đại đã từng bước xóa bỏ tính chính danh của phương thức này. Từ Hiệp ước thành lập Hội Quốc Liên năm 1919, Hiệp ước Kellogg-Briand năm 1928, đến Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 và các văn kiện tiếp theo, nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực nhằm mở rộng lãnh thổ đã được xác lập một cách rõ ràng, dứt khoát, và được củng cố bằng thực tiễn pháp lý quốc tế. Việc thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực không chỉ bị lên án về mặt pháp lý mà còn không được cộng đồng quốc tế công nhận trong mọi hình thức. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, cũng như bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong thời đại hiện nay.   Kết luận:  Trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ vẫn đang diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới, việc hiểu rõ các phương thức thụ đắc lãnh thổ mang ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ chủ quyền, cũng như thúc đẩy giải quyết tranh chấp một cách hòa bình trên nền tảng pháp lý vững chắc. Trên cơ sở đó, bài viết đã tập trung phân tích năm phương thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản trong luật quốc tế: chuyển nhượng, chiếm hữu, chiếm hữu theo thời hiệu, bồi tụ, và xâm lược (đã không còn hợp pháp). Mỗi phương thức được làm rõ thông qua cơ sở pháp lý, điều kiện áp dụng, cũng như các ví dụ minh họa từ án lệ và thực tiễn quốc tế, như  Vụ Đảo Palmas  hay Vụ Chamizal. Qua đó, bài viết giúp người đọc có cái nhìn hệ thống và thực tiễn về cách thức các quốc gia có thể mở rộng hoặc xác lập chủ quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế, phù hợp với sự phát triển của luật pháp quốc tế hiện đại. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Robert Jennings and Arthur Watts (biên tập), Oppenheim’s International Law, vol 1 (9th edn, Longman 1992) p. 677. Xem thêm James Crawford,  Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, OUP 2012), p.221. [2] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008) p.495. Xem thêm O’Connell, Law, p. 405 [3] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, OUP 2012), p.221-222. [4] [5] [6] Malcolm N. Shaw, International Law  (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 499. [7] [46] Island of Palmas  (1928) 2 RIAA, p. 829 (1928); 4 AD, p.103. [8]  Ida Robinson Smith Putnam (USA) v United Mexican States 4 RIAA, p.158 (1925); 3 AD, p. 336 [9] Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, Điều 43 - 53. [10] Oliver Dörr, ‘Cession’ (Oxford Public International Law, August 2019), < https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e1377?prd=MPIL > truy cập ngày 11/05/2025. [11] Joint declaration of the government of the United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland and The Government of The People's Republic of China on the question of Hongkong 1984, Điều 3(1). [12] Hiệp định về Chuyển nhượng của Nga hoàng các tài sản của Nga tại Bắc Mỹ cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Điều 1, < http://avalon.law.yale.edu/19th_century/treatywi.asp > truy cập ngày 13/05/2025. [13] Louisiana Purchase Treaty, 1803. [14] Anglo - German Treaty, 1890. [15] Surya Prakash Sharma, Territorial Acquisition, Disputes, and International Law (Martinus Nijhoff Publishers, 1997), p.62. [16] [21] [22] Peter Malanckzuk,  Akehurst’s Modern Introduction to International Law  (7th ed., Routledge, 1997), p.148. [17] Randall Lesaffer, ‘Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription’, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.40, < http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf > truy cập ngày 10/05/2025. [18] Western Sahara , Advisory opinion 1975, p.38-39, para. 79 - 83. [19] [39] Legal Status of Eastern Greenland , Judgement, P.C.I.J. 1933 (Series A/B, No. 53). [20] [27] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p.503. [23] James Crawford, The Creation of States in International Law  (2nd ed., Oxford University Press, 2006), p.259. [24]  Western Sahara , Advisory opinion 1975 p.38-39, para. 80. [25]  “In the modern context, it has fallen into disuse. This is because there remains on the surface of the earth no truly ‘vacant’ territory”  trích từ James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) p.220. [26] [28] [32] Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p.148 - 150. [29] Surya Prakash Sharma, Territorial Acquisition, Disputes, and International Law (Martinus Nijhoff Publishers, 1997), p.40 - 46. [30] Phạm Lan Dung (Chủ biên),  Giáo trình Công pháp Quốc tế , (Nhà xuất bản Thanh niên 2024), tr. 200. [31] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) p.223. [33] [48] Malcolm N. Shaw,  International Law  (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 504. [34] Phạm Lan Dung (Chủ biên), Giáo trình Công pháp Quốc tế , (Nhà xuất bản Thanh niên 2024), tr. 200. Xem thêm Trần Thị Thuỳ Dương, Nguyễn Thị Yên (Chủ biên), Giáo trình công pháp quốc tế , quyển 1 (Nhà xuất bản Công an nhân dân), tr. 247. [35] Island of Palmas  (1928) 2 RIAA, p. 829, 846; 4 AD, p. 103, 108. [36] [37] [41] Robert Jennings and Arthur Watts, Oppenheim’s International Law (Oxford University Press, 1996), p. 688 - 689. [38] James Crawford, B rownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012), p.222. [40]  Eritrea v. Yemen  (1998) 114 ILR 1, p.69. [42] General Act of the Berlin Conference on West Africa 1885, Article 34, 35. [43] Island of Palmas (1928) 2 RIAA. [44] [45]  Island of Palmas (1928) 2 RIAA, p. 846. [47] I.A. Shearer (ed.), Starke’s International Law (11th ed., 1994), at 153. [49] Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law  (7th ed., Routledge, 1997), p. 150 - 154. [50] Paul Fauchille, Traité de droit international public  (8th ed., 1925), p. 760-761. [51] Fauchille rút những điều kiện này từ Bộ luật Dân sự Pháp. Trích từ Randall Lesaffer, “Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription”, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.40. Retrieved from < http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf > truy cập ngày 10/05/2025. [52] James Crawford,  Brownlie’s Principles of Public International Law (8th ed., Oxford University Press 2012) p.231. [53] David Johnson, ‘Acquisitive Prescription in International Law’ [1950] The British Year Book of International Law, p.343. [54] [55] Chamizal  (1911) 11 RIAA 309, p.328. Xem thêm Randall Lesaffer, ‘Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription’, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.51, < http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf > truy cập ngày 13/05/2025. [56] Trần Hữu Duy Minh, ‘Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ’ (Công pháp Quốc tế, 2024) < https://iuscogens-vie.org/2017/09/22/35/#_ftnref8 > truy cập ngày 20/04/2025. [57] I.C. MacGibbon, ‘The Scope of Acquiescence in International Law’, [1954] The British Year Book of International Law, p.154. [58] I.C. MacGibbon, ‘The Scope of Acquiescence in International Law’, [1954] The British Year Book of International Law, p.143 - 186. [61] James Crawford,  Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) p.230. Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p. 150. [59] [60] [62] Malcolm N. Shaw,  International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 504 - 507. [63] Charles L O Buderi, Luciana T Ricart, ‘Modes of Acquisition and Effective Control of Territory’ [2018] The Iran-UAE Gulf Islands Dispute, p.158. [64] [65] [67] Malcolm N. Shaw, International Law  (6th edn, Cambridge University Press 2008)​ p.498. [66] Geoffrey Marston, ‘United Kingdom Materials on International Law 1986’ (1986) 57 British Yearbook of International Law  487, 563.​ Trích từ James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) 240. [68] [69] [70] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) 240-241. [71] “Đối với các hồ biên giới, nguyên tắc được áp dụng là đường trung tuyến (median line), nhưng như thường lệ, các thỏa thuận rõ ràng hoặc sự mặc nhiên chấp nhận cũng có thể dẫn đến những cách phân chia khác.”  Trích từ James Crawford, (8th edn, Oxford University Press 2012) p.240-241. [72]  Nebraska v. Iowa, 143 U.S. 359 (1892). [73] [74]  Chamizal (1911) 11 RIAA 309, p.316. Đọc thêm tại Ram Prakash Anand, “Accretion” trong Rüdiger Wolfrum, Anne Peters (biên tập), The Max Planck Encyclopedias of Public International Law  (Oxford University Press 2006). [75]  Malcolm N. Shaw, International Law  (6th edn, Cambridge University Press 2008), p.​ 500 - 501. [76] [77] Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice  (Oxford University Press 1996), p.12, p.64. [78] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) 243. [79]  Covenant of the League of Nations  (1919), Điều 10. [80] [81] [83]  Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice  (Oxford University Press 1996), p.180-193. [84] Ibid, p. 193-198. [85] Ibid, p. 197-199. [86]  Hiến chương Liên Hợp Quốc 1 UNTS XVI, Điều 2(4). [87]  Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (ngày 22/11/1967) UN Doc S/RES/242. [88] Tuyên bố về Các Nguyên tắc Pháp lý Quốc tế liên quan đến Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác giữa Các Quốc gia UNGA Res 2625 (XXV) (1970). Xem thêm Điều 5(3) của Định nghĩa đồng thuận về xâm lược được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1974. Xem thêm Malcolm N. Shaw, International Law  (6th edn, Cambridge University Press 2008)​ 502.  [89] Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua v. United States of America). Merits, Judgment. I.C.J. Reports 1986, p. 14 [90]  Xem Vụ Israel sáp nhập Đông Jerusalem (1967) và Cao nguyên Golan (1981). Xem thêm trong Vụ chiến tranh Falklands (1982); Trường hợp Ấn Độ sáp nhập Goa (1961), Indonesia sáp nhập Đông Timor (1976). [91] Nghị quyết 662 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc UN Doc S/RES/662 (1990). Xem thêm Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice  (Oxford University Press 1996), p. 292-301.

  • [74] TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

    Tác giả: Nguyễn Hoàng Trang, Phùng Đăng Khôi Dẫn nhập: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng hiện nay, các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ thương mại quốc tế nói riêng ngày càng phổ biến. Theo đó, các tranh chấp thương mại quốc tế phát sinh được giải quyết ngày càng gia tăng. Trọng tài thương mại quốc tế ("TTTMQT")  - một phương thức giải quyết tranh chấp ("GQTC")  trao cho các bên nhiều quyền định đoạt các vấn đề trong quá trình giải quyết tranh chấp, đã trở thành một trong những phương pháp chủ yếu nhằm giải quyết xung đột giữa các chủ thể tới từ nhiều quốc gia. Từ khoá: trọng tài thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp. 1. Giới thiệu 1.1. Một số khái niệm căn bản liên quan đến TTTMQT Từ điển Black’s Law định nghĩa trọng tài ( arbitration ) là: “Một phương pháp giải quyết tranh chấp có sự tham gia của một hoặc nhiều bên thứ ba trung gian, được chấp thuận bởi các bên trong tranh chấp và có quyền năng đưa ra quyết định có tính ràng buộc.”[1] Tác giả Jan Paulsson có quan điểm như sau: “Tư tưởng cốt lõi về trọng tài là việc giải quyết tranh chấp có giá trị ràng buộc mà các bên chấp nhận, bởi họ đã dành sự tín nhiệm đặc biệt đối với những người được lựa chọn làm trọng tài viên.”[2] Nói cách khác, trọng tài là một thủ tục hoặc phương pháp GQTC mà tại đó các bên trong tranh chấp, là cá nhân hoặc pháp nhân, cùng đồng thuận thông qua thỏa thuận trọng tài ( agreement to arbitrate ) để chọn ra các trọng tài viên trung lập, độc lập và vô tư mà họ tin tưởng. Theo đó, các bên trao cho trọng tài viên quyền lực GQTC và đưa ra phán quyết trọng tài ( award ) có tính ràng buộc và hiệu lực thi hành. Về tính chất quốc tế , trọng tài là trọng tài quốc tế nếu (i) Các bên trong tranh chấp có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau; hoặc (ii) Có bất kỳ địa điểm nào mà tại đó một phần đáng kể nghĩa vụ của quan hệ thương mại được thực hiện hoặc địa điểm có mối liên hệ chặt chẽ nhất với đối tượng của tranh chấp nằm ở quốc gia khác so với quốc gia mà các bên cùng có trụ sở kinh doanh; hoặc (iii) Các bên đã thỏa thuận rõ ràng rằng đối tượng của thỏa thuận trọng tài có liên quan đến hơn một quốc gia.[3] Theo quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam, trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành GQTC ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.[4] Như vậy, hướng quy định này dẫn đến hệ quả rằng một tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài với đầy đủ các yếu tố của trọng tài quốc tế theo quan điểm của Luật mẫu vẫn được xem là phán quyết trọng tài trong nước tại Việt Nam, và ngược lại. Xuất phát từ tính chất quốc tế, TTTMQT không đơn thuần GQTC bằng một nguồn luật duy nhất, mà cần thiết phải có sự tham gia điều chỉnh của ít nhất bốn nguồn luật khác nhau.[5] Cụ thể là các nguồn luật điều chỉnh (i) hiệu lực của thoả thuận trọng tài; (ii) thủ tục tố tụng trọng tài; (iii) nội dung tranh chấp; (iv) công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. Theo quy định của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết được tuyên trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi việc công nhận và thi hành phán quyết đó được yêu cầu .[6] Trong khi đó, pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam quy định theo hướng phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết được tuyên bởi trọng tài nước ngoài, bất kể địa điểm ra phán quyết là ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.[7] Về  tính chất thương mại , cụm từ “thương mại” trong TTTMQT từng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm nhưng không giới hạn trong các giao dịch về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá, dịch vụ; đầu tư; thỏa thuận khai thác.[8] Tuy nhiên, hiện này trọng tài đầu tư quốc tế là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập bên cạnh trọng tài thương mại quốc tế[9] do trọng tài đầu tư đang trở thành cơ chế GQTC quan trọng giữa nhà đầu tư và nhà nước tiếp nhận đầu tư. 1.2. Lịch sử phát triển của TTTMQT Trọng tài đã xuất hiện rất lâu trước đây, trước cả khi mà pháp luật được quy định, toà án được hình thành.[10] Hình hài nguyên thuỷ của TTTMQT là khi hai thương nhân có tranh chấp cùng tìm tới một bên thứ ba mà họ tin tưởng nhằm tháo gỡ khúc mắc và đồng ý thực hiện theo quyết định của người thứ ba trung gian kia vì đó là thông lệ của giới thương nhân.[[11] Theo đó, GQTC bằng con đường trong tài còn được xem là một hệ thống công lý được sinh ra bởi các thương nhân.[12] TTTMQT dần trở nên phổ biến hơn vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX,[13] đặc biệt là ở Châu Âu cùng với xu thế phát triển nhanh của thương mại quốc tế và sự xuất hiện của các trung tâm trọng tài.[14] Pháp luật về TTTMQT cũng dần dần được hình thành chặt chẽ hơn với sự ra đời của các điều ước quốc tế quan trọng, đã hình thành nên khung pháp lý cho pháp luật quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế.[15] Bên cạnh đó, tới nay, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (“UNCITRAL”) đã thành công xây dựng nhiều công cụ nhằm hài hòa hóa pháp luật thương mại quốc tế.[16] TTTMQT đã trở thành một phương thức GQTC phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu. 1.3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc (ad hoc) và trọng tài quy chế Trước khi tranh chấp được tiến hành giải quyết, trước tiên các bên cần phải lựa chọn GQTC theo hình thức trọng tài vụ việc hay trọng tài quy chế. Về  trọng tài vụ việc (ad hoc) , các bên trong tranh chấp được phép phối hợp, tự thỏa thuận về bất cứ quy tắc tố tụng trọng tài và trọng tài viên nào phù hợp nhất với lợi ích của các bên và do đó không bị ràng buộc bởi quy tắc của bất cứ trung tâm trọng tài nào. Do đó, thỏa thuận quy tắc tố tụng trọng tài ad hoc  giống như mặc một bộ suit may đo sẽ vừa vặn hơn so với một bộ suit may sẵn.[17] Về trọng tài quy chế , các bên thỏa thuận đưa tranh chấp của mình giải quyết tại một trung tâm trọng tài. Theo đó, trung tâm trọng tài sẽ cung cấp “dịch vụ trọng tài” và đảm bảo tranh chấp được giải quyết đúng thời trình tự và thủ tục.[18] Ưu điểm của hình thức này đó là mỗi trung tâm trọng tài quy chế thường có quy tắc trọng tài riêng của trung tâm và danh sách các trọng tài viên uy tín nên các bên trong tranh chấp không cần phải tự mình lựa chọn, giúp đỡ tốn kém thời gian. Bên cạnh đó, nếu quá trình GQTC bị cản trở bởi những vấn đề tư cách của trọng tài viên thì quy tắc tố tụng của trung tâm có thể trực tiếp giải quyết vấn đề này.[19] 2. Thỏa thuận trọng tài Việc GQTC bằng Tòa án luôn bị ràng buộc bởi quy tắc tố tụng dân sự chặt chẽ do Nhà nước ban hành.[20] Trong khi đó, các bên chỉ có thể đưa một tranh chấp vào quá trình tố tụng trọng tài khi và chỉ khi đã tồn tại một thỏa thuận trọng tài (“TTTT”) .[21] Một cách ngắn gọn, trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên đã có TTTT - một thỏa thuận ghi nhận sự đồng ý của các bên như một trong số các hình thức để GQTC hoặc đồng ý chọn trọng tài để GQTC.[22] 2.1. Thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài TTTT có thể được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh hoặc sau khi khi tranh chấp đã phát sinh.[23] Đối với thỏa thuận xác lập trước khi tranh chấp phát sinh, đây thông thường là một điều khoản arbitration clause  nằm trong một hợp đồng chính, thông thường rất ngắn gọn, bên cạnh sự lựa chọn về pháp luật điều chỉnh nội dung hợp đồng hay nơi GQTC.[24] Điều khoản trọng tài độc lập đối với hợp đồng chính[25]. Giả sử hợp đồng chính vô hiệu, thì điều khoản trọng tài vẫn có hiệu lực.[26] Thông thường, các trung tâm trọng tài sẽ công khai một điều khoản trọng tài mẫu mang tính chất tham khảo cho các bên. Ví dụ, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam ("VIAC") có điều khoản mẫu như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này.”. [27] Trong điều khoản này,   các bên có thể thỏa thuận thêm về số lượng trọng tài viên (01 hoặc 03) và địa điểm GQTC. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có thể thỏa thuận bổ sung về luật áp dụng cho hợp đồng và ngôn ngữ GQTC.[28] Đối với thỏa thuận xác lập sau khi tranh chấp phát sinh, TTTT submission agreement  đáp ứng tình hình tranh chấp thực tế. Thỏa thuận này thông thường chỉ rõ nơi GQTC, luật nội dung, chỉ định trọng tài viên, xác định vấn đề tranh chấp, và thậm chí là các vấn đề thủ tục khác.[29] 2.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài Hầu như các điều ước quốc tế liên quan đến trọng tài quốc tế đều quy định về việc hình thức của TTTT ở dạng văn bản. Trong đó, Công ước New York quy định TTTT là văn bản khi thỏa thuận đó là (i) hợp đồng, thỏa thuận trực tiếp được ký kết giữa các bên hoặc (ii) chứa đựng trong các thư tín là văn bản.[30] Tuy nhiên, quy định của Luật Mẫu không yêu cầu các bên phải trực tiếp ký kết vào TTTT.[31] Thay vào đó, Luật Mẫu công nhận một TTTT có hình thức văn bản khi (i) TTTT được ghi nhận dưới bất kỳ hình thức nào miễn là nội dung thỏa thuận được ghi chép lại, (ii) TTTT phải được lập thành văn bản thông qua phương thức liên lạc điện tử nếu thông tin chứa trong đó có thể truy cập nhằm phục vụ mục đích xác định thỏa thuận, (iii) TTTT được lập thông qua trao đổi yêu cầu khởi kiện và biện hộ trong đó sự tồn tại của một thỏa thuận được một bên đưa ra và không bị bên kia phủ nhận, và (v) hợp đồng viện dẫn đến tài liệu chứa đựng TTTT dưới dạng văn bản.[32] 2.3. Pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài Pháp luật điều chỉnh TTTT sẽ điều chỉnh các vấn đề thiết lập TTTT, điều kiện có hiệu lực, khả năng thực thi của TTTT, và chấm dứt của TTTT.[33]  Vì thế, thông thường, vấn đề xác định luật điều chỉnh được đặt ra khi có một trong các bên của tranh chấp phản đối thẩm quyền trọng tài. Chiếu theo nguyên tắc compétence de la compétence , chính hội đồng trọng tài sẽ phải xác định luật áp dụng đối với TTTT để xem xét liệu hội đồng trọng tài có thẩm quyền GQTC.[34] Mặc dù không trực tiếp đề cập vấn đề TTTT, tuy nhiên Công ước New York quy định về trường hợp có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trước tòa án quốc gia với lý do TTTT vô hiệu. Theo đó, hiệu lực của thỏa thuận sẽ được xem xét theo luật mà các bên lựa chọn, nếu các bên không lựa chọn thì theo luật của quốc gia nơi phán quyết được đưa ra[35], hay là luật của seat of arbitration  - nơi mà tố tụng trọng tài được coi là diễn ra về mặt pháp lý , bất kể vị trí địa lý của trọng tài và/hoặc bất kỳ phiên điều trần nào.[36] Thông thường, đối với TTTT tồn tại dưới dạng một điều khoản của một hợp đồng, thì cũng có thể suy rằng pháp luật áp dụng đối với hợp đồng chính cũng chính là pháp luật áp dụng đối với TTTT.[37] Tuy nhiên, như đã đề cập ở bên trên thì TTTT độc lập với hợp đồng chính, do đó, pháp luật điều chỉnh TTTT hoàn toàn có thể khác pháp luật điều chỉnh hợp đồng chính.[38] Cụ thể, theo quy định của Luật Trọng tài Anh sửa đổi năm 2025, luật áp dụng cho TTTT sẽ là luật các bên đồng ý áp dụng cho TTTT. Nếu các bên không thể hiện rõ ràng sự lựa chọn pháp luật áp dụng cho TTTT, thì luật nơi diễn ra trọng tài ( seat of arbitration ) được áp dụng. 3. Tố tụng trọng tài thương mại quốc tế Khác với tố tụng tại Tòa án vốn tuân theo những quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng dân sự, quy tắc tố tụng trọng tài có một sự linh hoạt nhất định - các bên trong tranh chấp có thể tự do thỏa thuận trong vấn đề tố tụng trọng tài.[39] Quyền tự định đoạt của các bên ( party autonomy ) đã được ghi nhận trong Công ước New York " thành phần của cơ quan trọng tài hoặc thủ tục trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên" [40] và Luật Mẫu   " các bên được tự do thỏa thuận về thủ tục mà tòa trọng tài phải tuân theo khi tiến hành tố tụng" [41]. Tuy vậy, quyền tự do định đoạt của các bên vẫn phải nằm trong khuôn khổ pháp luật của seat of arbitration [42], quy tắc trọng tài quy chế các bên đã lựa chọn,[43] và nguyên tắc đối xử bình đẳng và quyền được lắng nghe và trình bày về vụ kiện.[44] Các bước thường thấy của quá trình tố tụng trọng tài thương mại quốc tế bao gồm: (i) Nộp đơn khởi kiện, trả lời đơn khởi kiện; (ii) Chỉ định trọng tài viên; (iii) Cuộc họp sơ bộ giữa Hội đồng Trọng tài và các bên; (iv) Trao đổi văn bản đệ trình; (v) Phiên điều trần; và (vi) Hội đồng Trọng tài thảo luận và ra phán quyết.[45] 3.1. Nộp đơn khởi kiện, trả lời đơn khởi kiện và phản tố Quá trình tố tụng trọng tài bắt đầu vào thời điểm nguyên đơn gửi đơn khởi kiện đến đến tổ chức trọng tài ( request for arbitration )[46], hoặc vào thời điểm bị đơn nhận được và phản hồi thông báo.[47] Ví dụ, theo quy định Phòng Thương mại Quốc tế ("ICC"), và một số cơ quan trọng tài quy chế như Tòa Trọng tài Quốc tế London ("LCIA"), Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore ("SIAC"), và VIAC, quy trình tố tụng trọng tài được xem là bắt đầu vào ngày cơ quan nhận được thông báo trọng tài của nguyên đơn.[48] Trong khi đó, Quy tắc trọng tài UNCITRAL quy định quá trình tố tụng trọng tài bắt đầu vào ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện.[49] Sau khi nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn có nghĩa vụ trả lời đơn khởi kiện ( Answer to the Request for Arbitration hoặc Statement of Defence)  và có quyền phản tố (kiện ngược lại) nguyên đơn trong thời hạn do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của trọng tài quy chế.[50] Nhiều trung tâm trọng tài quy chế đều yêu cầu bị đơn phản tố nguyên đơn trong khi trả lời đơn khởi kiện của nguyên đơn,[51] tuy nhiên, cũng có trường hợp yêu cầu bản khởi kiện ngược được nộp cùng lúc và độc lập với bản trả lời đơn khởi kiện.[52] 3.2. Thành lập hội đồng trọng tài Số lượng trọng tài viên thông thường là một hoặc ba người.[53] Phương thức lựa chọn trọng tài viên có thể dựa theo thỏa thuận của các bên hoặc dựa theo quy định của tổ chức trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp lựa chọn thành lập Hội đồng Trọng tài (“HĐTT”) có ba trọng tài viên, phương thức lựa chọn phổ biến nhất là mỗi bên trong tranh chấp lựa chọn một trọng tài viên, và hai trọng tài viên đó sẽ lựa chọn một trọng tài viên thứ ba để trở thành Chủ tịch Hội đồng trọng tài.[54] Trọng tài viên có nghĩa vụ phải độc lập, vô tư, khách quan.[55] Nghĩa vụ vô tư, khách quan được hiểu là trọng tài viên không thiên vị với bất kỳ quan điểm nào về vấn đề đang giải quyết hay bất kỳ bên nào vì bất kỳ lý do gì.[56] Độc lập có nghĩa là trọng tài viên mô tả việc trọng tài viên không có mối liên hệ với bất kỳ bên nào trong tranh chấp, luật sư của các bên hoặc trọng tài viên khác.[57] 3.3. Họp sơ bộ (preliminary meetings) Khi trọng tài viên đã được chỉ định, cuộc họp sơ bộ sẽ được tổ chức bởi hội đồng để đảm bảo rằng HĐTT và các bên có một cách hiểu thống nhất về các vấn đề liên quan.[58] Tại phiên họp sơ bộ, bất kể là trọng tài quy chế hay vụ việc, thường giải quyết những vấn đề sơ bộ như: ghi nhận sự phản đối thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; về cấu trúc, độ dài của văn bản sẽ trao đổi; cung cấp tài liệu; các vấn đề liên quan đến nhân chứng; về thời gian và địa điểm của buổi thảo luận trước phiên điều trần và phiên họp đánh giá chứng cứ, và các vấn đề mang tính thủ tục khác như vai trò của Quy tắc IBA về việc thu thập chứng cứ, thẩm quyền của Chủ tịch HĐTT trong việc tự mình ra các chỉ thị về thủ tục, việc chỉ định thư ký trọng tài.[59] 3.4. Trao đổi văn bản đệ trình Văn bản đệ trình ( written submissions ) là các văn bản được nộp tuần tự hoặc cùng lúc với nhau bởi nguyên đơn và bị đơn lên HĐTT trước khi phiên họp GQTC ra và thông thường là  Bản trình bày yêu cầu khởi kiện ( statement of claims/statement of defence ) bao gồm đầy đủ lập luận của phía nguyên đơn hoặc bị đơn về các vấn đề pháp lý, đính kèm theo chứng cứ dạng văn bản, lời khai nhân chứng và ý kiến chuyên gia liên quan.[60] Nội dung và độ dài của nội dung mà các bên phải bao gồm trong văn bản đệ trình là do trọng tài viên hướng dẫn cụ thể và linh hoạt theo từng vụ việc.[61] Thời hạn nộp văn bản đệ trình được ấn định bởi trọng tài viên, có thể dài hoặc ngắn tùy thuộc vào mức độ phức tạp tranh chấp.[62] Đối với một số vụ việc với tính phức tạp cao, văn bản đệ trình sau phiên điều trần ( post-hearing written submissions ) được chấp nhận để các bên bình luận về các chứng cứ hoặc tóm tắt tổng quan các luận điểm được đưa ra trong phiên điều trần.[63] 3.5. Phiên họp giải quyết tranh chấp Phiên họp GQTC ( hearing ) là cuộc họp kín giữa các trọng tài viên và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp một cách trực tiếp hoặc bằng hình thức tele-conference, video-conference hoặc hình thức khác[64] nhằm thực hiện tranh luận, thẩm vấn giữa các bên, được thực hiện sau khi đã hoàn tất quá trình nộp văn bản đệ trình, tài liệu chứng cứ, lời khai nhân chứng.[65] HĐTT phải tổ chức phiên họp GQTC tại thời điểm thích hợp trong quá trình tố tụng trọng tài, trừ trường hợp các bên tranh chấp thống nhất sẽ không tổ chức phiên điều trần.[66] Trên thực tế, rất hiếm có trường hợp HĐTT giải quyết tranh chỉ dựa trên nội dung văn bản đệ trình của các bên, do bởi phiên họp GQTC là cơ hội để các bên trong tranh chấp trực tiếp tranh luận, cũng như HĐTT có thể làm rõ những vấn đề còn hoang mang trong văn bản đệ trình.[67]. Trình tự của thông thường của một phiên họp GQTC bao gồm: (i) Trình bày khai mạc ( opening statements ); (ii) phiên họp với nhân chứng sự việc ( hearing of witnesses of fact ); (iii) phiên họp với nhân chứng chuyên gia ( hearing of expert witnesses ); (iv) Trình bày bế mạc ( closing statements ) mà trong đó, hoạt động thẩm tra nhân chứng có vai trò trung tâm.[68] [69] 3.6. Chấm dứt quá trình tố tụng Khi phiên họp GQTC kết thúc, HĐTT bước vào giai đoạn nghị án ( deliberation ) nhằm đưa ra phán quyết trọng tài cuối cùng, giải quyết mọi vấn đề pháp lý trong tranh chấp của các bên. Theo đó, quá trình tố tụng trọng tài kết thúc khi phán quyết cuối cùng được đưa ra[70] và chỉ tiếp tục trong trường hợp phán quyết trọng tài có nhu cầu được sửa đổi hoặc giải thích.[71] Ngoài ra, Luật mẫu về TTTMQT cũng quy định tố tụng trọng tài cũng có thể kết thúc trong một số trường hợp sau:[72] (i) Nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu khởi kiện bị đình chỉ, mà không bị phản đối bởi bị đơn; (ii) Các bên trong tranh chấp đồng ý rút yêu cầu khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc; (iii) HĐTT thấy rằng việc tiếp tục tố tụng là không cần thiết hoặc bất khả thi. Tố tụng trọng tài kết thúc đồng nghĩa rằng nghĩa vụ GQTC của HĐTT đã chấm dứt.[73] 4. Phán quyết trọng tài thương mại quốc tế Hiện nay, định nghĩa về phán quyết trọng tài chưa nêu rõ trong các văn bản pháp lý quốc tế[74] tuy nhiên, phán quyết trọng tài thông thường được hiểu là những phán quyết chung thẩm (final award) của HĐTT mà giải quyết toàn bộ các vấn đề trước đó được các bên đệ trình.[75] Trên thực tế, “phán quyết trọng tài” cũng được sử dụng để đề cập tới những phán quyết từng phần (partial award), là bất kỳ quyết định nào của HĐTT, có tính chất chung thẩm nhưng chỉ kết thúc giải quyết một số vấn đề cụ thể về nội dung, thẩm quyền hoặc bất kỳ vấn đề tố tụng nào khác.[76] Phán quyết từng phần được HĐTT đưa ra để giải quyết nhanh gọn những vấn đề phát sinh trong quá trình tố tụng mà không cần phải chờ tới khi kết thúc tố tụng trọng tài, chẳng hạn như vấn đề về thẩm quyền của HĐTT hay biện pháp khẩn cấp tạm thời.[77] Tuy nhiên cần lưu ý rằng, chỉ có phán quyết chung thẩm mới là đối tượng để công nhận và cho thi hành.[78] Nhìn chung, phán quyết trọng tài có hai đặc điểm chính là chung thẩm và ràng buộc. Theo đó, các bên tự nguyện ràng buộc bản thân với phán quyết thông qua TTTT và phán quyết đưa ra là chung thẩm, hay nói cách khác là không thể kháng cáo, buộc các bên phải thực hiện nội dung phán quyết kể từ ngày có hiệu lực.[79] Sau khi tố tụng trọng tài kết thúc, bên thắng kiện tiến hành giai đoạn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài tại tòa án quốc gia nơi có tài sản của bên thua kiện. Yêu cầu công nhận và yêu cầu thi hành thường song hành nhưng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau và cũng đưa đến hệ quả pháp lý khác nhau. Cụ thể, công nhận phán quyết đơn thuần là việc toà án quốc gia công nhận hiệu lực và khả năng ràng buộc của phán quyết trọng tài thì thi hành phán quyết. Trong khi đó, thi hành phán quyết là quá trình mà tại đó việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế sử dụng các biện pháp thi hành án trong pháp luật quốc gia, buộc bên thua kiện thực hiện nghĩa vụ trong phán quyết trọng tài.[80] Hiện nay, thủ tục yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài quốc tế phần lớn được thực hiện thông qua Công ước New York 1958 đã được 172 quốc gia thông qua,[81] và các tinh thần quy định của Công ước New York đã được thể hiện trong Phần thứ Bảy của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 của Việt Nam, trong đó bao gồm các quy định và công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.[82] Theo đó, các quốc gia ký kết Công ước có nghĩa vụ công nhận giá trị ràng buộc và khả năng thi hành của các phán quyết trọng tài tuân thủ nguyên tắc pháp luật tố tụng của quốc gia đó và nguyên tắc được đề ra trong Công ước.[83] Điều kiện cho việc công nhận, cho thi hành phán quyết trọng tài theo pháp luật sở tại không được nghiêm ngặt hơn điều kiện quy định trong Công ước[84] và chỉ thực hiện từ chối không công nhận trong một số trường hợp nhất định như TTTT vô hiệu hay phán quyết trọng tài vi phạm trật tự công cộng.[85] Ngoài ra, yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại các quốc gia không phải là thành viên Công ước New York có thể được thực hiện trên cơ sở có đi có lại. 5. Kết luận Trọng tài thương mại quốc tế là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế được các bên tin tưởng lựa chọn bởi tính chất tôn trọng thỏa thuận của các bên, linh hoạt và phán quyết có giá trị ràng buộc. Với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại toàn cầu, trọng tài đã trở thành cơ chế giải quyết tranh chấp phổ biến, được xây dựng trên nền tảng các điều ước quốc tế quan trọng và sự hài hòa hóa pháp luật do UNCITRAL thúc đẩy. Các bên có thể tự định đoạt và thỏa thuận từ việc lựa chọn trọng tài thông qua thỏa thuận trọng tài, cho đến việc quyết định quá trình tố tụng, song vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của pháp luật. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Black’s Law Dictionary  (8th edition, Thomas West 2004) p.112. [2] Jan Paulsson, The Idea of Arbitration , (Oxford University Press 2013), p.1. [3] UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration, 1985, Art.  1(3). [4] Luật Trọng tài thương mại 2010, khoản 11 Điều 3. [5] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 1.08. [6] Công ước New York, Điều I(1) [7] Luật Trọng tài thương mại năm 2010, khoản 12 Điều 3. [8] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.38. [9] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.5. [10] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.7. [11] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 1.13 [12] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.15. [13] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.16. [14] Ví dụ một số trung tâm trọng tài hàng đầu: Tòa trọng tài Quốc tế London (LCIA), Tòa trọng tài thường trực (PCA) hay Tòa Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC). [15] Nghị định thư Geneva 1923 về Điều khoản trọng tài, Công ước Geneva 1927 về Thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài. [16] Luật Mẫu UNCITRAL về thương mại quốc tế và Quy tắc Trọng tài UNCITRAL [17] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.143. [18] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.9. [19] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.150. [20] TS. Bùi Thị Thu, 'Chọn luật áp dụng tại Tòa án và trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài - Một số khác biệt cơ bản' ( Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử , ngày 13 tháng 7 năm 2022), < https://tapchitoaan.vn/chon-luat-ap-dung-tai-toa-an-va-trong-tai-trong-giai-quyet-tranh-chap-thuong-mai-co-yeu-to-nuoc-ngoai-mot-so-khac-biet-co-ban6736.html >, truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2025. [21] Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, ‘Đặc san tuyên truyền pháp luật số 07/2013 - Chủ đề Trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại’ < https://thuvienso.net/upload/library/359284/preview/dac-san-tuyen-truyen-phap-luat-so-07-2013-359284.pdf > truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024. [22] GS.TS. Đỗ Văn Đại, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2022) Đoạn 118 [23] GS.TS. Đỗ Văn Đại, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2022) Đoạn 117 [24] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.02, 2.03, 2.04 [25] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 16.1; Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010, Điều 19; Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Điều 1447; Luật Trọng tài Anh năm 1996, Điều 6; Luật Trọng tài Singapore năm 2001, Điều 21(1). [26] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.101. [27] 'Điều khoản trọng tài mẫu' (VIAC), < https://www.viac.vn/dieu-khoan-trong-tai-mau.html >, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2025. [28] 'Điều khoản trọng tài mẫu' (VIAC), < https://www.viac.vn/dieu-khoan-trong-tai-mau.html >, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2025. [29] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.03. [30] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều II(1) [31] Ghi chú giải thích của Ban Thư ký UNCITRAL về Luật Mẫu năm 1985 về trọng tài thương mại quốc tế sửa đổi năm 2006, Đoạn 19. [32] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL, Điều 7. [33] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật trọng tài thương mại (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2021) Trang 9. [34] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 16(1). [35] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V(I)(a). [36] 'Seat of arbitration definition' (LexisNexis), < https://www.lexisnexis.co.uk/legal/glossary/seat-of-arbitration >, truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2025. [37] Lew, ‘The law applicable to the form and substance of the arbitration clause’ (1999) 9 ICCA Congress Series 114. [38] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 3.09. [39] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 6.01 [40] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V(1)(d) [41] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 19.1 [42] Đã giải thích ở Phần 2.3. [43] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật trọng tài thương mại (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2021) Trang 91. [44] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 18. [45] Asia-Pacific, 322 [46] Asia-Pacific, 323 [47] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.158. [48] ICC Rule, Art. 4(2); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 1.1; SIAC Rules 2025, Art. 6.2; VIAC Rules, Điều 5 [49] Quy tắc trọng tài UNCITRAL, Điều 3(2). [50] ICC Rule, Art. 5(1); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 2.1; SIAC Rules 2025, Art. 7.1; VIAC Rules, Điều 9 [51] ICC Rule, Art. 5(1)(5); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 2.1.iii; SIAC Rules 2025, Art. 7.1.e. [52] VIAC Rules, Điều 10. [53] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.24 [54] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.40. [55] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 12; Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010, khoản 2 Điều 4; Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Điều 1456; Luật Trọng tài Anh năm 1996, Điều 33(1)(a); Luật Trọng tài Singapore năm 2001, Điều 14. [56] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.80. [57]   Lack of Independence and Impartiality of Arbitrators [58] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.41. [59] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.47. [60]  Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 6.72. [61]  Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p. 166 - 167. [62] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.69.  [63]  Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.70. [64]   Quy tắc IBA về thu thập chứng cứ, Definitions . [65]  Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.161- 7.162. [66] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 24(1). [67] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.156. [68] Gary Born, International Arbitration: Law and Practice , (2nd edition, Wolters Kluwer 2015), p. 174. [69] Hoạt động thẩm tra trong phiên họp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế gồm ba giai đoạn. Đầu tiên, nhân chứng được thẩm tra trực tiếp ( direct examination ) bởi luật sư đại diện của cùng bên nhân chứng đó đại diện, sau đó được thẩm tra chéo ( cross examination ) bởi luật sư bên còn lại và cuối cùng tái thẩm tra ( redirect examination ) bởi luật sư cùng bên. [70] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 32(1). [71] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para 7.102. [72] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 32. [73] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para 7.10. [74] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.05. [75] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.190. [76] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.06. [77] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.19 [78]Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012, p.192. [79] Freya Baetens, ‘Arbitral Awards’ ( Oxford Public International Law , April 2023) < https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law-mpeipro/e1238.013.1238/law-mpeipro-e1238?p=emailA8uLnlthY325M&d=/10.1093/law-mpeipro/e1238.013.1238/law-mpeipro-e1238 > truy cập 25/07/2025. [80] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p. 212. [81] ‘Contracting States’ ( New York Convention ) < https://www.newyorkconvention.org/contracting-states > truy cập 25/07/2025. [82] Ngọc Trâm, 'Về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài trong BLTTDS 2015' ( Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử , ngày 25 tháng 6 năm 2018), < https://tapchitoaan.vn/thu-tuc-giai-quyet-vu-viec-dan-su-co-yeu-to-nuoc-ngoai-theo-blttds-2015? >, truy cập ngày 01 tháng 8 năm 2025. [83] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều III. [84] Như trên. [85] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V.

  • [73] QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT TRONG LUẬT QUỐC TẾ: SỰ ĐÓNG GÓP TỪ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    Tác giả: Đinh Văn Khiêm, Lê Thị Hiền Hạnh, Trương Hoàng Khôi Nguyên, Nguyễn Ngọc Trâm Tóm tắt:  “ Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng! Những ngực nén hít thở Ngày Độc lập! Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp! Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca… ” (Ngọn Quốc Kỳ, Xuân Diệu)  Tám mươi năm đã trôi qua, song ngày thu lịch sử ấy vẫn rực rỡ trong ký ức dân tộc, ngày mà nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã vùng dậy thành quốc gia độc lập, tự do. Ngày ấy, câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cột mốc chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. ” Nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 – 02/9/2025), nhóm tác giả xin gửi tới quý bạn đọc bài viết này. Bài viết tập trung phân tích lịch sử hình thành, phát triển và nội hàm của quyền dân tộc tự quyết dưới góc nhìn luật quốc tế, đồng thời đánh giá giá trị và sự đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết. Từ khóa: quyền dân tộc tự quyết, sự phát triển, dân tộc, luật quốc tế, Tuyên ngôn Độc lập.  1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền dân tộc tự quyết  1.1 Giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX Quyền dân tộc tự quyết được hiểu là quyền của mỗi dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của mình trên cơ sở chủ quyền quốc gia.[1] Khái niệm này xuất hiện từ châu Âu và Hoa Kỳ vào thế kỷ XVIII - XIX, gắn liền với các học thuyết về chủ quyền nhân dân và chính phủ đại diện.[2] Theo đó, nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền lực chính trị, còn nhà nước xuất hiện trên cơ sở những hoạt động nhận thức và sự đồng thuận của nhân dân.[3] Cơ sở lý luận cho quan niệm này bắt nguồn từ thuyết Khế ước xã hội của Hobbes, Locke, Montesquieu và Rousseau, coi nhà nước là sản phẩm của lý trí con người và được lập nên nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo đảm các quyền tự do cơ bản.[4] Tại Trung và Đông Âu, nơi tồn tại nhiều đế chế đa dân tộc (Áo - Hung, Nga, Ottoman), khái niệm dân tộc tự quyết được phát triển từ chủ nghĩa dân tộc.[5] Chính sự đa dạng này, cùng với các chính sách đồng hóa do các đế chế áp dụng, đã làm gia tăng mạnh mẽ yêu cầu về quyền tự trị và chính phủ tự quản của từng nhóm dân tộc. Quyền dân tộc tự quyết có nguồn gốc từ mục đích bảo vệ lợi ích của các nhóm dân tộc trước các chính sách đồng hóa của các đế chế này.[6] Trong khi đó tại Tây Âu và Hoa Kỳ, khái niệm này có xuất phát từ mục đích bảo vệ lợi ích cho từng cá nhân trong khuôn khổ quốc gia đã tương đối thống nhất như Vương Quốc Anh, Pháp.[7]  Tuy nhiên, trong giai đoạn hình thành, quyền dân tộc tự quyết chưa được thừa nhận như một quyền pháp lý phổ quát mà chủ yếu đóng vai trò “công cụ chính trị” phục vụ việc hình thành nhà nước, bảo vệ lợi ích của cá nhân hoặc các nhóm dân tộc, và được các quốc gia chiến thắng sử dụng như một công cụ để định hình lại trật tự thế giới sau các cuộc chiến tranh.[8] 1.2. Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã đề cao quyền dân tộc tự quyết trong bài phát biểu của mình (Chương trình 14 Điểm) trước Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 1 năm 1918.[9] Trong đó, ông cho rằng quyền dân tộc tự quyết gắn với dân tộc thiểu số,[10] trao cho họ quyền lựa chọn sự gắn kết chính trị thông qua trưng cầu dân ý .[11] Hay nói cách khác, theo Wilson, dân tộc tự quyết đồng nghĩa với “tự quản trị”, tức là quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn chính phủ của mình.[12] Ý tưởng của Wilson đã được áp dụng khá trực tiếp vào việc giải thể các đế chế Áo–Hung và Ottoman sau Thế chiến I, dẫn đến sự hình thành của hàng loạt quốc gia nhỏ hơn như Áo, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Tiệp Khắc, Nam Tư, Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania và Ba Lan.[13] Tuy nhiên, trong việc giải quyết các yêu sách thuộc địa, Wilson cho rằng quyền dân tộc tự quyết phải được dung hòa với lợi ích của các cường quốc thực dân.[14] Trước đó, Vladimir Ilyich Lenin (V.I.Lênin) đã có những quan điểm riêng về quyền dân tộc tự quyết. Trong một số tác phẩm tiêu biểu như: Về cương lĩnh dân tộc của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (1913), Cách mạng xã hội và quyền dân tộc tự quyết (1916), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản (1920), V.I.Lênin cho rằng quyền dân tộc tự quyết là các dân tộc có quyền tự mình quyết định về vận mệnh, con đường phát triển của bản thân, có quyền độc lập về chính trị, tức tự quyết định thể chế chính trị của mình thoát khỏi ách áp bức của dân tộc khác. [15]   Có thể thấy, bối cảnh mà V.I.Lênin xây dựng và phát triển lý luận về vấn đề quyền dân tộc tự quyết ở giai đoạn tiền Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi nước Nga Sa hoàng là nhà tù của các dân tộc. V.I.Lênin từng nhận xét: “ở nước Nga, sự áp bức mà những người dị tộc ấy phải chịu đựng, còn nặng nề hơn nhiều so với ở các quốc gia lân cận”.[16] Vì vậy, trong lý luận về quyền dân tộc tự quyết, V.I.Lênin rất đề cao yếu tố người dân bị đặt dưới ách áp bức, nô dịch của dân tộc khác đến mức “cuộc sống chung tuyệt đối không thể chịu được”.[17] Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, quan điểm của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết không mang ý nghĩa ủng hộ các dân tộc trong quốc gia thống nhất tự tách mình thành quốc gia riêng biệt mà V.I.Lênin chỉ ủng hộ việc đó khi dân tộc đang bị áp bức, bóc lột bằng biện pháp bạo lực.[18] Xuất phát từ chính bối cảnh đó, lý luận của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết cũng nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân.[19] Bởi vì, V.I.Lênin cho rằng trong các giai tầng trong xã hội, giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản là lực lượng tiên phong, đấu tranh triệt để trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bao gồm cả việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết.[20] Do đó, V.I.Lênin đã đặt ra điều kiện quyết định bảo đảm độc lập và quyền tự quyết cho các dân tộc là thắng lợi của của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giai cấp.[21] Ngoài ra, theo V.I.Lênin, quyền dân tộc tự quyết có mối quan hệ mật thiết với việc thực hiện bình đẳng dân tộc. Bởi lẽ, mục đích của việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết là nhằm bảo đảm bình đẳng dân tộc, trong đó bình đẳng về chính trị là điều kiện tiên quyết.[22]  1.3. Sau chiến tranh thế giới thứ 2  Trên thực tế, trong Thế chiến II, phe Đồng Minh đã từng có nhiều nỗ lực đưa quyền dân tộc tự quyết vào một số văn kiện từ năm 1941 đến năm 1944, điển hình trong Hiến chương Đại Tây Dương (1941) được tuyên bố bởi Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill. [23] Trong đó, văn bản nhấn mạnh quyền của mọi dân tộc được tự do lựa chọn thể chế chính trị và được bày tỏ nguyện vọng một cách tự do.[24] Bản hiến chương này đã tác động hội nghị San Francisco (1945) giữa các cường quốc thắng trận sau Thế chiến II, đưa quyền dân tộc tự quyết vào Hiến chương Liên hợp quốc.[25] Tại thời điểm ấy, bốn cường quốc chưa đưa ra một cơ chế hiệu quả để thực thi và mở rộng nguyên tắc này, tuy nhiên điều đó đã tượng trưng cho sự công nhận nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết bằng một thể chế mới, đồng thời nhấn mạnh vai trò của nó trong trật tự thế giới hậu chiến - một trật tự được xây dựng trên lý tưởng rằng mọi dân tộc đều có quyền quyết định vận mệnh chính trị của chính mình.[26] Đặc biệt, trong giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới thứ hai,  việc truyền bá và áp dụng thành công quyền dân tộc tự quyết đã tạo nền tảng cho quá trình phi thực dân hóa và củng cố quyền này thành một chuẩn mực của luật pháp quốc tế cũng như một quyền con người.[27] Có thể thấy, quyền dân tộc tự quyết xuất phát từ một tư tưởng chính trị trở thành một nguyên tắc pháp lý, ảnh hưởng sâu sắc đến các quốc gia trên thế giới.  2. Nội hàm của nguyên tắc dân tộc tự quyết 2.1. Nguồn của nguyên tắc  Nguyên tắc dân tộc tự quyết được ghi nhận lần đầu trong Điều 1(2) của Hiến chương Liên hợp quốc về mục đích của tổ chức, rằng phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia dựa trên việc tôn trọng quyền bình đẳng và nguyên tắc dân tộc tự quyết. Ngoài ra nguyên tắc còn được ghi nhận tại Điều 1(1) Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) và Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR).  Sau năm 1945, trong bối cảnh phi thực dân hóa, nguyên tắc dân tộc tự quyết tiếp tục được phát triển. Nghị quyết 1514 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ghi nhận nội dung của nguyên tắc này nhằm trao trả lại quyền tự quyết cho các dân tộc còn chưa có được độc lập, thúc đẩy hòa bình và sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới.[28] Nghị quyết này cũng đồng thời là cơ sở bắt đầu tiến trình phi thực dân hóa trên phạm vi toàn cầu. Trong Ý kiến tư vấn về Vụ Hệ quả pháp lý của việc chia tách quần đảo Chagos khỏi Mauritius  vào năm 1965, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) nhận định rằng nguyên tắc dân tộc tự quyết tồn tại trong tập quán quốc tế.[29] Ngoài ra, nguyên tắc dân tộc tự quyết còn có tính chất erga omnes ,[30] và là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế đương đại.[31] 2.2. Nội dung của nguyên tắc Nội hàm của nguyên tắc được giải thích cụ thể trong Tuyên bố về những Nguyên tắc của Luật Quốc tế điều chỉnh Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác giữa các Quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc  năm 1970 (Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên hợp quốc), cụ thể:  Tất cả các dân tộc đều có quyền tự do quyết định chế độ chính trị và mưu cầu phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa mà không có sự can thiệp từ bên ngoài; Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền này, thúc đẩy việc hiện thực hóa quyền này, và hỗ trợ Liên hợp quốc trong việc chấm dứt chủ nghĩa thuộc địa; Việc cưỡng bức và bóc lột các dân tộc là hành vi vi phạm nguyên tắc này, đi ngược lại các quyền con người cơ bản và Hiến chương; Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy thực thi và tôn trọng phổ quát các quyền con người và tự do cơ bản; Các dân tộc có quyền tự do quyết định việc thành lập một quốc gia độc lập, liên kết hay sáp nhập vào một quốc gia khác hay bất kỳ dàn xếp chính trị nào; Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ không có hành vi vũ lực ngăn cản các dân tộc thực thi quyền này; Lãnh thổ của các thuộc địa hay của Vùng Lãnh thổ không tự trị có quy chế tách biệt với lãnh thổ của quốc gia quản lý, cho đến khi dân tộc của thuộc địa hay lãnh thổ đó thực thi quyền tự quyết của mình; Không có nội hàm nào ở đây được phép giải thích theo hướng cho phép hay khuyến khích các hành động nhằm làm tan rã, tổn hại toàn bộ hay một phần sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất chính trị của các quốc gia độc lập có chủ quyền – các quốc gia đang tuân thủ quyền tự quyết dân tộc như trên và do đó, có một chính phủ đại diện cho toàn bộ dân tộc thuộc lãnh thổ đó trên cơ sở không phân biệt chủng tộc, dòng dõi hay màu da; Tất cả các quốc gia không được có hành vi nhằm làm tan rã toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia khác. Nhìn chung, nguyên tắc dân tộc tự quyết có ba nội dung chính. Thứ nhất, các quốc gia có quyền tự quyết định thể chế chính trị, kinh tế và văn hóa mà không bị can thiệp bởi quốc gia khác. Việc thực hiện quyền tự quyết cần đảm bảo rằng dân tộc thực hiện quyền tự quyết cần tồn tại một chính phủ đại diện cho toàn bộ người dân mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào. Ngoài ra, theo Ủy ban Loại trừ Phân biệt Chủng tộc, nguyên tắc dân tộc tự quyết có thể được chia thành quyền tự quyết bên trong và quyền tự quyết bên ngoài, tương ứng với quyền quyết định các vấn đề nội bộ của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất chính trị và quyền được đảm bảo sự độc lập, không bị can thiệp bởi quốc gia bên ngoài.[32] Thứ hai, các quốc gia có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền tự quyết của một dân tộc, không được có hành vi ngăn cản việc thực thi hay lợi dụng quyền này để phá hoại sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất chính trị của quốc gia khác. Các quốc gia cần hỗ trợ và giúp đỡ các dân tộc, cũng như Liên hợp quốc trong việc chấm dứt chủ nghĩa thực dân, ngăn chặn việc một quốc gia cưỡng ép hay bóc lột một dân tộc khác.  Thứ ba, nguyên tắc này tạo cơ hội cho các dân tộc thuộc địa hay lãnh thổ không tự trị được thực thi quyền tự quyết của mình. Nghị quyết 1514 của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1960 đưa ra các sự lựa chọn cho các dân tộc thuộc địa nhằm thực thi nguyên tắc, bao gồm (i) thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền riêng, (ii) liên kết tự do với một quốc gia khác hoặc (iii) sát nhập vào quốc gia khác.[33] 3. Giá trị và sự đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn không chỉ là văn kiện lập quốc, tuyên bố chấm dứt gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp và ách thống trị của phát xít Nhật, mà còn mang ý nghĩa vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Trong đó, điểm nổi bật là tư tưởng về quyền con người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết, một nguyên tắc nền tảng của luật quốc tế hiện đại. 3.1. Kế thừa và phát huy tư tưởng tiến bộ về quyền con người  Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, đồng thời phát triển lối tư duy về quyền con người.[34] Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Người đã trích dẫn câu bất hủ từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776): “ Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng từ “ tất cả mọi người ” trong lời trích của mình thể hiện cái nhìn đổi mới về quyền con người so với bản Tuyên ngôn của Hoa Kỳ trước đó.[35]  Cụ thể, đoạn trích trên trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (1776) có nguyên văn như sau: “ We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness ”.[36] Đặt trong bối cảnh lịch sử Mỹ cuối thế kỷ XVIII, từ “ all men ” ở đây được sử dụng mang hàm nghĩa chỉ những người đàn ông Mỹ da trắng thời đó, không bao gồm phụ nữ, nô lệ và người Mỹ bản địa.[37] Trường hợp dùng từ tương tự cũng xuất hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), với nguyên văn: “ Les hommes naissent et demeurent libres et égaux en droits ”, khi dịch sang tiếng Anh mang nghĩa: “ Men are born and remain free and equal in rights ”[38]. Bằng việc dịch và diễn đạt “ all men ” thành “ tất cả mọi người ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng phạm vi từ quyền của một nhóm xã hội thành quyền phổ quát của mọi người, không phân biệt giới tính, màu da, dân tộc, giai cấp hay tôn giáo. Đây là bước phát triển quan trọng, phản ánh tầm nhìn nhân văn và tư duy cách mạng biến quyền con người thành giá trị chung của toàn nhân loại.  Như vậy, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa tinh hoa tư tưởng Khai sáng về quyền con người,[39] vừa khéo léo trong cách dùng từ nhằm khẳng định tính phổ quát, bất khả xâm phạm của quyền con người trong thời đại mới. Qua đó, bản Tuyên ngôn là lời khẳng định những giá trị nhân quyền, đồng thời thể hiện tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng nhằm đấu tranh cho các giá trị nhân văn bất khả xâm phạm mà các cuộc cách mạng trước đó đã giương cao.[40] 3.2. Phát triển từ quyền con người thành quyền dân tộc tự quyết  Bên cạnh sự kế thừa và tái khẳng định những giá trị nhân quyền phổ quát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển tư duy từ quyền con người thành quyền của các dân tộc. Ngay sau lời trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “ phát triển ”[41] ngữ nghĩa của câu này: “ Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do ”. Học giả người Nhật Bản Shingo Shibata, trong tác phẩm của mình, cho rằng đóng góp nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập chính là sự phát triển quyền con người vào quyền dân tộc rằng tất cả các dân tộc đều có quyền quyết định vận mệnh của mình và thực hiện việc tự cai quản nền độc lập của mình.[42] Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển từ quyền con người từ phạm vi hẹp “ all men ”, gắn với bối cảnh cuối thế kỷ XVIII khi chế độ nô lệ và nạn phân biệt chủng tộc còn tồn tại, ám chỉ những người đàn ông da trắng, thành quyền con người phổ quát dành cho “ tất cả mọi người ”, và rộng hơn nữa là “ tất cả các dân tộc ”. Nội hàm của quyền dân tộc đối với Hồ Chí Minh đã được mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, quyền dân tộc, bên cạnh quyền dân tộc tự quyết, còn bao hàm quyền bình đẳng với các dân tộc khác, quyền tự do, và hạnh phúc.[43] Những tư tưởng nền tảng về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập, đã nhanh chóng được thể chế hóa thành quy phạm pháp lý trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946. Theo đó, Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định, “ Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo ”. Đồng thời, Hiến pháp năm 1946 cũng ghi nhận quyền bình đẳng của mọi công dân Việt Nam về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, bình đẳng trước pháp luật.[44] Tinh thần ấy tiếp tục được kế thừa và khẳng định mạnh mẽ hơn trong các bản Hiến pháp sau này, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 với quy định nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ[45], và các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm ở Việt Nam[46]. Hiến pháp 2013 cũng quy định quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật.[47] Nhìn theo dòng thời gian, có thể thấy sự phát triển liên tục trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết. Cụ thể, từ bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc đã dám đứng lên trước các cường quốc thắng trận sau chiến tranh thế giới thứ nhất tại Hội nghị Versailles năm 1919, đòi quyền một số quyền tự do cơ bản cho dân tộc mình, trong bối cảnh quyền tự quyết dân tộc đang trong quá trình phát triển.[48] Đến Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tái khẳng định những giá trị nhân quyền phổ quát, cũng như mở rộng cách hiểu về quyền dân tộc tự quyết. Cuối cùng, các giá trị nhân quyền ấy được hiến định trong Hiến pháp 1946, và kế thừa trong Hiến pháp 2013.  Một điểm đáng chú ý về mặt lý luận về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hai quyền này được đặt trong mối quan hệ biện chứng, liên hệ chặt chẽ với nhau.[49] Theo đó, quyền dân tộc tự quyết là cơ sở để thực thi quyền con người, còn bảo vệ quyền con người chính là hiện thực hóa giá trị của độc lập dân tộc.[50] Tư tưởng này mang ý nghĩa đi trước thời đại của Người. Cụ thể đến năm 1966, quyền dân tộc tự quyết mới được đưa vào nội dung của hai điều ước quốc tế về nhân quyền bao gồm ICCPR và ICESCR. Theo đó, Điều 1 của cả hai điều ước quốc tế trên đều xác định “ Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết ”. Việc đưa một quyền tập thể vào Điều 1 đã phản ánh tầm quan trọng của quyền dân tộc tự quyết là quyền có tính nền tảng, cốt yếu vì việc thực hiện quyền này là điều kiện tiên quyết, thiết yếu để đảm bảo và tuân thủ hiệu quả các quyền con người mang tính cá nhân được đề cập trong hai Công ước.[51] Như vậy, việc phát triển lý luận từ những quyền cơ bản của con người thành quyền dân tộc và gắn chặt quyền con người với quyền dân tộc tự quyết là một cống hiến lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào dòng chảy tư tưởng nhân quyền của nhân loại.[52] 3.3. Là ngọn cờ giương cao ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới Giá trị và đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết còn được thể hiện ở chỗ đây là văn kiện đánh dấu một “kỷ nguyên” mới của giải phóng dân tộc khỏi sự bóc lột của thực dân trên toàn thế giới.[53] Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nguồn động viên to lớn đối với các dân tộc đang bị áp bức trên thế giới với tinh thần “ đem sức ta mà giải phóng cho ta ”.[54] Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nguồn động lực trực tiếp cho nhân dân Lào đứng lên giành chính quyền và tuyên bố độc lập ngày 12/10/1945, đồng thời tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, dẫn tới việc Philippines, Myanmar, Indonesia và Malaysia lần lượt giành được độc lập vào các năm 1946, 1948, 1950 và 1957.[55] Ở Đông Bắc Á, cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là sự cổ vũ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc với sự thắng lợi của Cách mạng Trung Quốc năm 1949.[56] Ảnh hưởng này còn vang xa tới Nam Á và châu Phi. Phong trào giành độc lập Ấn Độ chuyển từ yêu sách tự trị sang tuyên bố độc lập hoàn toàn (1950); nhiều nước Bắc Phi như Ai Cập (1952), Algeria (1954) vùng lên đấu tranh, mở đầu làn sóng giải phóng mà riêng năm 1960 đã có tới 17 quốc gia châu Phi giành độc lập.[57] Ở Mỹ Latinh, tinh thần từ Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam cũng truyền cảm hứng cho phong trào đấu tranh, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Cuba năm 1959.[58] Như vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, mà còn trở thành ngọn cờ tiên phong cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu, góp phần đánh bại chủ nghĩa thực dân - đế quốc và thúc đẩy sự phát triển quyền dân tộc tự quyết trong luật pháp quốc tế. Kết luận:  Như vậy, tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết manh nha từ cuối thế kỷ XVIII, được phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai với các luận thuyết của Lênin, Wilson và đặc biệt, cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc và làn sóng đấu tranh giải phóng dân tộc, nguyên tắc này từng bước được pháp điển hóa, phát triển và trở thành một trong những nền tảng của luật quốc tế hiện đại. Nội hàm của quyền không chỉ khẳng định sự tự do lựa chọn thể chế chính trị, con đường phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc mà còn đặt ra nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm quyền ấy như điều kiện thiết yếu để duy trì hòa bình và hợp tác quốc tế. Trong dòng chảy phát triển của quyền dân tộc tự quyết, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là lời khẳng định quyền sống, quyền tự do của dân tộc Việt Nam, vừa là đóng góp có ý nghĩa phổ quát khi phát triển từ quyền con người thành quyền dân tộc tự quyết, trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1][2] Trần Nam Tiến, ‘Quyền dân tộc tự quyết (Self-determination)’ ( Nghiên cứu Quốc tế , 23/04/2016)   https://nghiencuuquocte.org/2016/04/23/quyen-dan-toc-tu-quyet-self-determination/  truy cập ngày 24/08/2025. [3] Nguyễn Tiến, Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,   http://www.tuyengiao.vn/Home/Bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-Dang/60263/Tat-ca-quyen-luc-Nha-nuoc-thuoc-ve-Nhan-dan  truy cập ngày 24/08/2025. [4] GS.TS Lê Minh Tâm, PGS.TS Nguyễn Minh Doanh ( đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật , (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010), trang 24. [5] Thomas D. Musgrave (2000), Self Determination and National Minorities, Oxford University Press, trang 13. [6][7] Rhona K.M. Smith (2003), Textbook on International Human Rights, Oxford University Press, trang 269. [8] Sanakoev IB, Kulumbegova LT, and Ivleva ML, National Self‑determination: Features of the Evolution and Functioning of the Phenomenon , RUDN Journal of Philosophy  27.1 (2023) 155, DOI:10.22363/2313‑2302‑2023‑27‑1‑153‑162.  [9], [25] Daniel Thürer, Thomas Burri, “Self-Determination”, [2012] Max Planck Encyclopedia of Public International Law (Oxford Public International Law), < https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e873 >, truy cập ngày 23/8/2025. [10], [12], [14], [23] Cassese, Antonio. Self-Determination of Peoples: A Legal Reappraisal . Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1995, p19, p21, p38.  [11] , [13] Milena Sterio, “Self-Determination: Historical Underpinnings”, [2018] Secession in International Law, p13-14.  [15]   V.I.Lênin: Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.327; Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận , số 273 (3/2018), trang 41 < https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf > truy cập ngày 23/8/2025.  [16]    V.I.Lênin: Toàn tập, t.25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.317.  [17]   V.I.Lênin: Những vấn đề chính sách dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, trang 83.  [18], [19], [20], [22]   Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận , số 273 (3/2018), trang 42 < https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf > truy cập ngày 23/8/2025; n.d., “Tư tưởng của V.I. Lênin về quyền dân tộc tự quyết và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị , số 4 [2020], < https://hvdt.edu.vn/nghien-cuu/nghien-cuu-trao-doi/tu-tuong-cua-v-i-lenin-ve-quyen-dan-toc-tu-quyet-va-y-nghia-doi-voi-viet-nam-hien-nay >, truy cập ngày 23/8/2025. [21] V. I. Lenin, ‘The Revolutionary Proletariat and the Right of Nations to Self-Determination’ (written October 16 [29] 1915, first published in Lenin Miscellany VI, Collected Works vol 21, Progress Publishers Moscow) < https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1915/oct/16.htm > Truy cập ngày 24/8/2025; Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận , số 273 (3/2018), trang 42 < https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf > truy cập ngày 23/8/2025 [24]  Hiến chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter), Điều 2,3.  [26], [27]  Sam K.N. Blay, “Self-Determination: An Historical and Analytical Inquiry into Its Origins and Evolution, 1400–1945” [1996] Australian Journal of Legal History  2, 117–162, p160, p161; Cassese, Antonio. Self-Determination of Peoples: A Legal Reappraisal . Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1995, p38.  [28]  Preamble, 1514 UN Resolution. [29] Vụ Hệ quả pháp lý của việc chia tách quần đảo Chagos khỏi Mauritius vào năm 1965  [2019] (Ý kiến tư vấn) ICJ Reports, tr.131-135. [30] Vụ  Đông Timor  (Bồ Đào Nha v. Australia) [1995] (Phán quyết) ICJ Reports, tr.102. [31] Vụ Tây Sahara [1975] (Ý kiến tư vấn) ICJ Reports, tr.31 [32]  Ủy ban Loại trừ Phân biệt Chủng tộc, Khuyến nghị chung số 21 (1996) trong Report of the Committee on the Elimination of Racial Discrimination to the General Assembly. [33]  Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nghị quyết 1514 (1960), Phụ lục, Nguyên tắc VI. [34], [35]  Trần Nghị, “Giá trị và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết qua bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, < https://tcnn.vn/news/detail/51835/Gia-tri-va-y-nghia-thoi-dai-cua-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-quyen-con-nguoi-quyen-dan-toc-tu-quyet-qua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap-nam-1945.html >, truy cập ngày 21/8/2025.  [36] Declaration of Independence - 1776 < https://docs.house.gov/meetings/GO/GO00/20220929/115171/HHRG-117-GO00-20220929-SD010.pdf >, truy cập ngày 21/8/2025. [37] Trần Nghị, “Giá trị và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết qua bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, < https://tcnn.vn/news/detail/51835/Gia-tri-va-y-nghia-thoi-dai-cua-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-quyen-con-nguoi-quyen-dan-toc-tu-quyet-qua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap-nam-1945.html >, truy cập ngày 21/8/2025;  Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, ( Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình , 01/9/2021), < https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm >, truy cập ngày 22/8/2025; Xem thêm: Morgan Keith, “What does “All men are created equal” Mean?”, Compass: An Undergraduate Journal of American Political Ideas: Vol. 2 : Iss. 1 , Article 3, < https://digitalcommons.jsu.edu/compass/vol2/iss1/3 >, truy cập ngày 21/8/2025; Xem thêm: Hannah Spahn, “How White Was Jefferson’s Declaration of Independence?”, ( OLL , 15/6/2021), < https://oll.libertyfund.org/publications/liberty-matters/2021-07-15-how-white-was-jefferson-s-declaration-of-independence >, truy cập ngày 21/8/2025, (Tài liệu này đề cập đến sự không chắc chắn rằng liệu Jefferson có ý định bao gồm những người nô lệ và phụ nữ của ông ấy vào “all men” hay không, hay liệu nó chỉ đơn thuần mang nghĩa nhấn mạnh sự bình đẳng giữa người Mỹ da trắng và người Anh.) [38] The Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, ( La Maison Élysée ), < https://www.elysee.fr/en/french-presidency/the-declaration-of-the-rights-of-man-and-of-the-citizen >, truy cập ngày 21/8/2025. [39] Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, < https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html >, truy cập ngày 21/8/2025. [40], [43], [50] Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, ( Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình , 01/9/2021), < https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm >, truy cập ngày 22/8/2025. [41] David Armitage, “The Declaration of Independence in Global Perspective”, ( The Gilder Lehrman Institute of American History ), < https://www.gilderlehrman.org/history-resources/essays/declaration-independence-global-perspective >, truy cập ngày 22/8/2025. [42] Shingo Shibata,  Lessons of the Vietnam War , Amsterdam, 1973, p.141; Xem thêm:  Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, < https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html >, truy cập ngày 21/8/2025. [44]  Hiến pháp năm 1946, Điều 6, 7. [45]  Hiến pháp 2013, Điều 1. [46] Hiến pháp 2013, Điều 14.  [47] Hiến pháp 2013, Điều 16. [48] Đặng Kim Oanh, Vũ Thị Ngọc Liên, “Bản yêu sách của nhân dân An Nam 100 năm với những âm hưởng hào hùng”, ( Tạp chí Lịch sử Đảng , 17/11/2020), < https://tapchilichsudang.vn/ban-yeu-sach-cua-nhan-dan-an-nam-100-nam-voi-nhung-am-huong-hao-hung.html >, truy cập ngày 28/8/2025. [49] Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, ( Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình , 01/9/2021), < https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm >, truy cập ngày 22/8/2025; Xem thêm: Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, < https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html >, truy cập ngày 21/8/2025. [51] PAUL M. TAYLOR, A Commentary on the International Covenant on Civil and Political Rights , (Cambridge University Press, 2020), tr. 57; Ben Saul, David Kinley, Jaqueline Mowbray, The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights: Commentary, Cases, and Materials , (Oxford Scholarly Authorities on International Law [OSAIL], 2014), tr. 12-123.  [52] Đào Văn Quang, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người”, ( Tạp chí Điện tử Lý luận Chính trị , 19/5/2017), < https://lyluanchinhtri.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoi-571.html >, truy cập ngày 28/8/2025. [53], [55], [56], [57], [58] Hoang Thi Tham, “The Declaration of Independence (1945) of the Democratic Republic of Vietnam  and its Role in the Struggle for Independence of the People Worldwide”, [2024] Vol 13 No 4 Academic Journal of Interdisciplinary Studies, < https://www.richtmann.org/journal/index.php/ajis/article/view/13871/13424 >, truy cập ngày 23/8/2025. [54] Phùng Thanh, “Giá trị dân tộc và thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, < https://tcnn.vn/news/detail/51837/Gia-tri-dan-toc-va-thoi-dai-cua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap.html >, truy cập ngày 23/8/2025.

  • [72] TỔNG QUAN CÁC HIỆP ĐỊNH VỀ NGHỀ CÁ

    Tác giả: Lê Hoàng Dũng, Nguyễn Ngọc Trâm Mở đầu: Nghề cá đóng vai trò thiết yếu đối với an ninh lương thực, sinh kế và phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ven biển đang phát triển, bởi nó không chỉ là nguồn thực phẩm cho hàng tỷ người trên thế giới, mà còn liên quan mật thiết tới hệ sinh thái biển, và kế sinh nhai của các cộng đồng ven biển. Tuy nhiên, trong bối cảnh suy giảm nghiêm trọng của nhiều quần thể cá do khai thác quá mức, đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định ( nguyên gốc tiếng Anh là “ Illegal, Unreported and Unregulated Fishing ”, viết tắt là “IUU fishing” ), cộng đồng quốc tế đã xây dựng một hệ thống văn bản pháp lý để điều chỉnh hoạt động khai thác, bảo tồn và phân bổ nguồn lợi thủy sản xuyên biên giới. Trong hệ thống này, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) đóng vai trò là văn kiện nền tảng, xác lập quyền và nghĩa vụ cơ bản của các quốc gia trong việc khai thác và bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, đặc biệt thông qua các quy định về quyền đánh bắt cá trên biển cả,[1] nghĩa vụ hợp tác[2] và bảo vệ môi trường biển.[3] Bên cạnh UNCLOS, các văn kiện như Công ước về Đa dạng sinh học (CBD), Thỏa thuận về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại khu vực nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (Agreement on Marine Biological Diversity of Areas beyond National Jurisdiction - BBNJ) và các hiệp định liên quan đến cá voi (IWC) cũng góp phần hình thành khung pháp lý quốc tế trong lĩnh vực nghề cá. Trong bài viết này, nhóm tác giả tập trung phân tích hai hiệp định là Hiệp định thực thi các quy định Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển ngày 10 tháng 12 năm 1982 về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa (UNFSA) năm 1995 và Hiệp định về Trợ cấp Nghề cá của WTO năm 2022, bởi chúng phản ánh vai trò trung tâm của hai tổ chức quốc tế hàng đầu, với hầu hết các quốc gia trên thế giới là thành viên, cụ thể là Liên hợp quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới. Từ khóa:  UNCLOS, trợ cấp nghề cá, UNFSA, WTO 1. Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển ngày 10 tháng 12 năm 1982 về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa (UNFSA) năm 1995 Bối cảnh ra đời của hiệp định Vào nửa sau của thế kỷ XX, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đánh bắt hiện đại, kết hợp với việc nhiều quốc gia mở rộng phạm vi EEZ ra đến 200 hải lý theo quy định của UNCLOS, đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể hoạt động khai thác tại biển cả. Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 1970 đến 1980, sản lượng đánh bắt trên biển cả tăng gấp đôi (từ 5% năm 1970 lên 10% vào năm 1980), phần lớn là từ các loài cá lưỡng cư và di cư xa.[4] Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là sự gia tăng này diễn ra trong bối cảnh thiếu các quy định quốc tế cụ thể và hiệu quả để điều phối hoạt động khai thác giữa các quốc gia, dẫn đến tình trạng quản lý kém hiệu quả, và hệ quả là tính bền vững của các nguồn lợi có tính di động cao này bị đe dọa nghiêm trọng. Chính vì vậy, UNFSA được xây dựng nhằm lấp khoảng trống về mặt pháp lý còn tồn tại sau khi UNCLOS được thông qua, đặc biệt trong việc đảm bảo việc hợp tác giữa các quốc gia có lợi ích trong một quần thể cá. Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992 (UNCED) trong khuôn khổ Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) đã kêu gọi triệu tập một hội nghị liên chính phủ nhằm thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả hơn các nghĩa vụ hợp tác quản lý nguồn lợi thủy sản biển cả.[5] Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 47/192 vào ngày 22 tháng 12 năm 1992, chính thức quyết định triệu tập Hội nghị Liên hợp quốc về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư[6] và di cư xa (United Nations Conference on Straddling Fish Stocks and Highly Migratory Fish Stocks).[7] Hội nghị được tổ chức từ năm 1993 đến 1995 và hoàn tất với việc thông qua Hiệp định (UNFSA). UNFSA chính thức có hiệu lực vào ngày 11 tháng 12 năm 2001. Cho đến nay, hơn 80 quốc gia và tổ chức khu vực, trong đó bao gồm Liên minh châu Âu (EU) trở thành thành viên của Hiệp định.[8] UNFSA đã trở thành nền tảng pháp lý cho việc ban hành luật nội địa về vấn đề quản lý nghề cá, thiết lập các điều lệ hoạt động, biện pháp ràng buộc pháp lý và quy trình rà soát hiệu quả của các Tổ chức Quản lý Nghề cá Khu vực (RFMO) có thẩm quyền đối với các quần thể thủy sản lưỡng cư và di cư xa. Đồng thời, UNFSA cũng là nền tảng cho sự phát triển của nhiều văn bản pháp lý bổ sung về vấn đề bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên sinh vật biển.[9] Phạm vi áp dụng hiệp định UNFSA được xây dựng như một công cụ thực thi các điều khoản của UNCLOS liên quan đến việc bảo tồn và quản lý các loài cá được bảo vệ bởi hiệp định, bao gồm nguồn thủy sản lưỡng cư (straddling fish stocks) và nguồn thủy sản di cư xa (highly migratory fish stocks).  Hiệp định định nghĩa “cá” tại Điều 1 rằng nó bao gồm cả thân mềm và giáp xác, trừ các loài sinh vật thuộc loại "sedentary species" như quy định tại Điều 77 UNCLOS.[10] Đối với định nghĩa về các loài cá di cư xa, danh sách này được xác lập trong Phụ lục I của UNCLOS. Mặc dù Phụ lục I của UNCLOS có liệt kê một số loài động vật biển có vú có tập tính di cư (như cá voi), UNFSA chỉ áp dụng với các loài cá trong danh sách, ví dụ như các loài cá ngừ (albacore, bluefin, yellowfin, v.v.), cá kiếm, cá mập đại dương.[11] Đối với khái niệm “thủy sản lưỡng cư”, mặc dù thuật ngữ này không được UNCLOS định nghĩa chính thức, Điều 63.2 UNCLOS có đề cập đến các quần thể cá hoặc các loài liên quan tồn tại cả trong vùng EEZ và khu vực tiếp giáp ngoài vùng này. Đây là định nghĩa thực tiễn được áp dụng trong phạm vi của UNFSA. Ví dụ điển hình cho nhóm này bao gồm cá tuyết, cá tuyết đen, cá tuyết chấm, mực, và danh sách này sẽ được FAO xem xét và đánh giá theo từng tiểu vùng.[12] Ngoài hai nhóm cá nêu trên, vào năm 2015, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ghi nhận rằng các nguyên tắc chung của UNFSA cũng có thể áp dụng với các “quần thể cá vùng biển quốc tế riêng biệt” (discrete high seas fish stocks).[13] Cuối cùng, UNFSA yêu cầu các quốc gia thành viên có nghĩa vụ bảo vệ “các loài liên quan hoặc phụ thuộc” (associated or dependent species).[14] Dù thuật ngữ này không được định nghĩa cụ thể trong cả UNCLOS và UNFSA, tuy nhiên nó thường được coi là bao gồm các loài chịu tác động gián tiếp từ hoạt động đánh bắt cá.[15] Nội dung chính của hiệp định UNFSA đặt ra 12 quy tắc chính nhằm làm cơ sở hướng dẫn các quốc gia ven biển cũng như các quốc gia khai thác hải sản trên vùng biển quốc tế trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp tác về bảo tồn và quản lý các nguồn lợi thủy sản di cư xa và xuyên vùng theo tinh thần của Hiệp định.[16] Đa số các nguyên tắc này được đề cập lại dựa trên tinh thần của UNCLOS,[17] tuy nhiên có hai điểm nổi bật chính của UNFSA, đó là áp dụng phương pháp tiếp cận phòng ngừa (precautionary approach) và phương pháp tiếp cận hệ sinh thái (ecosystem approach). “Precautionary approach” yêu cầu các quốc gia phải hành động một cách thận trọng hơn trong các trường hợp thông tin khoa học còn bất định, thiếu tin cậy hoặc chưa đầy đủ.[18] UNFSA yêu cầu các quốc gia thành viên có nghĩa vụ áp dụng precautionary approach một cách rộng rãi (widely) trong quản lý nghề cá.[19] Điều này có nghĩa là, việc thiếu vắng thông tin khoa học đầy đủ không được sử dụng làm lý do để trì hoãn hoặc từ chối ban hành các biện pháp bảo tồn và quản lý nguồn lợi thủy sản.[20] Khi triển khai cách tiếp cận này, các quốc gia thành viên của UNFSA cần nâng cao chất lượng ra quyết định và chia sẻ thông tin, đồng thời xây dựng các chương trình thu thập dữ liệu và nghiên cứu, thông qua các kế hoạch phù hợp, cũng như áp dụng hoặc cân nhắc một số yếu tố và biện pháp dựa trên cơ sở khoa học.[21] Đối với ecosystem approach, hiện tại chưa tồn tại chưa có một định nghĩa thống nhất về khái niệm này trong lĩnh vực quản lý nghề cá. FAO diễn giải cách tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý nghề cá thông qua bao gồm việc định hướng tổng thể, các bước và quy trình lập kế hoạch quản lý, xác định lộ trình và mốc thời gian thực hiện kế hoạch đó.[22] Cách tiếp cận này được xem là đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm tính bền vững lâu dài của các quần đàn cá và duy trì sự khỏe mạnh, khả năng phục hồi của các hệ sinh thái biển, khi đó là yếu tố giúp hệ sinh thái có thể chống chịu tốt hơn trước các tác động do con người hoặc do tự nhiên gây ra.[23] Trong UNFSA, mặc dù hiệp định không định nghĩa cụ thể thuật ngữ ecosystem approach, nội hàm của phương pháp này đã được lồng ghép trong các điểm (c) và (d) của Điều 5. Các quy định này yêu cầu các quốc gia đánh giá tác động không chỉ từ hoạt động đánh bắt mà còn từ các hoạt động khác có tác động tới môi trường, và các yếu tố môi trường khác. Bên cạnh đó, nó cũng đặt ra nghĩa vụ yêu cầu các quốc gia áp dụng các biện pháp bảo tồn và quản lý đối với cả các loài liên kết hoặc phụ thuộc nhằm duy trì hoặc phục hồi quần thể ở mức mà khả năng tái sinh của chúng không bị đe dọa nghiêm trọng.[24] 2. Hiệp định về Trợ cấp Nghề cá của WTO năm 2022 Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về Trợ cấp Nghề cá , được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ mười hai vào ngày 17 tháng 6 năm 2022, đóng góp vào việc thực hiện nhiệm vụ theo Mục tiêu Phát triển Bền vững 14.6 (một trong số 17 mục tiêu) được Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015, theo đó WTO đàm phán xây dựng các quy tắc về việc sử dụng các khoản trợ cấp gây hại trong lĩnh vực thủy sản.[25] Hiệp định đặt ra các quy tắc đa phương, ràng buộc mới nhằm hạn chế các khoản trợ cấp có hại, vốn là yếu tố chính dẫn đến sự suy giảm trên diện rộng nguồn lợi thủy sản của thế giới.[26]  Đây là hiệp định đầu tiên của WTO mà yếu tố bền vững môi trường được đặt ở vị trí trung tâm trong thiết kế và mục tiêu điều chỉnh.[27] Tại phần này, các quy định quan trọng và một số hạn chế còn tồn tại của hiệp định sẽ được xem xét. Các quy định quan trọng của hiệp định Hiệp định này thiết lập một loạt các quy tắc thông qua việc (a) cấm trợ cấp các hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không được báo cáo và không được kiểm soát ( nguyên gốc tiếng Anh là “ Illegal, Unreported and Unregulated Fishing ”, viết tắt là “IUU fishing” ) ; (b) cấm trợ cấp đánh bắt các nguồn lợi bị đánh bắt quá mức; và (c) chấm dứt trợ cấp cho đánh bắt cá trên các vùng biển không được kiểm soát, [28] có tính đến nhu cầu của các thành viên là nước đang phát triển và thành viên là nước kém phát triển nhất (LDCs).[29] (a) Cấm hỗ trợ các hoạt động đánh bắt cá IUU Điều 3 của Hiệp định quy định cấm các hình thức trợ cấp liên quan đến hoạt động đánh bắt cá IUU.[30] Theo đó, nội dung của Điều 3 có lệnh cấm chính là các thành viên WTO cam kết không cấp trợ cấp cho tàu cá hoặc tổ chức đã bị xác định có hành vi đánh bắt IUU hoặc hỗ trợ hoạt động đánh bắt IUU.[31] Lệnh cấm được kích hoạt khi một quốc gia thành viên ven biển, tàu mang cờ quốc gia thành viên, Thỏa thuận hoặc Tổ chức Quản lý Nghề cá Khu vực (Regional Fisheries Management Organization or Arrangement - viết tắt là RFMO/A) có liên quan đưa ra quyết định khẳng định rằng một tàu hoặc tổ chức vận hành đã tham gia vào hoạt động đánh bắt IUU.[32] Các quốc gia thành viên ven biển phải tuân thủ các điều khoản đã ký kết trong Hiệp định khi đưa ra quyết định về IUU, như việc đưa ra quyết định dựa trên các thông tin thực tế có liên quan; thông báo cho Thành viên quốc gia tàu mang cờ và nếu biết thì cả thành viên cấp trợ cấp; tạo cơ hội trao đổi thông tin; và thông báo quyết định cuối cùng cho các thành viên khác và WTO theo Điều 3.1 của Hiệp định. Các RFMO/A phải tuân theo thủ tục của mình và luật pháp quốc tế theo quy định tại Điều 3.2(c). Một nội dung đáng chú ý khác trong Điều 3 là Điều khoản hòa bình (Peace Clause), một cơ chế Đối xử đặc biệt và khác biệt (Special and Differential Treatment - viết tắt là SDT)  áp dụng với các quốc gia đang phát triển và LDCs.[33] Trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, các khoản trợ cấp được các Thành viên là nước đang phát triển, bao gồm cả các Thành viên là nước kém phát triển nhất (LDC), cấp hoặc duy trì trong phạm vi và thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) sẽ được miễn trừ khỏi các hành động pháp lý như khởi kiện hoặc tranh chấp dựa trên Điều 3.1 và Điều 10 của Hiệp định này.[34] (b) Cấm hỗ trợ đánh bắt các nguồn lợi bị đánh bắt quá mức Lệnh cấm các Thành viên cung cấp trợ cấp cho hoạt động đánh bắt hoặc các hoạt động liên quan đến đánh bắt đối với các trữ lượng cá đang bị khai thác quá mức được quy định tại Điều 4 của Hiệp định.[35] Lệnh cấm được áp dụng khi một trữ lượng cá được công nhận là bị khai thác quá mức bởi Thành viên ven biển hoặc RFMO/A có liên quan, dựa trên các bằng chứng khoa học tốt nhất hiện có của Thành viên ven biển hoặc RFMO/A.[36] Những trách nhiệm này phù hợp với các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Hiệp định về Các đàn cá Di cư xa (UNFSA) về chủ quyền, quyền chủ quyền và nghĩa vụ quản lý đánh bắt cá trong EEZ.[37] Nội dung Điều 4.4 cũng có quy định về một SDT tương tự Điều 3.8. Bên cạnh đó, nội dung này còn có quy định Miễn trừ Liên quan đến Tính Bền vững cho Thành viên Cấp Trợ cấp. Cụ thể, lệnh cấm không áp dụng nếu các khoản trợ cấp đó hoặc các biện pháp quản lý nghề cá được thực hiện nhằm khôi phục trữ lượng cá bị khai thác quá mức về mức độ bền vững sinh học.[38] (c) Chấm dứt trợ cấp cho đánh bắt cá trên các vùng biển không được kiểm soát Khác với các lệnh cấm trợ cấp trên, quy định này đồng đều cho tất cả các thành viên - bao gồm các nước phát triển, đang phát triển và các nước kém phát triển nhất (LDCs).[39] Quy định tự động áp dụng đối với mọi hoạt động đánh bắt được trợ cấp tại vùng biển quốc tế không thuộc quản lý của bất kỳ RFMO/A nào, mà không cần chờ kết luận vi phạm cụ thể.[40] Việc thực thi đòi hỏi xác minh khu vực hoạt động và thẩm quyền quản lý nghề cá tại đó.[41] Cụ thể, Điều 5.1 của Hiệp định là lệnh cấm trực tiếp đối với mọi khoản trợ cấp cho hoạt động đánh bắt và liên quan đến đánh bắt tại các khu vực nằm ngoài phạm vi quyền tài phán của các thành viên ven biển và các nước không phải thành viên, đồng thời nằm ngoài thẩm quyền của RFMO/A có liên quan - tức là tại vùng biển quốc tế không được quản lý.[42] Bên cạnh đó, Điều 5 còn bao gồm hai điều khoản "hạn chế tối đa": một áp dụng cho trợ cấp cấp cho tàu không treo cờ của thành viên cấp trợ cấp;[43] và điều khoản còn lại áp dụng cho trợ cấp đánh bắt khi tình trạng trữ lượng cá chưa được xác định.[44] Luồng tranh cãi tồn tại về Hiệp định Thứ nhất, nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt (SDT) cho các nước đang phát triển trong Hiệp định trợ cấp thủy sản hiện đang dựa trên nguyên tắc tự tuyên bố tình trạng phát triển.[45] Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt (SDT) là một nguyên tắc trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, bắt nguồn từ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1947 (GATT 1947).[46] Nguyên tắc này gồm hai nội dung chính: (1) các quốc gia đang phát triển được hưởng các ưu đãi về thủ tục, bao gồm quyền lựa chọn quy trình rút gọn, gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ, hoặc tiếp cận với sự hỗ trợ pháp lý; và (2) các Thành viên WTO được khuyến nghị cân nhắc đặc biệt đến điều kiện cụ thể và nhu cầu phát triển của các quốc gia đang phát triển trong tiến trình giải quyết tranh chấp.[47] Hiện cách thức áp dụng nguyên tắc này vào Hiệp định trợ cấp thủy sản đang gây tranh cãi vì không rõ ràng và không công bằng.[48] Ba quốc gia khai thác thủy sản lớn nhất hiện nay đều là các nước đang phát triển, chiếm tổng cộng 30% sản lượng khai thác biển toàn cầu năm 2020: Trung Quốc (15%), Indonesia (8%) và Peru (7%).[49]  Đặc biệt đối với Trung Quốc khi vừa là quốc gia trợ cấp lớn nhất, vừa là quốc gia có sản lượng khai thác thủy sản lớn nhất. Do đó, khi không có các tiêu chí bổ sung để phân loại các thành viên WTO, việc xây dựng một công thức SDT công bằng cho Trung Quốc và các nước đang phát triển khác là điều vô cùng khó khăn.[50] Hiệp định này tập trung vào mục tiêu bền vững môi trường, và do đó, bảo vệ môi trường trở thành khía cạnh thứ ba cần được xem xét khi xác định tư cách “quốc gia đang phát triển”.[51] Chính vì vậy, một số chuyên gia và thành viên cho rằng các quốc gia đang phát triển có sản lượng khai thác thủy sản lớn không nên tiếp tục được coi là “quốc gia đang phát triển,” mà thay vào đó cần được xem như những quốc gia phát triển về thủy sản.[52] Từ đó, việc xác định áp dụng SDT trong lĩnh vực này sẽ rõ ràng và công bằng hơn. Thứ hai, thời hạn của “điều khoản hòa bình” (peace clause) trong Hiệp định – vốn cho phép các nước LDCs và đang phát triển có hai năm chuyển tiếp để thực hiện lệnh cấm trợ cấp (theo Điều 3.8 và 4.4) – lại tương đối ngắn hơn so với nhiều hiệp định khác thuộc WTO.[53] Ví dụ, Hiệp định về Nông nghiệp quy định thời hạn 10 năm, Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) là 5 và 7 năm, còn Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM) lên tới 8 năm.[54] Thời hạn 2 năm có thể khiến các nước đang phát triển khó xây dựng hệ thống thực thi và cải thiện quản lý khi so sánh với thời hạn chuyển tiếp áp dụng cho nhóm các quốc gia nay được quy định trong các hiệp định WTO khác. Tuy nhiên, điều này cũng có luồng ý kiến ủng hộ với quan điểm rằng đặt ra có các quốc gia đang phát triển “một cơ hội thuận lợi để các nước đang phát triển hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, các biện pháp quản lý và thủ tục thực thi”.[55] 3. Kết luận Các hiệp định quốc tế về nghề cá, dù mang tính chất pháp lý khác nhau và được thúc đẩy bởi các tổ chức quốc tế khác nhau, đều phản ánh một thực tế: quản trị nghề cá không chỉ là vấn đề khai thác mà còn là vấn đề bảo tồn, công bằng và hợp tác quốc tế. Hiệp định Liên hợp quốc năm 1995 và Hiệp định về Trợ cấp Nghề cá của WTO năm 2022 là hai minh chứng tiêu biểu cho xu hướng kết hợp giữa khoa học biển, nguyên tắc phòng ngừa và yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng luật quốc tế. Tuy nhiên, cả hai hiệp định đều đối mặt với những thách thức chung như khả năng thực thi, sự phụ thuộc vào thiện chí quốc gia, và đặc biệt là khoảng cách phát triển giữa các quốc gia. Trong khi Hiệp định năm 1995 nỗ lực thúc đẩy hợp tác khu vực qua các RFMO/A, thì Hiệp định của WTO lại tập trung kiểm soát các biện pháp trợ cấp gây hại – nhưng đều vấp phải tranh cãi quanh việc đảm bảo quyền lợi cho các nước đang phát triển. Việc nghiên cứu hai hiệp định này cho thấy rõ hơn tính đa chiều của pháp luật nghề cá quốc tế: vừa là sự phối hợp giữa các lĩnh vực (luật biển, môi trường, thương mại), vừa là không gian phản ánh bất bình đẳng toàn cầu. Trong bối cảnh các nguồn lợi thủy sản tiếp tục suy giảm và các mối đe dọa xuyên biên giới ngày càng nghiêm trọng, tính cấp thiết của một khung pháp lý toàn diện, hài hòa lợi ích giữa các nước phát triển và đang phát triển, chưa bao giờ rõ ràng hơn. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên có thể tồn tại thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bạn có bất kỳ ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email.  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] UNCLOS, Điều 87, 116. [2] UNCLOS, Điều 63, 64, 118. [3] UNCLOS, Phần XII. [4] FAO, The State of World Fisheries and Aquaculture (1995), truy cập tại < https://www.fao.org/3/v5550e/v5550e.pdf >, truy cập  ngày 25/07/2025. [5] Agenda 21, đoạn 17.50. [6] Cho mục đích của bài viết này, lưỡng cư có nghĩa là sống ở hai (hoặc nhiều) vùng nước khác nhau. [7] UNGA Res 47/192 (22 December 1992) UN Doc A/RES/47/192. [8][12][15][17][18][23][24]  UNTS, 'Agreement for the Implementation of the Provisions of the United Nations Convention on the Law of the Sea of 10 December 1982 relating to the Conservation and Management of Straddling Fish Stocks and Highly Migratory Fish Stocks' (United Nations Treaty Series, 2167 UNTS 3), < https://treaties.un.org/doc/Publication/UNTS/Volume%202167/v2167.pdf > truy cập ngày 26/07/2025. [9] UN Office of Legal Affairs, Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea, ‘A Guide for Raising Awareness, Furthering Understanding and Strengthening Implementation of Its Provisions’, < https://www.un.org/oceancapacity/unfsa > truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2025. [10] Điều 77(4) UNCLOS định nghĩa “sedentary species” là các sinh vật, ở giai đoạn mà chúng có thể khai thác được, thì hoặc là bất động tại đáy biển, hoặc là không thể di chuyển nếu không duy trì sự tiếp xúc trực tiếp liên tục với đáy biển hoặc với lớp đất đá dưới đáy biển. [11] UNCLOS, Phụ lục I. [13] UNGA, Nghị quyết 70/75: Oceans and the law of the sea (22 December 2015) UN Doc A/RES/70/75, đoạn 37. [14] UNFSA, Điều 5(d). [16] UNFSA, Điều 5(d), 5(e), 5(f), 6(c). [19] UNFSA, Điều 6.1. [20] UNFSA, Điều 6.2. [21] UNFSA, Điều 6.3. [22] Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO), ‘Ecosystem Approach to Fisheries (EAF)’, < https://www.fao.org/fishery/en/eaf-net/about > truy cập ngày 30/07/2025. [25] WTO, Fisheries Subsidies Agreement (2024) 6   https://www.wto.org/english/res_e/booksp_e/fishsubsidies624_e.pdf . [26] Trung tâm WTO và Hội nhập, 'Mỹ chính thức chấp nhận Hiệp định về trợ cấp nghề cá của WTO'   https://trungtamwto.vn/chuyen-de/23182-my-chinh-thuc-chap-nhan-hiep-dinh-ve-tro-cap-nghe-ca-cua-wto  truy cập ngày 20/07/2025. [27] WTO, Fisheries Subsidies Agreement (2024) 6   https://www.wto.org/english/res_e/booksp_e/fishsubsidies624_e.pdf . [28] Trung tâm WTO và Hội nhập, 'Mỹ chính thức chấp nhận Hiệp định về trợ cấp nghề cá của WTO'   https://trungtamwto.vn/chuyen-de/23182-my-chinh-thuc-chap-nhan-hiep-dinh-ve-tro-cap-nghe-ca-cua-wto  truy cập ngày 27/07/2025. [29] WTO, Implementing the WTO Agreement on Fisheries Subsidies (2022) 5 https://www.wto.org/english/res_e/booksp_e/implementfishagreement22_e.pdf . [30] Agreement on Fisheries Subsidies, Điều 3. [31][32][33]  International Institute for Sustainable Development (IISD), WTO Agreement on Fisheries Subsidies: A Reader’s Guide (2023) 10   https://www.iisd.org/system/files/2023-03/wto-agreement-fisheries-subsidies-readers-guide.pdf . [34] Agreement on Fisheries Subsidies, Điều 3.8. [35] Agreement on Fisheries Subsidies, Điều 4. [36] Tristan Irschlinger and Alice Tipping, The WTO Agreement on Fisheries Subsidies: A Reader’s Guide (IISD, March 2023) 13   https://www.iisd.org/system/files/2023-03/wto-agreement-fisheries-subsidies-readers-guide.pdf  truy cập ngày 18/07/2025. [37][39] World Trade Organization, Implementing the Fish Agreement (WTO, 2022) 8   https://www.wto.org/english/res_e/booksp_e/implementfishagreement22_e.pdf  truy cập ngày 15/07/2025. [38] Agreement on Fisheries Subsidies, Điều 4.2. [40][41] Tristan Irschlinger and Alice Tipping, The WTO Agreement on Fisheries Subsidies: A Reader’s Guide (IISD, 03/2023) 15   https://www.iisd.org/system/files/2023-03/wto-agreement-fisheries-subsidies-readers-guide.pdf  truy cập ngày 15/07/2025. [42] Agreement on Fisheries Subsidies, Điều 5.1. [43] Agreement on Fisheries Subsidies, Điều 5.2. [44] Agreement on Fisheries Subsidies, Điều 5.3. [45][48][51][52][53][55] Minna Yu and Xinyu Liu, ‘A New Approach to Combating Illegal, Unreported, and Unregulated Fishing: Analysis of the WTO Agreement on Fisheries Subsidies’ (2024) Marine Development vol 2, article number 10 https://link.springer.com/article/10.1007/s44312-024-00023-4  truy cập ngày 15/07/2025. [46][47]‘Những Đối Xử Đặc Biệt và Khác Biệt của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dành cho những nước đang phát triển’ (Tạp chí Công Thương, 02/11/2020) http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nhung-doi-xu-dac-biet-va-khac-biet-cua-to-chuc-thuong-mai-the-gioi-wto-danh-cho-nhung-nuoc-dang-phat-trien-76102.htm   truy cập ngày 29/07/2025. [49] Food and Agriculture Organization (FAO), ‘Capture Fisheries Production’ (The State of World Fisheries and Aquaculture 2022) https://openknowledge.fao.org/server/api/core/bitstreams/9df19f53-b931-4d04-acd3-58a71c6b1a5b/content/sofia/2022/capture-fisheries-production.html  truy cập ngày 20/06/2025. [50][54] Centre for International Law (CIL), ‘The World Trade Organization Fisheries Subsidies Agreement: A Critical Assessment on the Impacts to Developing Fishing Nations and the Way Forward’ (NUS, 2023) https://cil.nus.edu.sg/blogs/the-world-trade-organization-fisheries-subsidies-agreement-a-critical-assessment-on-the-impacts-to-developing-fishing-nations-and-the-way-forward/  truy cập ngày 20/06/2025.

  • [71] PHÂN TÍCH MỘT SỐ ÁN LỆ TIÊU BIỂU VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC VÀ NGHỆ THUẬT DO TRÍ TUỆ NHÂN TẠO (AI) TẠO RA: CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT VÀ ĐỀ XUẤT HƯỚNG PHÁT TRIỂN

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Nguyễn Đinh Hà Nam, Phạm Thị Thiên Nhi, Hoàng Minh Thúy, Cao Thị Hoài Thu[1] Tóm tắt: Sự ra đời của “trí tuệ nhân tạo” - “Artificial Intelligence” (AI) đã tạo nên sự đột phá mới cho sự phát triển khoa học và công nghệ trên toàn thế giới. Là một công cụ hữu ích với những tính năng ưu việt, AI hỗ trợ con người ở nhiều lĩnh vực quan trọng, đặc biệt trong quá trình tổ chức sáng tạo những sản phẩm có tính nghệ thuật cao. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng cùng với những tác phẩm được tạo ra từ công nghệ AI ngày càng nhiều thì câu hỏi được đặt ra đối với hệ thống pháp luật hiện tại, cũng như cơ chế bảo hộ quyền tác giả nói chung và quyền tác giả của các tác phẩm văn học và nghệ thuật nói riêng là có cần thiết hay không việc bảo hộ quyền tác giả của các tác phẩm này, và bản quyền của tác phẩm thuộc về ai. Bài nghiên cứu tập trung làm rõ các khái niệm về quyền tác giả và AI, bên cạnh đó phân tích các án lệ tiêu biểu liên quan đến những tác phẩm văn học và nghệ thuật do AI tạo ra. Từ đó, đánh giá chung về cơ chế giải quyết các việc liên quan đến các tác phẩm văn học và nghệ thuật do AI tạo ra và đề xuất hướng phát triển đối với vấn đề này. Từ khóa: Trí tuệ nhân tạo, các tác phẩm văn học và nghệ thuật do AI tạo ra, bản quyền, quyền tác giả, án lệ trong lĩnh vực Luật Sở hữu trí tuệ.   1. Dẫn nhập Trong thời đại cách mạng công nghệ phát triển nhanh chóng, AI đã trở thành một công cụ mạnh mẽ, không chỉ hỗ trợ mà còn trực tiếp tham gia vào quá trình sáng tạo. Từ các tác phẩm văn học đến nghệ thuật số, AI có thể tạo ra những nội dung vô cùng phong phú và hấp dẫn không thua kém các tác giả con người. Điều này làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý mới, đặc biệt là quyền tác giả đối với các tác phẩm này và gây ra nhiều bất cập. Chính vì vậy, việc phân tích một số án lệ tiêu biểu về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật do AI tạo ra từ đó đưa ra cơ chế giải quyết và đề xuất hướng phát triển để có cái nhìn tổng quan về tính cấp thiết của những vấn đề phát sinh do sự phát triển của AI đem đến cho cơ chế bảo hộ quyền tác giả trên thế giới.   2. Khái quát chung về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật và Trí tuệ nhân tạo 2.1. Tổng quan về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật 2.1.1. Khái niệm về tác phẩm văn học và nghệ thuật Thuật ngữ “tác phẩm văn học và nghệ thuật” - “literary and artistic works” được quy định lần đầu tiên tại Điều 4 Biên bản Hội nghị Quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật - Berne 1886 (the International Conference for the Protection of Literary and Artistic Works - Berne).[2] Tuy nhiên, với sự thay đổi của thực tiễn bảo hộ quyền tác giả trên thế giới, thuật ngữ “tác phẩm văn học và nghệ thuật” đã được sửa đổi nhiều lần để phù hợp với những thay đổi của thời đại. Điều khoản sau đó được sửa đổi bổ sung tại Hội nghị Paris về việc sửa đổi Công ước Berne 1971 và chính thức trở thành đạo luật hiện hành.[3] Cụ thể, tại Điều 2(1) của Công ước Berne 1971 quy định: “Thuật ngữ “Các tác phẩm văn học và nghệ thuật” bao gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch, hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm...”[4] Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cụm từ “Văn học” và “Nghệ thuật” trong công ước không nên được hiểu là hai phạm trù riêng biệt, cụm từ  “Các tác phẩm văn học và nghệ thuật” phải được coi là bao gồm tất cả các tác phẩm có khả năng đưa ra bảo hộ.[5] Bên cạnh đó việc sử dụng cụm từ “Such as” - “Chẳng hạn như” cho thấy danh sách được liệt kê trong Điều 2(1) là một danh sách mở và còn có khả năng sửa đổi bổ sung trong tương lai. 2.1.2. Khái niệm về quyền tác giả Thuật ngữ “Quyền tác giả” - “Copyright”(or author’s right) được ghép từ danh từ “Copy” nghĩa là “Sao chép” và danh từ “Right” nghĩa là “Quyền”. Như vậy, hiểu đơn giản theo nghĩa thông thường: Quyền tác giả là quyền đối với các bản sao chép. Tuy nhiên, nếu hiểu theo trường nghĩa trên sẽ không khái quát được nội hàm thuật ngữ “Quyền tác giả” bởi quyền đối với các bản sao vốn là một nhánh nhỏ trong nội dung về quyền này. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã đưa ra định nghĩa về quyền tác giả như sau: “Bản quyền (hoặc quyền của tác giả) là một thuật ngữ pháp lý dùng để mô tả các quyền mà người sáng tạo có đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ.”[6] Bên cạnh đó WIPO cung đưa ra những loại hình tác phẩm thuộc phạm vi được bảo hộ bản quyền bao gồm: “Sách, nhạc, tranh, tác phẩm điêu khắc và phim, đến các chương trình máy tính, cơ sở dữ liệu, quảng cáo, bản đồ và bản vẽ kỹ thuật.” [7] Như vậy với định nghĩa trên, chỉ những cá nhân trải qua quá trình lao động trí óc để sáng tạo ra những loại hình sản phẩm đã được quy định sẽ phát sinh quyền tác giả đối với những sản phẩm đó. 2.1.3. Nội dung về quyền tác giả Nội dung về quyền tác giả được WIPO quy định gồm quyền đạo đức (moral rights) và quyền tài sản (economic rights): (i) Quyền đạo đức có mục đích bảo vệ danh dự và uy tín của người sáng tạo. Ngoài ra, quyền đạo đức không thể chuyển giao cho cá nhân khác hoặc cho một tổ chức doanh nghiệp khác, quyền này thuộc về người sáng tạo ra tác phẩm, ngay cả khi bản quyền của người sáng tạo đó được chuyển giao.[8] (ii) Quyền tài sản là quyền mang lại lợi ích cho người sáng tạo nội dung bằng cách trao cho họ quyền kiểm soát các tác phẩm của họ và cho phép họ kiếm tiền từ sáng tạo của mình.[9] a. Quyền đạo đức Công ước Berne 1971 Điều 6 bis (1) quy định 02 quyền đạo đức cơ bản của tác giả: (i) được thừa nhận mình là tác giả của tác phẩm, (ii) phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm tác giả.[10] Như vậy, quyền này đề cao danh dự và uy tín của tác giả lên trên hết nhằm bảo vệ tác giả trước các hành vi thiếu đạo đức bởi các cá nhân hay các tổ chức muốn phương hại đến tác phẩm hoặc danh dự uy tín của tác giả. Bên cạnh Điều 6, Điều 10bis(3) bổ sung: “Khi sử dụng tác phẩm như đã nói ở các khoản trong Điều trên đây, phải ghi rõ nguồn gốc tác phẩm và tên tác giả, nếu có.”[11] Điều này như là một phép lịch sự tối thiểu đối với quyền tác giả nhằm tạo môi trường văn minh khi các tác giả dẫn nguồn các tác phẩm khác vào bài viết của mình. Tuy nhiên, quyền đạo đức tồn tại độc lập với quyền kinh tế, điều này cũng nhằm mục đích bảo vệ tác giả khỏi các hành vi phương hại từ chủ thể khác, bên cạnh đó, quyền đạo đức không thể được chuyển nhượng như các quyền kinh tế và tác giả cũng không thể từ bỏ quyền này.[12] b. Quyền tài sản Quyền tài sản không được quy định tại một điều luật riêng trong Công ước Berne mà trải dài với những điều luật có liên quan. Cụ thể Quyền tài sản trong công ước bao gồm: Quyền dịch thuật (Điều 8), Quyền sao chép ( Điều 9), Quyền sử dụng tự do hợp pháp khác về tác phẩm (Điều 10)... Điều quan trọng cần lưu ý là quyền kinh tế không phải là vô hạn và thời hạn bảo vệ bản quyền thay đổi tùy theo khu vực pháp lý,  khi bản quyền hết hạn, tác phẩm sẽ thuộc phạm vi công cộng và bất kỳ ai cũng có thể sử dụng mà không cần xin phép.[13] 2.1.4. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả về tác phẩm văn học và nghệ thuật Một tác phẩm văn học và nghệ thuật để được bảo hộ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của Công ước Berne 1971. Theo đó, điều kiện bảo hộ quyền tác giả về tác phẩm văn học và nghệ thuật bao gồm: Thứ nhất,  tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật theo Điều 2(1) Công ước Berne.[14] Lưu ý rằng nó bao gồm cả các tác phẩm khoa học, mặc dù những các tác phẩm này không được đề cập một cách rõ ràng trong Công ước.[15] Thứ hai,  tác phẩm phải được thể hiện dưới dạng hình thức vật chất nhất định, có thể là “cách thức hoặc hình thức biểu hiện nào đó” theo Điều 2(1) công ước Berne.[16] Thứ ba , các tác phẩm phải đảm bảo được “tính nguyên gốc” hay “ originality ”, tức là tác phẩm cần phải mới và không sao chép hay cắt ghép và lồng ghép từ các tác phẩm khác.[17] 2.1.5. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả về tác phẩm văn học và nghệ thuật Thời gian bảo vệ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật phụ thuộc vào pháp luật từng quốc gia.[18] Theo Công ước Berne 1886, quyền bảo vệ kéo dài suốt đời tác giả và thêm 50 năm sau khi tác giả qua đời.[19] Đối với tác phẩm khuyết danh, thời gian bảo vệ là 50 năm kể từ khi công bố.[20] Nếu danh tính tác giả được tiết lộ trong thời gian này, thời hạn bảo vệ sẽ tính theo quy định tại Điều 7 Khoản 1 của Công ước.[21] Các quốc gia thành viên có thể quy định thời gian bảo vệ dài hơn,[22] nhưng đối với tác phẩm nghệ thuật, thời gian bảo vệ ít nhất là 25 năm kể từ khi tác phẩm được hoàn thành.[23] 2.1.6. Hành vi xâm phạm quyền tác giả về tác phẩm văn học và nghệ thuật Hành vi vi phạm quyền tác giả xảy ra khi một cá nhân hoặc tổ chức sử dụng tác phẩm mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả.[24] Đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật, vi phạm có thể bao gồm:[25] Sao chép: tái tạo tác phẩm toàn bộ hoặc một phần mà không có sự cho phép của tác giả; Phân phối: phát tán tác phẩm qua bán, cho thuê, hay các phương tiện truyền thông mà không có sự đồng ý; Trưng bày: công khai trưng bày tác phẩm trong triển lãm, buổi trình diễn hay sự kiện mà không có sự cho phép; Tạo tác phẩm phái sinh: biên soạn, chuyển thể, hoặc sửa đổi tác phẩm gốc mà không được phép; sử dụng trái phép: sử dụng tác phẩm trong các hoạt động thương mại hoặc phi thương mại (như nhạc nền trong video) mà không có sự đồng ý của tác giả. 2.2. Tổng quan về trí tuệ nhân tạo 2.2.1. Khái niệm Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển cùng với sự đòi hỏi cao hơn về chất lượng cuộc sống của con người, “trí tuệ nhân tạo”-“Artificial Intelligence” (AI)  là một trong những yếu tố quan trọng và là chìa khóa để hiện thực hóa những ý tưởng tưởng chừng như không thể về những loại máy móc có khả năng tư duy như con người. Thuật ngữ AI được đề cập đến lần đầu tiên tại một hội thảo tại Dartmouth bởi John MCCarthy vào năm 1956 là “khoa học và kỹ thuật chế tạo ra máy móc có trí thông minh”.[26] Những khái niệm về AI đã phát triển đáng kể từ thời điểm đó, tuy nhiên cho đến hiện tại, vẫn chưa có bất kỳ văn bản đưa ra định nghĩa chính xác, toàn diện về khái niệm nay.   Vào năm 1990, Ray Kurzweil đã định nghĩa Al là “môn khoa học mà yêu cầu máy tính làm những công việc đòi hỏi trí thông minh khi thực hiện bởi con người”.[27] Trong cuốn sách “Trí tuệ nhân tạo: Hướng tiếp cận mới nhất”(Artificial Intelligence: A Modern Approach) hai tác giả Stuart Russel và Peter Norvig tổng hợp một số định nghĩa khác nhau về AI như sau: (i) “Trí tuệ nhân tạo là những hành động của máy móc gắn liền với tư duy của con người”, (ii) “Trí tuệ nhân tạo là nghiên cứu về năng lực trí tuệ vận hành vào các mô hình tính toán” và (iii) Trí tuệ nhân tạo là nghệ thuật tạo ra các cỗ máy có thể thực hiện những chức năng yêu cầu trí tuệ khi thực hiện bởi con người.[28] Tóm lại, trí tuệ nhân tạo là sự “tư duy” của máy móc, sự tư duy đó được tạo ra bởi con người. Các thiết bị trí tuệ nhân tạo sẽ được lập trình cách tư duy tự nhiên của con người để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. 2.2.2. Các tác phẩm văn học và nghệ thuật do trí tuệ nhân tạo tạo ra Trí tuệ nhân tạo hiện nay đã có thể viết văn với một mức độ khá ấn tượng, và khả năng này ngày càng được cải thiện nhờ vào sự phát triển của các mô hình ngôn ngữ có thể kể đến như GPT (Generative Pre-trained Transformer), Gemini hay Poe... AI viết văn có thể thực hiện nhiều loại văn bản khác nhau, từ bài luận, báo cáo, tiểu thuyết, thơ, đến kịch bản. Vào năm 2021, Nhà xuất bản Parambook ra mắt tiểu thuyết “The World from Now On”[29] do nhà văn AI mang tên Birampung, thuộc Công ty Khởi nghiệp AI Dapumda và Công ty Xử lý ngôn ngữ tự nhiên Namaesseu của Hàn Quốc đồng sáng tạo.[30] AI Birampun đã viết cuốn tiểu thuyết thông qua quá trình học sâu (deep learning) sau khi nhận được hướng dẫn từ tác giả Kim Tae-young, là một chuyên gia khoa học máy tính, đồng thời giải thích chủ đề, bối cảnh và nhân vật của cuốn tiểu thuyết. Gần đây nhất, một tác phẩm do AI tạo ra trong vòng ba giờ đã đoạt giải cao về sáng tác văn học tại Trung Quốc. Theo Wuhan Evening News, tác phẩm The Land of Machine Memories[31] đã giành vị trí thứ hai trong Cuộc thi Tiểu thuyết Khoa học Viễn tưởng Tỉnh Giang Tô lần thứ 5, đánh bại khoảng 200 người tham gia. Giáo sư Shen Yanggu của Đại học Thanh Hoa, người gửi tác phẩm dự thi, cho biết cuốn tiểu thuyết được viết hoàn toàn bằng AI, từ khâu tạo bố cục đến phát triển ý tưởng và vẽ hình minh họa.[32] Có thể thấy rằng AI đang ngày càng có khả năng tạo ra các tác phẩm văn học chất lượng cao và có thể cạnh tranh ngang hàng với tác phẩm do con người sáng tác. Mặc dù AI vẫn cần sự hỗ trợ và hướng dẫn của con người trong nhiều khía cạnh, nhưng khả năng tự sáng tạo và phát triển các tác phẩm văn học của AI là không thể phủ nhận. 2.2.3. Tư cách pháp lý của AI và chủ thể liên quan Các bên liên quan đến AI bao gồm: nhà phát triển, lập trình viên, người dùng, tổ chức, chính phủ và chủ sở hữu bản quyền các tác phẩm được sử dụng làm nguồn cho AI.[33] Trong khi các nhà phát triển và lập trình viên AI chịu trách nhiệm lập trình và đào tạo hệ thống AI, các công ty có thể triển khai và sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm cả việc tạo ra các tác phẩm nghệ thuật sáng tạo. Các quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc định hình môi trường pháp lý thông qua các luật và quy định. Người giữ bản quyền, theo truyền thống là các tác giả con người, cũng bị ảnh hưởng bởi AI, vì họ có thể bị ảnh hưởng bởi các tác phẩm do AI tạo ra. Các bên nêu trên đều là thể nhân, pháp nhân, tổ chức nên có đầy đủ tư cách pháp nhân. Hiện nay, việc xác định tư cách pháp lý của AI được tiếp cận theo hai cách: (i) AI được coi là một chủ thể pháp lý, một số quốc gia cho rằng các thực thể vật chất kết hợp AI có một số quyền giống như con người.[34] Tuy nhiên, các phương pháp này còn hạn chế và chưa được áp dụng rộng rãi. (ii) AI được coi là một thực thể pháp lý riêng biệt, hầu hết các quốc gia hiện nay đều xem AI là một thực thể độc lập về mặt pháp lý, chịu sự điều chỉnh đặc biệt.[35] Chúng không được công nhận là nhân quyền nhưng được coi là tài sản, công cụ hoặc sản phẩm  được quản lý như đối tượng  kiểm soát đặc biệt và phải tuân theo các quy định riêng để giải quyết các vấn đề liên quan đến chúng.[36] 3. Phân tích các án lệ tiêu biểu về việc vi phạm quyền tác giả đối với các sản phẩm văn học và nghệ thuật do Trí tuệ nhân tạo tạo ra 3.1. Vụ Andersen v. Stability AI, MidJourney, and DeviantArt (2023) Trong vụ kiện Andersen v. Stability AI, nguyên đơn là những nghệ sĩ như Sarah Andersen, Kelly McKernan, Karla Ortiz đã kiện các công ty AI tạo ra Stability AI (người phát triển Stable Diffusion), Midjourney (người phát triển MidJourney), DeviantArt (người phát triển DreamUp) và Runway AI (liên quan đến việc phát triển Stable Diffusion) vì vi phạm bản quyền, vi phạm Đạo luật Bản quyền Kỹ thuật số Thiên niên kỷ (DMCA) và các khiếu nại liên quan đến luật tiểu bang tại Tòa án Quận Bắc California, Hoa Kỳ.[37] Họ cáo buộc rằng các bị đơn đã sử dụng các tác phẩm của họ (cùng với của các nghệ sĩ khác) để train AI mà không được phép.[38] Tòa án cho rằng cáo buộc của nguyên đơn về việc bị đơn Stability khuyến khích vi phạm bản quyền đủ để không bị bác bỏ và nguyên đơn cáo buộc Stability thúc đẩy việc sử dụng Stable Diffusion để vi phạm bản quyền, trong khi Stability lập luận rằng nguyên đơn phải chứng minh hành động khuyến khích vi phạm, tòa án không đồng ý, cho rằng khác với vụ kiện bán VCR, nguyên đơn đã cáo buộc Stable Diffusion được xây dựng từ tài liệu có bản quyền của họ.[39] Tòa kết luận rằng ‘Stable Diffusion, khi sử dụng, tạo ra vi phạm bản quyền và được thiết kế để tạo điều kiện cho vi phạm đó.’, bên cạnh đó, tòa cũng kết luận nguyên đơn đã sửa đổi đủ yêu cầu vi phạm bản quyền đối với MidJourney và DeviantArt để tiếp tục vụ kiện, nhưng bác bỏ yêu cầu vi phạm hợp đồng đối với DeviantArt với hiệu lực cuối cùng.[40] Yêu cầu về sự giàu có bất chính bị bác bỏ do không có sự khác biệt về bản chất với yêu cầu vi phạm bản quyền, nhưng nguyên đơn được phép sửa đổi. Từ thực tế vụ việc và bối cảnh các nghệ sĩ bị cạnh tranh bởi các sản phẩm nghệ thuật do AI tạo ra, có một số câu hỏi quan trọng đặt ra: (i) Tác phẩm của nghệ sĩ có bị coi là sao chép trái phép khi dùng để huấn luyện AI không, và có bằng chứng nào cho thấy tác phẩm của họ có trong bộ dữ liệu đào tạo không? (ii) Việc sử dụng tên nghệ sĩ hoặc phong cách nghệ thuật trong sản phẩm AI có vi phạm quyền công khai không, và các nền tảng như DeviantArt, MidJourney có nghĩa vụ ngăn chặn vi phạm bản quyền không? (iii) Nghệ sĩ có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi và đảm bảo đền bù khi tác phẩm của họ được sử dụng? Những câu hỏi này quan trọng không chỉ cho vụ kiện hiện tại mà còn có thể tạo tiền lệ trong tương lai. Tuy nhiên, cần có phán quyết cuối cùng của tòa và thời gian để xem xét kỹ lưỡng.  3.2. Vụ Zarya of the Dawn (2023) Vụ việc liên quan đến một nghệ sĩ tên Kristina Kashtanov, người đã tạo ra tiểu thuyết đồ họa “Zarya of the Dawn” và đệ đơn xin đăng ký bản quyền tác phẩm này. Ban đầu, Kristina Kashtanova khẳng định trong đơn đăng ký tác giả là “Kristina Kashtanova” và không bao gồm bất cứ chủ thể khác.[41] Tuy nhiên, sau khi đăng ký thành công tác phẩm, văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ (USCO) đã nhận được những tuyên bố trên phương tiện truyền thông xã hội của Kashtanov rằng cô đã tạo ra cuốn truyện bằng trí tuệ nhân tạo Mid Journey.[42] Đơn đăng ký sau đó được USCO hủy bỏ và xem xét lại. USCO lập luận rằng: (i)  “tác giả” của một tác phẩm có bản quyền là người “thực sự tạo ra hình ảnh” người đóng vai trò là “người sáng tạo hoặc người chỉ huy sáng tạo”, (ii) Một người cung cấp lời nhắc văn bản cho Midjourney không “thực sự hình thành” các hình ảnh được tạo ra và không phải là “người chỉ huy sáng tạo”.[43] Bên cạnh đó, tại Compendium of U.S. Copyright Office Practices (Tổng hợp các hoạt động của Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ) quy định (i) Điều 306: “Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ sẽ đăng ký một tác phẩm gốc có quyền tác giả, với điều kiện là tác phẩm đó được tạo ra bởi con người. Luật bản quyền chỉ bảo vệ “thành quả lao động trí tuệ” “được xây dựng trên sức mạnh sáng tạo của trí óc.”,[44] (ii) Điều 313(2): “Tương tự như vậy, Văn phòng sẽ không đăng ký các tác phẩm được tạo ra bởi máy móc hoặc quy trình cơ học đơn thuần hoạt động ngẫu nhiên hoặc tự động mà không có bất kỳ sự tham gia hoặc can thiệp sáng tạo nào từ tác giả.”[45] Như vậy, dù được công nhận bản quyền liên quan đến khía cạnh văn bản và việc lựa chọn, phối hợp và sắp xếp tổng thể các yếu tố văn bản và hình ảnh tạo nên Tác phẩm, tuy nhiên những hình ảnh trong tác phẩm sẽ không được công nhận bởi quá trình này không đáp ứng yếu tố “được tạo ra bởi con người”.[46] Cuối cùng, USCO đã đưa ra kết luận hủy bản đăng ký ban đầu sau khi có nguồn thông tin mới và thay thế bằng bản đăng ký mới với giới hạn hẹp hơn cho cô Kashtanova. [47] Từ vụ Zarya of the Dawn (2023) có một số câu hỏi được đặt ra và cần có câu trả lời: (i) Thế nào là “người chỉ huy sáng tạo”, theo luật bản quyền yêu cầu tác phẩm có sự sáng tạo từ trí óc con người, vậy việc cung cấp câu lệnh đầu vào cho AI có thể được xem xét là sự chỉ huy sáng tạo và để tác giả được công nhận quyền tác giả hay không; (ii) Quyền hạn và giới hạn nào sẽ áp dụng cho tác phẩm kết hợp việc công nhận quyền tác giả liên quan đến khía cạnh văn bản và không công nhận quyền tác giả cho hình ảnh trong tác phẩm có thể gây ra sự phức tạp trong việc bảo vệ các tác phẩm kết hợp giữa AI và con người. Những vấn đề này mở ra thách thức xây dựng một khung pháp lý mới, phù hợp hơn với sự phát triển của công nghệ và cách con người tương tác với trí tuệ nhân tạo trong sáng tạo nghệ thuật.  4. Một số đề xuất hướng phát triển cơ chế xử lý trách nhiệm pháp lý đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật do trí tuệ nhân tạo tạo ra vi phạm quyền tác giả 4.1. Thiết lập khung pháp lý đặc biệt cho các tác phẩm do AI tạo ra Công nghệ AI đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, với khả năng tự chủ và sáng tạo vượt bậc đã hỗ trợ con người đáng kể trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong sáng tạo. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc điều chỉnh khung pháp lý để phù hợp hơn với bối cảnh hiện đại. Thứ nhất, khi AI tham gia vào quá trình sáng tạo của con người, việc xác định tác giả chính trở nên khó khăn. Trong trường hợp như vậy, một giả thiết có thể đưa ra là thiết lập một phạm trù pháp lý mới, hoặc cơ chế ghi nhận dành riêng cho các tác phẩm do AI tạo ra. Việc này nhằm xem xét quá trình đóng góp và vai trò của các chủ thể tham gia trong quá trình sáng tạo để công nhận tác giả chính. Bên cạnh đó, hiện nay hầu hết các hệ thống pháp luật chỉ công nhận quyền tác giả đối với các tác giả là con người. Như vậy, cần thiết có một khung pháp lý mới, hoặc cơ chế ghi nhận dành riêng cho các tác phẩm do AI tạo ra nhằm đảm bảo sự đóng góp giữa các bên và công nhận tác giả chính của tác phẩm. Thứ hai, đề xuất bổ xung cơ chế “Sui generis”[48] dành cho các tác phẩm do AI tạo ra: (i) Chỉ những tác phẩm là do chính AI tạo ra và đảm bảo tính sáng tạo không được sao chép ở bất kỳ nguồn dữ liệu nào mới đủ điều kiện được quyền “Sui generis” bảo vệ, (ii) Giới hạn quyền đạo đức đối với các tác phẩm do AI tạo ra, bởi trên thực tế những tác phẩm do công cụ này tạo ra chủ yếu dựa trên các thuật toán đã được lập trình sẵn mà chủ thể này cũng không có những giá trị truyền thống mà quyền đạo đức có ý định bảo vệ. Do đó, cơ chế “Sui generis” chỉ nên đảm bảo các quyền liên quan đến kinh tế của các tác phẩm do AI tạo, và (iii) Đề xuất việc chống sao chép các tác phẩm nguyên gốc do AI tạo ra. 4.2. Thúc đẩy nhận thức của trí tuệ nhân tạo đối với hành vi vi phạm quyền tác giả Thúc đẩy nhận thức của trí tuệ nhân tạo AI đối với với hành vi vi phạm quyền tác giả có thể sẽ là bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo các công cụ AI không chỉ thực hiện hỗ trợ sáng tạo mà còn có thể tuân thủ các quy định pháp luật. Với khả năng tạo ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật, AI cần được lập trình để nhận diện và tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ. Điều này có thể thực hiện thông qua một số đề xuất sau: (i) AI cần được cài đặt các thuật toán nhận diện các nội dung có bản quyền trong quá trình sáng tạo ra tác phẩm tránh tình trạng sao chép nội dung tác phẩm và vi phạm bản quyền. (ii) Phát triển hệ thống kiểm duyệt và cảnh báo nhằm cảnh báo người dùng khi có nguy cơ vi phạm quyền tác giả trong sản phẩm mà họ muốn AI tạo ra. (iii) Bên cạnh việc nâng cao nhận thức của trí tuệ nhân tạo AI thì việc nâng cao nhận thức người sử dụng AI về quyền tác giả và cách sử dụng AI một cách hợp pháp và có đạo đức cũng là yếu tố cần thiết. Những đề xuất trên không chỉ bảo vệ các tác giả và chủ sở hữu quyền mà còn thúc đẩy một môi trường sáng tạo lành mạnh và bền vững trong thời đại công nghệ AI phát triển. 4.3. Ứng dụng Cơ chế Quản lý bản quyền kỹ thuật số (Digital Rights Management) và các biện pháp bảo hộ công nghệ (Technological Protection Measures) đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật do Trí tuệ nhân tạo tạo ra Các công cụ Quản lý quyền kỹ thuật số (DRM) và Biện pháp bảo vệ công nghệ (TPMs) được thiết kế để kiểm soát việc sử dụng và phân phối các tác phẩm có bản quyền, chẳng hạn như sách, tranh ảnh, phim ảnh và các nội dung kỹ thuật số khác.[49] Mục đích của DRM là ngăn ngừa việc sao chép và phân phối nội dung trái phép, đồng thời giúp chủ sở hữu bản quyền duy trì quyền kiểm soát và thu lợi từ tài sản trí tuệ của mình.[50] Những công nghệ này thường được triển khai thông qua các hệ thống mã hóa hoặc bảo vệ kỹ thuật có mặt trong phần mềm và thiết bị. Những người ủng hộ DRM cho rằng công nghệ này là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi của tác giả và nhà phát hành, giúp ngăn chặn hành vi sao chép trái phép và bảo vệ tài sản trí tuệ khỏi bị xâm phạm. Điều này đặc biệt quan trọng trong thời đại kỹ thuật số, nơi việc sao chép và lan truyền nội dung trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, DRM cũng vấp phải nhiều sự chỉ trích. Những người phản đối cho rằng DRM không thực sự hiệu quả trong việc ngăn chặn vi phạm bản quyền, mà chỉ làm phiền người tiêu dùng hợp pháp. Ví dụ, người dùng có thể không sao lưu được các sản phẩm hợp pháp hoặc không thể sử dụng nội dung theo cách họ mong muốn, chẳng hạn trong các hoạt động nghiên cứu hoặc giảng dạy. Một vấn đề khác là nếu dịch vụ cung cấp nội dung ngừng hoạt động hoặc hệ thống bảo vệ bị thay đổi, các tác phẩm có thể không thể truy cập được vĩnh viễn.[51] Thêm vào đó, các luật pháp quốc tế về DRM, như Đạo luật Bản quyền Thiên niên kỷ Kỹ thuật số (DMCA) của Mỹ,[52] đã hình sự hóa việc phá vỡ DRM, bao gồm việc phát tán các công cụ hỗ trợ hành vi này. Điều này tạo ra một khung pháp lý nghiêm ngặt, nhưng đôi khi lại mâu thuẫn với quyền lợi của người tiêu dùng, đặc biệt khi những công cụ này giới hạn quyền sử dụng hợp pháp của họ. Với sự phát triển mạnh mẽ của AI trong việc tạo ra các tác phẩm sáng tạo, DRM và TPMs càng trở nên quan trọng. AI giúp tạo ra những tác phẩm mới, và các công nghệ này giúp xác định quyền sở hữu và kiểm soát việc sử dụng các tác phẩm do AI tạo ra. DRM có thể giúp các nhà xuất bản và tác giả thiết lập các thỏa thuận cấp phép rõ ràng, trong khi TPMs cung cấp các công cụ bảo vệ chống lại việc sao chép và phân phối trái phép.[53] Tuy nhiên, việc áp dụng DRM và TPMs cũng gặp phải không ít khó khăn, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng, chẳng hạn như quyền sao lưu hoặc sử dụng nội dung cho mục đích nghiên cứu.[54] Vì vậy, cần phải có sự cân bằng giữa bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu bản quyền và quyền lợi của người tiêu dùng, để ngành công nghiệp sáng tạo có thể phát triển bền vững trong tương lai. Kết luận Tóm lại, từ việc nghiên cứu tổng quan về quyền tác giả và phân tích một số án lệ tiêu biểu liên quan đến quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ th[1]uật do trí tuệ nhân tạo tạo ra đã gợi mở nhiều vấn đề hạn chế trong khung pháp lý. Bên cạnh đó, với sự phát triển của “làn sóng” công nghệ thông tin của thời đại đã thúc đẩy nhu cầu cần thiết có những đề xuất nhằm hoàn thiện hơn cơ chế giải quyết những vụ việc liên quan nhằm đảm bảo sự công bằng cũng như lợi ích của những tác giả thực sự tạo ra tác phẩm. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Đinh Hà Nam - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại Giao; Phạm Thị Thiên Nhi - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại Giao; Hoàng Minh Thúy - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại Giao; và Cao Thị Hoài Thu - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại Giao. [2] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, 1884, Điều 4. [3] ThS. Vũ Thị Phương Lan, ‘Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật’ ( Trường Đại học Đà Lạt , 2005) < https://scholardocs.dlu.edu.vn/ViewPDFOnline/document.php?loc=0&doc=59719274361588264459049447253422740148  > truy cập ngày 05/11/2024. [4] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Điều 2 khoản 1. [5] Guide to the Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works (Paris Act, 1971) - WIPO Publication No. 615 (1978), P. 11. [6] [7] ‘What is copyright?’ (WIPO) < https://www.wipo.int/copyright/en/ > truy cập ngày 5/11/2024. [8] Marley C. Nelson, ‘Moral right in the United States’ (2017) The Ohio State University < https://library.osu.edu/site/copyright/2017/07/21/moral-rights-in-the-united-states/ > truy cập ngày 07/11/2024. [9] [13] Rae Marie Manar, ‘What is The Economic Right in Copyright? Understanding Its Role’ (Copyrighted, 2024) < https://www.copyrighted.com/blog/what-is-economic-copyright > truy cập ngày 07/11/2024. [10] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Điều 6bis(1) . [11] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Điều 6bis(3) . [12] Guide to the Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works (Paris Act, 1971) - WIPO Publication No. 615 (1978), P. 43. [14] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Điều 2 Khoản 1. [15] Guide to the Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works (Paris Act, 1971) - WIPO Publication No. 615 (1978), P. 12. [16] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Điều 2 Khoản 1. [17] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Điều 2 Khoản 3. [18] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Khoản 8 Điều 7. [19] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Khoản 1 Điều 7. [20] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Khoản 3 Điều 7. [21] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Khoản 1 Điều 7. [22] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Khoản 6 Điều 7. [23] Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 7 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 9 năm 1979, Khoản 4 Điều 7. [24] Julia Rittenberg và Kelly Main, Forbes, ‘What is Copyright? Everything You Need to Know’ (Forbes Advisor, 22/6/2023) < https://www.forbes.com/advisor/business/what-is-copyright > truy cập ngày 09/11/2024. [25] Manish Jindal, ‘How to Avoid Copyright Infringement In Art?’ (Butes care blogs, 05/6/2024) < https://bytescare.com/blog/what-is-copyright-infringement >  truy cập ngày 09/11/2024. [26] John McCarthy, What Is Artificial Intelligence? (2004) Trường đại học Stanford < https://cse.unl.edu/~choueiry/S09-476-876/Documents/whatisai.pdf  >  truy cập ngày 10/11/2024. [27] John McCarthy, What Is Artificial Intelligence? (2004) Trường đại học Stanford < https://cse.unl.edu/~choueiry/S09-476-876/Documents/whatisai.pdf  >  truy cập ngày 10/11/2024. [28] Stuart Russel - Peter Norvig, Artificial Intelligence: A modern Approach. [29] Tạm dịch: ‘Thế giới từ nay’. [30] Lee Haye-ah, ‘First full-length Korean novel written by AI published’ (Yonhap News Agency, 25/8/2024) < https://en.yna.co.kr/view/AEN20210825008900315 > truy cập ngày 09/11/2024. [31] Tạm dịch: ‘Vùng đất của ký ức máy’. [32] Hoàng Giang. ‘AI vượt qua gần 200 tác phẩm, giành giải thưởng văn học’ ( Vnexpress.net , 2023) < https://vnexpress.net/ai-vuot-qua-gan-200-tac-pham-gianh-giai-thuong-van-hoc-4692521.html > truy cập ngày 10/11/2024. [33] Rendón, L. G, ‘Attribution of copyright to artificial intelligence generated works’ (Luận án Tiến sĩ, Đại học Niedersächsische Staats-und Göttingen 2019). [34] Lưu Minh Sang, Trần Đức Thành, ‘Trí tuệ nhân tạo và những thách thức pháp lý’ (2020) VJST < https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3303/tri-tue-nhan-tao-va-nhung-thach-thuc-phap-ly.aspx > truy cập ngày 10/11/2024. [35] Lưu Minh Sang, Trần Đức Thành, ‘Trí tuệ nhân tạo và những thách thức pháp lý’ (2020) VJST < https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3303/tri-tue-nhan-tao-va-nhung-thach-thuc-phap-ly.aspx > truy cập ngày 10/11/2024. [36] Lưu Minh Sang, Trần Đức Thành, ‘Trí tuệ nhân tạo và những thách thức pháp lý’ (2020) VJST < https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3303/tri-tue-nhan-tao-va-nhung-thach-thuc-phap-ly.aspx > truy cập ngày 10/11/2024. [37] U. S. Government Publishing Office, ‘Digital Millennium Copyright Act’ < “Public Law 105 – 304 – Digital Millennium Copyright Act” > truy cập ngày 10/11/2024. [38] Michael Eshaghian, ‘Andersen, et al. v. Stability AI Ltd., et al’ (Mesh IP Law, 31/10/2024) < https://www.meshiplaw.com/litigation-tracker/andersen-v-stability-ai > truy cập ngày 10/11/2024. [39] Safia Hussain and Erin Shields, ‘Andersen v. Stability AI Ltd.’ (Loeb & Loeb LLP, 12/8/2024) < https://www.loeb.com/en/insights/publications/2024/08/andersen-v-stability > truy cập ngày 10/11/2024. [40] Safia Hussain and Erin Shields, ‘Andersen v. Stability AI Ltd.’ (Loeb & Loeb LLP, 12/8/2024) < https://www.loeb.com/en/insights/publications/2024/08/andersen-v-stability > truy cập ngày 10/11/2024. [41] [42] [43] [46] [47 ]  U.S. Copyright Office, ‘Cancellation Decision re: Zarya of the Dawn (VAu001480196)’, Ngày 21 tháng 02 năm 2023,<   https://www.copyright.gov/docs/zarya-of-the-dawn.pdf  > P. 2, P. 3, P.9, P. 12  truy cập ngày 16/11/2024. [44] U.S. Copyright Office, Compendium of U.S. Copyright Office Practices, Điều 306, Ngày 21 tháng 01 năm 2021, < https://www.copyright.gov/comp3/docs/compendium.pdf  >  truy cập ngày 16/11/2024. [45]  U.S. Copyright Office, Compendium of U.S. Copyright Office Practices, Điều 313(2), Ngày 21 tháng 1 năm 2021, < https://www.copyright.gov/comp3/docs/compendium.pdf  > truy cập ngày 16/11/2024 [48] “Sui generis” là từ Latin, sử dụng trong thuật ngữ pháp lý để chỉ một hình thức bảo hộ độc lập, riêng biệt, tồn tại song song với hệ thống bảo hộ thông thường. Trong một số trường hợp, Quyền Sui generis được áp dụng để bảo vệ một loại tác phẩm cụ thể mà không được bảo vệ đầy đủ bởi các phương thức luật truyền thống. [49] EC-council ,   Computer Forensics: Investigating Network Intrusions and Cyber Crime , Tập 4  (Nhà xuất bản Cengage Learning 2009)  tr. 9. [50] Christopher Levy, ‘Making Money with Streaming Media’ (Streamingmedia, 2003) < https://web.archive.org/web/20060514024614/http:/www.streamingmedia.com/r/printerfriendly.asp?id=8306 >. truy cập ngày 07/11/2024. [51] Ruth Suehle, ‘The DRM graveyard: A brief history of digital rights management in music’ (2011) opensource.com < “The DRM graveyard: A brief history of digital rights management in music” > truy cập ngày 07/11/2024. [52] U. S. Government Publishing Office, ‘Digital Millennium Copyright Act’ <“Public Law 105 – 304 – Digital Millennium Copyright Act”> truy cập ngày 10/11/2024. [53] [54] ‘DRM là gì? Cách Hoạt Động, Lợi Ích và Những Thách Thức Về An Ninh Mạng’ < https://kbtech.com.vn/drm-la-gi-cach-hoat-dong-loi-ich-va-nhung-thach-thuc/ > truy cập 08/11/2024.

  • [70] TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ DEEPFAKE TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Nguyễn Thị Phương Anh, Phạm Thị Ngân, Hoàng Khánh Ly[1] Tóm tắt: Trong những năm gần đây, với sự phát triển mang tính đột phá của công nghệ trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI), công nghệ Deepfake đã ra đời, mang lại những ảnh hưởng nhất định trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, tiêu biểu là trong môi trường số. Hình ảnh nam diễn viên Paul Walker được “tái tạo” lại trong bộ phim “Fast & Furious 7” hay kỹ thuật trẻ hoá các diễn viên trong một số bộ phim của Marvel là minh chứng cho thành tựu mà công nghệ này đem lại. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích, thành tựu là những rủi ro, thách thức do Deepfake gây ra. Kể từ khi Deepfake ra đời đã xuất hiện nhiều trường hợp lừa đảo sử dụng công nghệ này để trục lợi trên môi trường số gây ra sự hoang mang cho dư luận, tiến đến chia rẽ nội bộ chính trị, hủy hoại niềm tin công chúng. Nhận thấy vấn đề này là nghiêm trọng và cấp thiết, nhóm tác giả bằng phương pháp so sánh các Đạo luật, Dự luật của các quốc gia trên thế giới, phân loại và hệ thống những mặt thiếu sót trong khung pháp lý tại Việt Nam để từ đó đưa ra khuyến nghị và bài học xây dựng một môi trường số lành mạnh.   Từ khoá: Deepfake, giả mạo, môi trường số, kinh nghiệm quốc tế   Mở đầu Trong thế kỷ 21, Deepfake đã ra đời và nổi lên như một thách thức đáng lo ngại với các quốc gia trên toàn thế giới, công nghệ này thường bị lạm dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, giả mạo danh tính,...Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến quyền riêng tư và danh dự cá nhân mà còn đe dọa tới an ninh quốc gia, hoang mang dư luận và làm xói mòn đến niềm tin xã hội.[2] Trong bối cảnh đó, việc xem xét các vấn đề pháp lý liên quan đến Deepfake để kịp thời đưa ra một số khắc phục, phòng tránh là quan trọng và cấp thiết. Trên phạm vi quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã kịp thời đưa ra các chính sách, biện pháp đối phó nhằm nhận diện, kiểm soát và ngăn chặn hậu quả mà Deepfake mang lại. Tại Việt Nam hiện nay, dù chưa bị ảnh hưởng nặng nề bởi Deepfake nhưng trong thời kỳ hội nhập toàn cầu, các thông tin giả mạo do Deepfake gây ra có thể tác động sâu rộng đến nhiều mặt của xã hội.[3] Do đó, việc xây dựng một khung pháp lý cho những công nghệ mới được áp dụng trong đời sống nói chung, và quy định về sử dụng Deepfake nói riêng là cần thiết. Nhận thấy tính cấp thiết của đề tài, trong 3 phần của bài viết, nhóm tác giả sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về Deepfake, phân tích các đạo luật, dự luật về Deepfake của EU và Hoa Kỳ, đưa ra một số đề xuất trong việc quản lý công nghệ Deepfake tại Việt Nam và cuối cùng là kết luận. 1. Tổng quan về công nghệ Deepfake trong môi trường số 1.1. Định nghĩa về Deepfake trong môi trường số 1.1.1. Định nghĩa chung về Deepfake Thuật ngữ Deepfake đã xuất hiện từ đầu những năm 2017, khi một nhà phát triển phần mềm có biệt danh là “Deepfakes” đã đăng tải các đoạn phim hoán đổi khuôn mặt của những người nổi tiếng Hollywood thành khuôn mặt của các diễn viên khiêu dâm lên nền tảng Reddit.[4] Sau đó, Deepfake trở thành một xu hướng mới và được lan truyền nhanh chóng trên các nền tảng mạng xã hội. Deepfake là sự kết hợp của hai từ  “deep learning” và “fake content” . Trong đó, deep learning  là một lĩnh vực trong AI, tập trung vào việc tạo ra một mạng lưới thần kinh nhân tạo, có khả năng phân tích và đưa ra các quyết định dựa trên dữ liệu đầu vào.[5] Còn fake content  chỉ đơn giản mang nghĩa là làm giả nội dung . Như vậy, Deepfake là một công nghệ mới sử dụng trí tuệ nhân tạo để giả mạo chân dung, giọng nói của người này bằng chân dung, giọng nói của người khác. 1.1.2. Nguyên lý hoạt động hoạt động của công nghệ Deepfake Như đã đề cập phía trên, Deepfake là công nghệ làm giả khuôn mặt và tạo ra nội dung hoàn toàn giả lập bằng cách bắt chước một sự vật, sự việc có thật, thông qua hai bước chính: Bước thứ nhất , giai đoạn đào tạo.[6] Ban đầu, khi nhập vào hệ thống nguồn dữ liệu hình ảnh về một người A, ngay lập tức, công cụ này sẽ phân tích các đường nét, biểu cảm và chuyển động trên gương mặt. Tiếp theo, hệ thống tạo ra một bản sao mô phỏng[7] của A, sao chép chi tiết hơn các vùng của khuôn mặt trong mô hình thị giác máy tính.[8] Sau đó, bản mô phỏng này sẽ tạo ra hình ảnh động có chuyển động tương tự dữ liệu gốc, tuy nhiên ở thời điểm ban đầu, hình ảnh này có thể bị mờ, méo mó hoặc hành động cứng nhắc.[9] Bước thứ hai , giai đoạn thử nghiệm.[10] Tại giai đoạn này, hệ thống sẽ áp lớp mô phỏng của A lên khuôn mặt B và so sánh với ảnh gốc của A để tính độ tương đồng. Trong trường hợp chưa đạt yêu cầu, hệ thống sẽ quay lại giai đoạn đào tạo để bổ sung đặc điểm nhận dạng của A. Quá trình này lặp lại cho đến khi đạt con số đã quy chuẩn. Khi đó, kết quả nhận được là hình ảnh của B với giao diện của người A.[11] Quy trình trên cũng được áp dụng khi sử dụng Deepfake để giả mạo giọng nói của một người khác. 1.2. Thực trạng ứng dụng công nghệ Deepfake hiện nay 1.2.1. Những lợi ích khi ứng dụng công nghệ Deepfake Theo thống kê của Deeptrace,[12] có tới 96% video sử dụng Deepfake có nội dung đồi truỵ, gây cho người dùng ấn tượng xấu. Tuy nhiên, Deepfake là một công cụ hữu hiệu với một số các ngành đặc thù, bao gồm: a. Ngành công nghiệp tiếp thị Deepfake được coi là “cứu tinh” của các đơn vị tiếp thị có ngân sách eo hẹp mà muốn tối ưu hoá thời gian, công sức. Thay vì thuê diễn viên, họ chỉ cần mua giấy phép hình ảnh và chỉnh sửa video với lời thoại phù hợp. Nhờ vào Deepfake, chuỗi siêu thị Omega đã tái hiện lại hình ảnh của huyền thoại ca sĩ nhạc đồng quê - Willie Nelson trong một video quảng cáo, tạo ra cảm xúc hoài niệm cho người xem.[13] b. Ngành nghệ thuật Tương tự ngành tiếp thị, công nghệ Deepfake giúp các ngành nghệ thuật (đặc biệt là phim ảnh) tiết kiệm chi phí và đảm bảo an toàn cho diễn viên thông qua việc hỗ trợ công tác hậu kỳ, giúp cắt ghép diễn viên vào các phân cảnh mạo hiểm hoặc viễn tưởng.[14] Deepfake còn được coi là “điểm giao” giữa công nghệ và nghệ thuật khi đây là công cụ làm chuyển động hóa các tác phẩm nghệ thuật tĩnh. Năm 2019, các nhà nghiên cứu tại trung tâm AI Samsung tại Moscow đã chụp bức chân dung “Mona Lisa” của Leonardo da Vinci sau đó khiến nàng Mona Lisa nói và di chuyển như người thật, thông qua thuật toán Deepfake.[15] Bên cạnh các bức họa nổi tiếng, hình ảnh của các nghệ sĩ quá cố như Marilyn Monroe, Salvador Dali,... cũng được làm tái hiện lại bằng phương pháp tương tự.[16]   1.2.2. Những thách thức trong quá trình sử dụng công nghệ Deepfake hiện nay a. Vấn nạn phim khiêu dâm Tính tới tháng 9/2019, tổng số video có sử dụng công nghệ Deepfake mang nội dung khiêu dâm được đăng tải trên các nền tảng trực tuyến là khoảng 14.091 (trên tổng số 14.678 video). Con số này đã tăng vọt lên hơn 85.000 vào tháng 12/2020.[17] Ai cũng có thể trở thành nạn nhân của các video khiêu dâm do Deepfake tạo ra, đặc biệt là những người phụ nữ có sức ảnh hưởng, chủ yếu tới từ Anh, Mỹ và Hàn Quốc [18] (bao gồm các ca sĩ, diễn viên và nhóm nhạc nổi tiếng). Cơ sở pháp lý chưa được hoàn thiện khiến các nạn nhân cảm thấy suy sụp và phải “tự bơi” giữa các quy định chắp vá.[19] Ngoài ra, việc tìm kiếm bằng chứng, điều tra và khởi tố trên không gian mạng rất khó khăn và kéo dài, khiến nạn nhân khó đòi lại công bằng, danh dự và nhân phẩm cho bản thân. b. Thao túng chính trị Các chính trị gia và nhà cầm quyền cũng là những nạn nhân thường xuyên của công nghệ “shallowfake”, một nhánh của Deepfake. Công nghệ này được sử dụng với mục đích tạo ra giọng nói giả nhằm thêm các nội dung sai lệch vào trong các bài diễn văn và phát ngôn của họ. Năm 2024 được gọi là năm "siêu bầu cử" khi có tới hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ chứng kiến các cuộc bầu cử quyết định các vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý Nhà nước như tại Mỹ, Ấn Độ, Nga,...[20] Đây là tiền đề cho sự phát triển công nghệ Deepfake với mục đích can dự vào tình hình chính trị. Điển hình là trong chiến dịch kêu gọi bầu cử Tổng thống Mỹ, một cuộc gọi tự động do AI tạo ra bắt chước giọng nói của Tổng thống Joe Biden đã được sử dụng để ngăn cản những người theo đảng Dân chủ ở New Hampshire bỏ phiếu trong cuộc bầu cử sơ bộ vào tháng 01/2024. Cố vấn chính trị cho phép cuộc gọi này diễn ra sẽ phải chịu phí phạt 6 triệu đô-la vì sai sót này.[21] c. An ninh mạng bị đe dọa, tỉ lệ tội phạm mạng gia tăng Các thống kê cho thấy công cụ AI nói chung và công nghệ Deepfake nói riêng đang trở nên thông minh hơn. Các vụ lừa đảo và gian lận liên quan đến Deepfake, do đó, đã tăng lên mức đáng báo động khi số liệu vào năm 2023 gấp 31 lần năm 2022.[22] Trong đó, 88% các kỹ thuật lừa đảo bằng AI hoặc Deepfake nhắm vào lĩnh vực tiền điện tử.[23] Tại Việt Nam, ngày càng nhiều thủ đoạn lừa đảo sử dụng Deepfake ra đời, có thể kể tới như: (i) Giả giọng/hình ảnh của người thân để vay tiền nạn nhân qua cuộc gọi thoại/cuộc gọi video; (ii) Giả mạo giọng nhân viên ngân hàng để lấy thông tin cá nhân và mã OTP từ nạn nhân; (iii) Giả mạo người có quyền hạn, chức vụ trong các tổ chức, doanh nghiệp để yêu cầu nạn nhân chuyển tiền; (iv) Sử dụng Deepfake giả mạo hình ảnh nhằm chiếm đoạt các phúc lợi của người mất.[24] Nhìn chung, các mô hình lừa đảo này đều lợi dụng sự thiếu cẩn trọng và khó khăn trong khả năng phán đoán thật, giả của người dân khi liên lạc, giao dịch trên môi trường số.   2. Quy định của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ về công nghệ Deepfake 2.1. Các đạo luật của Liên minh châu Âu 2.1.1. Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu[25]   là khung pháp lý toàn diện đầu tiên trên thế giới dành riêng cho AI.[26] Đạo luật ra đời nhằm cân bằng giữa việc thúc đẩy đổi mới tạo ra những bước đột phá về khoa học kỹ thuật và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Về phạm vi điều chỉnh bao gồm các nhà cung cấp, triển khai, nhập khẩu, phân phối và sản xuất các sản phẩm, hệ thống AI có liên quan đến thị trường EU.[27]  Mặt khác, Đạo luật cũng đặt ra một số ngoại lệ nhất định như Đạo luật này không áp dụng cho những hệ thống AI có mã nguồn mở trừ khi những hệ thống này bị cấm hoặc được phân loại vào nhóm có rủi ro cao hoặc một số trường hợp khác.[28] Đầu tiên, Đạo luật AI đưa ra định nghĩa về hệ thống AI “là hệ thống máy hoạt động tự chủ, có thể tự thích ứng sau khi được triển khai để đạt mục tiêu từ các dữ liệu đầu vào, suy luận ra phương thức và tạo các kết quả đầu ra như dự đoán, đề xuất, hoặc các quyết định có thể ảnh hưởng tới môi trường thực và ảo.”[29] Tiếp theo Đạo luật cũng đưa ra các định nghĩa về nhà cung cấp cũng như nhà phân phối, trong đó, nhà cung cấp là các cá nhân, pháp nhân, cơ quan hay tổ chức phát triển, đưa ra thị trường, hoặc sử dụng hệ thống/mô hình AI dưới tên hoặc nhãn hiệu riêng, dù thu phí hay miễn phí[30] và nhà phân phối là một cá nhân hoặc pháp nhân trong chuỗi cung ứng, ngoài nhà cung cấp hoặc nhà nhập khẩu, cung cấp hệ thống AI trên thị trường Liên minh.[31] Cuối cùng Đạo luật định nghĩa về Deepfake là nội dung hình ảnh, âm thanh hoặc video do AI tạo ra hoặc chỉnh sửa, giống với người, vật, hay sự kiện có thật có thể khiến người xem nhầm lẫn rằng đó là sự thật.[32] Nhằm hạn chế những nguy hiểm do Deepfake gây ra, Đạo luật AI  đã thúc đẩy các nhà cung cấp, người sáng tạo nội dung xác minh tính minh bạch của các sản phẩm có chứa công nghệ này. Theo Điều 50 (2), các nhà cung cấp các công cụ AI đa dụng[33] (bao gồm Deepfake) phải gắn nhãn các nội dung do AI tạo ra, việc gắn nhãn có thể thông qua các kỹ thuật như hình mờ, nhận dạng, mã hoá,...[34] Tuy nhiên, điều này không áp dụng khi được uỷ quyền cho các hoạt động thực thi pháp luật như phát hiện tội phạm hoặc truy tố. Điều 50 (4) quy định rằng với những nhà sáng tạo sử dụng AI để tạo Deepfake thì cần phải tiết lộ điều này với công chúng, thông qua việc gắn nhãn và nêu rõ nguồn gốc AI.[35] Tuy nhiên có hai miễn trừ chính cho điều này là dùng Deepfake khi điều tra, truy tố tội phạm và khi nội dung do AI tạo ra đã trải qua quá trình kiểm duyệt và biên tập của con người. Ngoài ra, đạo luật cũng cho phép các tác phẩm Deepfake hư cấu, châm biếm hoặc nghệ thuật có nghĩa vụ tiết lộ hạn chế.[36] Tại đây, việc tiết lộ nguồn gốc AI phải tinh tế, đảm bảo tính minh bạch mà không làm ảnh hưởng đến việc biểu đạt nghệ thuật, bảo vệ quyền tự do ngôn luận và sáng tạo nghệ thuật.[37] Theo Đạo luật AI, các hệ thống AI (gồm Deepfake) được đánh giá và phân loại dựa trên mức độ rủi ro: Rủi ro không thể chấp nhận được,[38] rủi ro cao,[39] rủi ro có thể kiểm soát,[40] rủi ro không đáng kể.[41] Trong phần này sẽ chỉ đề cập đến rủi ro không kiểm soát do những hệ quả của Deepfake hiện nay thường ở mức độ này. Đối với mức độ này thì những rủi ro đến từ việc thiếu minh bạch trong việc sử dụng AI.[42] Theo đó, Đạo luật đề ra một số nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo sự minh bạch và tăng cường lòng tin của con người đối với AI, thông qua quy định về nghĩa vụ thông báo trong trường hợp cần thiết. Một trong những trường hợp điển hình đó là nội dung được tạo ra bởi AI tạo sinh,[43] nếu sử dụng Deepfake trong nội dung thì phải bảo đảm có thể nhận ra được, đặc biệt là với những thông tin được quan tâm bởi công chúng thì phải được dán nhãn là được tạo ra bởi yếu tố nhân tạo .[44] 2.1.2. Quy định Bảo vệ dữ liệu chung[45] Theo quy định của GDPR, chỉ khi có sự đồng ý của cá nhân hay nhằm thực hiện các mục đích hợp pháp thì việc sử dụng các dữ liệu cá nhân cho Deepfake mới được chấp nhận.[46] Do đó, việc đánh giá liệu người sáng tạo và nhà phân phối Deepfake có thể dựa vào "lợi ích hợp pháp" làm cơ sở pháp lý[47] hay không đòi hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích của việc sử dụng dữ liệu cá nhân để tạo Deepfake và những tác hại có thể gây ra cho cá nhân đó. Ngoài ra, GDPR còn cung cấp cho các nạn nhân của Deepfake các biện pháp để bảo vệ bản thân bao gồm quyền phản đối các quyết định tự động[48] tác động đáng kể đến cuộc sống của họ dựa trên hình ảnh giống họ trong các nội dung Deepfake độc ​​hại.[49] Chủ thể của dữ liệu cũng có quyền yêu cầu bên tạo ra các sản phẩm Deepfake sửa chữa, hoàn thiện[50] hay xóa bỏ dữ liệu cá nhân liên quan đến mình và bên sáng tạo có nghĩa vụ xoá bỏ dữ liệu đó trong khoảng thời gian đã được quy định.[51] Cả hai đạo luật đều đưa ra các phương pháp nhằm ngăn chặn những tác hại của Deepfake và bảo vệ người dùng nhưng các biện pháp này chưa thực sự hiệu quả trong việc bảo vệ toàn diện quyền của cá nhân. Hơn nữa, tác động của Deepfake vẫn chưa được xác định một rõ ràng dẫn đến nhiều thách thức trong việc vừa phát triển những công nghệ mới và kiểm soát các hệ quả tiêu cực mà nó có thể gây ra.   2.2. Quy định của Mỹ về công nghệ Deepfake 2.2.1. Ở cấp tiểu bang Bắt nguồn từ năm 2014, bang Virginia đã ra lệnh cấm phát tán những hình ảnh hoặc video khoả thân với mục đích “ép buộc, quấy rối hay đe dọa” đến bất kỳ cá nhân nào.[52] Phải đến tháng 3 năm 2019, bản sửa đổi đã làm rõ quy định này bao gồm “Các hình ảnh tĩnh hoặc video độc hại được tạo ra bởi các phần mềm Photoshop với mục đích mô tả một người thực tế và người đó có thể nhận diện được là người thật qua các đặc điểm như khuôn mặt, hình dáng, các bộ phận khác…”.[53] Không đề cập trực tiếp đến Deepfake hay phương tiện truyền thông tổng hợp[54] tuy nhiên với những nội dung ám chỉ đã ghi nhận đây là bang đầu tiên tại Mỹ ban hành luật pháp liên quan đến Deepfake. Tình trạng này tiếp tục xuất hiện tại các điều luật được ban hành tại một số bang như New York,[55] Georgia,[56]   và Wyoming.[57] Và Deepfake chỉ được nêu bật cụ thể lần đầu tiên vào tháng 9/2019 thông qua dự luật “S.B. No. 751” của bang Texas, quy định các hành vi sử dụng kỹ thuật Deepfake để tạo video nhằm can thiệp hoạt động bầu cử là hành vi phạm tội hình sự .[58]  Tuy nhiên cũng cần xem xét đến một số điểm lưu ý của luật này:  (i) Đạo luật chỉ rõ giới hạn Deepfake đối với các video nhưng không ngoại trừ các phương thức khác; (ii) Không đề cập đến sự góp mặt của AI - công cụ tạo ra phần lớn các nội dung độc hại; (iii) Mặc dù đã không phù hợp với tình hình hiện tại, song đạo luật này được coi là tiến bộ tại năm 2019 - thời điểm mà nó ra đời.[59]  Sau hai năm, cụ thể vào ngày 23 tháng 6 năm 2021, bang Hawaii đã thông qua đạo luật SB 309 sau khuyến nghị của lực lượng đặc nhiệm về việc bảo vệ quyền riêng tư hình ảnh cá nhân và cấm sử dụng Deepfake khi công có sự cho phép .[60]  Tại đây đánh dấu lần đầu tiên Deepfake được định nghĩa như một loại tội phạm.  Theo sự phát triển của nhận thức xã hội về những mối nguy hại mà Deepfake mang lại thì các bang tại Mỹ đã dần dần ban hành các đạo luật quy định về vấn đề này. Dù vẫn còn nhiều hạn chế song những luật này phản ánh được sự tiến bộ của ngành lập pháp Hoa Kỳ. 2.2.2. Ở cấp quốc gia Tính đến thời điểm hiện nay, Hoa Kỳ vẫn chưa có luật liên bang quy định cụ thể và toàn diện các vấn đề liên quan đến Deepfake, tất cả chỉ dừng lại ở những nỗ lực hoàn thiện, được kể đến như: Thứ nhất, Đạo luật cấm các Deepfake độc hại:[61] Được đề xuất bởi Quốc hội Hoa Kỳ, dù chưa được thông qua để trở thành luật tuy nhiên tại đó, nó quy định mức phạt tiền hoặc giam giữ đến 2 năm đối với hành vi phát tán hình ảnh/video giả mạo gây tổn hại danh dự. Nếu nội dung gây rối loạn chính trị, bạo lực hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng, thời gian giam giữ có thể lên đến 10 năm.[62] Thứ hai, Luật Trách nhiệm Deepfake:[63] Tạo ra một quy chuẩn cho người sử dụng công nghệ Deepfake khi họ phải áp dụng kỹ thuật “thủy vân số”[64] để chỉ rõ liệu đó là hình ảnh/video bản gốc hay bản đã qua chỉnh sửa. Nếu không tuân thủ theo biện pháp này, hành vi tạo ra Deepfake sẽ bị coi là phạm tội. Thứ ba, Luật DEFIANCE Act:[65] Cho phép các nạn nhân được khởi kiện và nhận bồi thường khi bị Deepfake giả mạo mà không có sự đồng ý. Nếu được thông qua, nó sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý mạnh mẽ ngăn chặn lạm dụng AI và khuyến khích phát triển công nghệ nhận dạng Deepfake.[66] Tóm lại, Hoa Kỳ đang xảy ra sự thiếu đồng bộ giữa quy định của pháp luật liên bang và các tiểu bang về Deepfake. Một số vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ chưa được giải quyết được như mối quan hệ giữa Deepfake và AI, xác định ranh giới giữa tự do ngôn luận và bảo vệ quyền lợi cá nhân .[67]  Dù đã có những bước tiến trong quá trình lập pháp, tuy nhiên, trong tương lai vẫn cần sự hợp tác sâu rộng của các cấp chính quyền, ngành công nghệ và cộng đồng nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống pháp lý.   3. Một số đề xuất trong việc quản lý công nghệ Deepfake tại Việt Nam 3.1. Thực trạng quy định về công nghệ Deepfake tại Việt Nam Xét trên khía cạnh bảo về các cá nhân khi bị xâm hại bởi Deepfake, nếu hình ảnh, danh dự, nhân phẩm hay uy tín của một cá nhân bị xâm phạm thì pháp luật đã có những chế định chung quy định tại Hiến pháp 2013 và BLDS 2015. Căn cứ vào Điều 21 khoản 1 Hiến pháp 2013, Điều 32, Điều 34 BLDS 2015, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý và danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Trong trường hợp có những hành vi xâm phạm, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc đối tượng vi phạm phải thu hồi, tiêu huỷ, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.[68] Tương tự, cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin còn có quyền yêu cầu đối tượng xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.[69] Cụ thể, trong trường hợp sử dụng Deepfake để ghép mặt người khác vào các đoạn phim khiêu dâm, đối tượng vi phạm có thể bị truy tố về tội vu khống[70] và tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ.[71] Ngoài ra, việc đối tượng sử dụng Deepfake để thực hiện các hành vi giả mạo để lừa đảo, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác là vi phạm pháp luật về an toàn xã hội[72] và nếu gây ra thiệt hại nặng nề về tài sản có thể bị truy tố tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.[73]  Hiện nay, Việt Nam chưa ghi nhận các trường hợp thao túng chính trị có sự hỗ trợ của Deepfake. Tuy vậy, các cá nhân phải đảm bảo tự do ngôn luận mà không gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, trật tự xã hội theo Điều 3 khoản 2 Luật an ninh mạng 2018 và điều 331 BLHS 2015. Đồng thời Điều 116 BLHS 2015 cũng quy định các mức hình phạt cụ thể với tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong mối quan hệ giữa nhân dân và chính quyền. Song song với những quy định trong luật hiện hành để giải quyết các vấn đề của Deepfake, tại hội thảo "Pháp luật về trí tuệ nhân tạo: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam",[74] trên góc độ học tập kinh nghiệm quốc tế, Bộ Tư Pháp xác định sẽ tiếp tục nghiên cứu các khuôn khổ chính sách, pháp luật đối với trí tuệ nhân tạo. Đây cũng là  bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý về AI tại Việt Nam.   3.2. Một số đề xuất trong việc quản lý công nghệ Deepfake tại Việt Nam Deepfake vừa là một công cụ hữu hiệu cho con người trong thời đại số, song cũng kèm theo đó là những hiểm họa khôn lường. Vì vậy, nhóm tác giả cho rằng việc sử dụng công nghệ này không nên bị cấm hoàn toàn nhưng cần có những giới hạn nhất định. Thông qua đó, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau: Một là, trong tương lai gần , nhằm nhanh chóng đáp ứng sự phát triển thần tốc của Deepfake nói riêng và AI nói chung, Nhà nước nên cân nhắc sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành. Thứ nhất, đối với các hành vi sai phạm có sử dụng Deepfake, công nghệ này có thể được coi là công cụ gây án, vì vậy, cần luật định rõ đó là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự[75]   riêng biệt, do có sự can thiệp của trí tuệ nhân tạo. Thứ hai, trong mục Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông,[76] BLHS 2015, chưa có bất kỳ quy định cụ thể nào liên quan tới tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Vì vậy, cần bổ sung tại mục này các khung pháp lý liên quan tới tội sử dụng Deepfake làm giả thông tin hoặc giả mạo người khác gây mất uy tín, ảnh hưởng thanh danh, thất thoát tài sản hoặc để lại hậu quả nghiêm trọng. Hai là , tiếp tục xây dựng và hoàn thiện một khung hành lang pháp lý riêng đối với công nghệ AI, trong đó có Deepfake. Đối với thực trạng công nghệ hiện nay, Việt Nam có thể tham khảo, nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế về khuôn khổ chính sách, pháp luật đối với trí tuệ nhân tạo để  xây dựng một bộ luật cụ thể dành riêng cho AI. Ví dụ, tham khảo các chế tài của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ thì Việt Nam có thể quy định các nhà cung cấp, sáng tạo tại Việt Nam khi sản xuất ra một nội dung dưới bất kỳ hình thức nào, đặc biệt là được phân phối trên các nền tảng trực tuyến phải gắn nhãn hoặc thông báo rõ với người tiếp cận về sự hiện diện của công nghệ Deepfake trong các sản phẩm của họ.  Ba là , nhà nước cũng cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về Deepfake, giúp người dân nhận thức được về những lợi và hại khi sử dụng công nghệ mới này. Công tác tuyên truyền, giáo dục này cần được thực hiện rộng rãi, đa dạng trong cả nhà trường, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp. Cùng với đó, mỗi cá nhân cũng cần tự bảo vệ mình, cẩn thận khi công khai các thông tin trên môi trường số và chủ động trong việc đòi lại công bằng cho bản thân khi hình ảnh, nhân phẩm hay danh dự bị xâm phạm. Từ đó xây dựng ý thức, trách nhiệm trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm lợi dụng Deepfake trên môi trường mạng.   Kết luận Sự ra đời của Deepfake, từ một bước tiến công nghệ đầy hứa hẹn, đã trở thành con dao hai lưỡi, gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đối với đời sống cá nhân, xã hội và quốc gia. Không chỉ làm mờ đi ranh giới giữa thật và giả, Deepfake còn tạo nên những lỗ hổng lớn về niềm tin trong thời đại số hoá. Trong bối cảnh đầy phức tạp đó, bài viết đã tập trung vào bản chất của Deepfake đồng thời phân tích kinh nghiệm từ một số các quốc gia tiên phong tại Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ trong việc xây dựng hành lang pháp lý để kiểm soát và ứng phó với công nghệ này. Tại Việt Nam, dù chưa phải tâm điểm của các nguy cơ xảy đến từ Deepfake, nhưng đứng trước ngưỡng cửa của hội nhập, của thời đại công nghệ, nước ta cần chủ động hơn trong việc xây dựng khung pháp lý dành cho Deepfake, không chỉ để đối phó mà còn để phòng ngừa những nguy cơ tiềm tàng mà Deepfake có thể đem đến. Tương lai của Deepfake phụ thuộc vào cách con người sử dụng nó: để Deepfake trở thành động lực phát triển hay là một thách thức làm suy thoái cộng đồng. Và câu trả lời nằm ở những bước đi pháp lý mạnh mẽ, linh hoạt và sáng tạo ngay từ bây giờ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  [1] Nguyễn Thị Phương Anh - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Phạm Thị Ngân - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Hoàng Khánh Ly - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2]Trần Linh Huân, Đặng Trần Hạ Vy (2024) ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh’ Tạp chí Ngân hàng, (25/7/2024) < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 07/10/2024. [3] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí An toàn Thông tin  (2021) < https://m.antoanthongtin.gov.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742?fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTEAAR2rN2sMFtBH9XlRrhOw6G_au0cAfSJUIbj4FOk1SdRgck6rL51OK5Feez8_aem_nS_l61Rg-G4d1cOuR35C6g > truy cập ngày 06/10/2024 [4] Ian Sample, ‘What are Deepfakes – and how can you spot them?’ ( The Guardian , 2020) < https://www.theguardian.com/technology/2020/jan/13/what-are-Deepfakes-and-how-can-you-spot-them > truy cập ngày 06/10/2024 [5] Kelleher, J. D. (2019). Deep learning. MIT press, tr 1. [6] Nguyên văn: Training phase [7] Nguyên văn: Segmentation mask [8] Nguyên văn: computer vision model [9] Jay Lowe (2022) What is a Segmentation Mask? An Introduction. Roboflow, < https://blog.roboflow.com/how-to-create-segmentation-masks-with-roboflow/ > truy cập ngày 10/11/2024. [10] Nguyên văn: Test phase [11] Như mục 4. [12] Deeptrace là công ty tạo ra những công cụ nhận diện nội dung số được chỉnh sửa bởi con người hoặc công cụ AI. [13] Tim Nudd, ‘W+K and Deepfake Willie Nelson Hype Omega Mart, a Mind-Bending Las Vegas Attraction’, ( CLIOS , 2021) < https://musebyclios.com/art/wk-and-Deepfake-willie-nelson-hype-omega-mart-mind-bending-las-vegas-attraction/ > truy cập ngày 17/10/2024. [14] Như mục 13. [15] Devin Coldewey, ‘This technology can make the Mona Lisa talk’ (2019) World Economic Forum < https://www.weforum.org/stories/2019/06/mona-lisa-frown-machine-learning-brings-old-paintings-and-photos-to-life/ > truy cập ngày 16/10/2024. [16] Isobel Asher Hamilton, ‘The Mona Lisa was brought to life in vivid detail by Deepfake AI researchers at Samsung’  ( Business Insider , 2019), < https://www.businessinsider.com/mona-lisa-brought-to-life-by-saumsung-ai-2019-5 > truy cập ngày: 16/10/2024. [17] ‘Deepfake Statistics and Trends About Cyber Threats 2024’, ( Keepnet , 2024) < https://keepnetlabs.com/blog/Deepfake-statistics-and-trends-about-cyber-threats-2024 > truy cập ngày 03/11/2024. [18] Henry Ajder, Giorgio Patrini, Francesco Cavalli, và Laurence Cullen, ‘The State of Deepfakes: Landscape, Threats, and Impact’ [2019] Deeptrace tr 7. [19] Du Lam, ‘Ai cũng có thể là nạn nhân của Deepfake khiêu dâm trong kỷ nguyên AI’ ( Vietnamnet , 2024) < https://vietnamnet.vn/ai-cung-co-the-la-nan-nhan-cua-Deepfake-khieu-dam-trong-ky-nguyen-ai-2342245.html > truy cập ngày 19/11/2024. [20] Quốc Đạt, ‘2024 - năm “siêu bầu cử” định hình tương lai’  Báo Đại biểu Nhân dân (07/02/2024) < https://daibieunhandan.vn/2024-nam-sieu-bau-cu-dinh-hinh-tuong-lai-post358336.html > truy cập ngày: 07/11/2024. [21] Sasha Pezenik và Brittany, ‘ ABC News  Fake Biden robocall urges New Hampshire voters to skip their primary’ ABC News (23/01/2024) < https://abcnews.go.com/Politics/fake-biden-robocall-urges-new-hampshire-voters-skip/story?id=106580926 > truy cập ngày 12/11/2024. [22] Lubna Takruri, ‘The role of AI in detecting Deepfake fraud’  ( Onfido , 16/11/2023) < https://onfido.com/blog/ai-detecting-Deepfake-fraud/ > truy cập ngày 15/11/2024. [23] Như mục 17. [24] ThS. Trần Linh Huân và Đặng Trần Hạ Vy, ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh (2024) Tạp chí Ngân Hàng < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 18/11/2024. [25] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2024. [26[ Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày 10/11/2024. [27] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2. [28] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2, khoản 3, khoản 4, khoản 6, khoản 8, khoản 10 và khoản 12. [29] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 1. [30] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 3. [31] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 7. [32] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 60. [33] AI đa dụng là một hệ thống AI có khả năng thực hiện một loạt các nhiệm vụ khác nhau với mức độ thông minh và hiệu quả tương đương hoặc thậm chí vượt qua con người, AI đa dụng có thể học hỏi và thích nghi với nhiều lĩnh vực và nhiệm vụ khác nhau (P.A.T (NASATI), ‘Trí tuệ nhân tạo đa dụng là gì?’, ( Bộ Khoa học và Công nghệ - Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia , 2024) < https://www.vista.gov.vn/vi/news/khoa-hoc-doi-song/tri-tue-nhan-tao-da-dung-la-gi-8643.html > truy cập ngày: 15/11/2024. [34] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 133. [35] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134. [36] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134; Felipe Romero Moreno, ‘Generative AI and Deepfakes: a human rights approach to tackling harmful content’ (2024) 38 (3) International Review of Law, Computers & Technology tr297 - 326 < https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/13600869.2024.2324540#d1e109 > truy cập ngày: 10/11/2024. [37] Hiến chương của Liên minh châu Âu, Điều 11 và Điều 13. [38] Nguyên văn: Unacceptable risk. [39] Nguyên văn: High risk. [40] Nguyên văn: Limited risk. [41] Nguyên văn: Minimal risk. [42] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương 4. [43] Nguyên văn:  Generative AI [44] Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày: 10/11/2024. [45] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung  đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào ngày 14/4/2016. [46] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 6. [47] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điểm f  Khoản 1 Điều 6. [48] Nguyên văn: Automated individual decision-making. [49] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 22. [50] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 16. [51] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 17. [52] Adi Robertso n, ‘Virginia’s ‘revenge porn’ laws now officially cover Deepfakes’ (2019), The Verge < https://www.theverge.com/2019/7/1/20677800/virginia-revenge-porn-Deepfakes-nonconsensual-photos-videos-ban-goes-into-effect > truy cập ngày: 08/11/2024. [53] HB 2678: Unlawful dissemination or sale of images of another (2019), Virginia Law Portal < https://legiscan.com/VA/bill/HB2678/2019 > truy cập ngày: 18/11/2024. [54] Nguyên văn: Synthetic media. [55] SB 5959, 2020. [56] SB 78, 2021. [57] HB 0085, 2021. [58] Trần Văn Liệu, ‘ Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ (2021), Tạp chí an toàn thông tin < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy c ập ngày: 08/11/2014. [59] Meneses, J. P, Seeking to define deepfakes from U.S. state laws. Communication & Society  (2024), 37(3), 219-235. [60] SB 309 HD2 CD1. (2021). ‘Privacy in the First Degree; Deep Fakes’. [61] Nguyên văn: Malicious Deep Fake Accountability Act of 2018. [62] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí an toàn thông tin (2021) < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy cậ p ngày 08/11/2014. [63] Deepfakes Accountability Act, được đề xuất bởi Hạ viện, tháng 6/2019. [64] Nguyên văn: Digital watermarking. [65] Digital Evidence and Fake Information Accountability and Countermeasures Enforcement Act (Tạm dịch:Đạo luật thực thi trách nhiệm và biện pháp đối phó về bằng chứng kỹ thuật số và thông tin giả mạo), được thông qua bởi Thượng viện, tháng 7/2024. [66] Lauren, ‘The Senate passed a bill cracking down on sexually explicit Deepfakes’ The Verge (2024) < https://www.theverge.com/2024/7/24/24205275/senate-passes-defiance-act-non-consensual-intimate-ai-Deepfakes > tru y cập ngày: 09/11/2024. [67] Robert Chesney and Danielle Keats Citron, ‘Deep Fakes: A Looming Challenge for Privacy, Democracy, and National Security’ (2018) < https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3213954 > truy cập ngày: 08/11/2024. [68] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 3 Điều 32. [69] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 5 Điều 34. [70] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điểm e Khoản 2 Điều 2. [71] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 326,  sửa đổi 2017, Khoản 124 Điều 1. [72] Luật An ninh mạng 2018, Điều 18. [73] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 174. [74] Hội thảo được tổ chức ngày 10/5/2024 tại Hà Nội [75] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điều 52. [76] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Mục 2, Chương XXI. [1] Nguyễn Thị Phương Anh - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Phạm Thị Ngân - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Hoàng Khánh Ly - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2]Trần Linh Huân, Đặng Trần Hạ Vy (2024) ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh’ Tạp chí Ngân hàng, (25/7/2024) < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 07/10/2024. [3] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí An toàn Thông tin  (2021) < https://m.antoanthongtin.gov.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742?fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTEAAR2rN2sMFtBH9XlRrhOw6G_au0cAfSJUIbj4FOk1SdRgck6rL51OK5Feez8_aem_nS_l61Rg-G4d1cOuR35C6g > truy cập ngày 06/10/2024 [4] Ian Sample, ‘What are Deepfakes – and how can you spot them?’ ( The Guardian , 2020) < https://www.theguardian.com/technology/2020/jan/13/what-are-Deepfakes-and-how-can-you-spot-them > truy cập ngày 06/10/2024 [5] Kelleher, J. D. (2019). Deep learning. MIT press, tr 1. [6] Nguyên văn: Training phase [7] Nguyên văn: Segmentation mask [8] Nguyên văn: computer vision model [9] Jay Lowe (2022) What is a Segmentation Mask? An Introduction. Roboflow, < https://blog.roboflow.com/how-to-create-segmentation-masks-with-roboflow/ > truy cập ngày 10/11/2024. [10] Nguyên văn: Test phase [11] Như mục 4. [12] Deeptrace là công ty tạo ra những công cụ nhận diện nội dung số được chỉnh sửa bởi con người hoặc công cụ AI. [13] Tim Nudd, ‘W+K and Deepfake Willie Nelson Hype Omega Mart, a Mind-Bending Las Vegas Attraction’, ( CLIOS , 2021) < https://musebyclios.com/art/wk-and-Deepfake-willie-nelson-hype-omega-mart-mind-bending-las-vegas-attraction/ > truy cập ngày 17/10/2024. [14] Như mục 13. [15] Devin Coldewey, ‘This technology can make the Mona Lisa talk’ (2019) World Economic Forum < https://www.weforum.org/stories/2019/06/mona-lisa-frown-machine-learning-brings-old-paintings-and-photos-to-life/ > truy cập ngày 16/10/2024. [16] Isobel Asher Hamilton, ‘The Mona Lisa was brought to life in vivid detail by Deepfake AI researchers at Samsung’  ( Business Insider , 2019), < https://www.businessinsider.com/mona-lisa-brought-to-life-by-saumsung-ai-2019-5 > truy cập ngày: 16/10/2024. [17] ‘Deepfake Statistics and Trends About Cyber Threats 2024’, ( Keepnet , 2024) < https://keepnetlabs.com/blog/Deepfake-statistics-and-trends-about-cyber-threats-2024 > truy cập ngày 03/11/2024. [18] Henry Ajder, Giorgio Patrini, Francesco Cavalli, và Laurence Cullen, ‘The State of Deepfakes: Landscape, Threats, and Impact’ [2019] Deeptrace tr 7. [19] Du Lam, ‘Ai cũng có thể là nạn nhân của Deepfake khiêu dâm trong kỷ nguyên AI’ ( Vietnamnet , 2024) < https://vietnamnet.vn/ai-cung-co-the-la-nan-nhan-cua-Deepfake-khieu-dam-trong-ky-nguyen-ai-2342245.html > truy cập ngày 19/11/2024. [20] Quốc Đạt, ‘2024 - năm “siêu bầu cử” định hình tương lai’  Báo Đại biểu Nhân dân (07/02/2024) < https://daibieunhandan.vn/2024-nam-sieu-bau-cu-dinh-hinh-tuong-lai-post358336.html > truy cập ngày: 07/11/2024. [21] Sasha Pezenik và Brittany, ‘ ABC News  Fake Biden robocall urges New Hampshire voters to skip their primary’ ABC News (23/01/2024) < https://abcnews.go.com/Politics/fake-biden-robocall-urges-new-hampshire-voters-skip/story?id=106580926 > truy cập ngày 12/11/2024. [22] Lubna Takruri, ‘The role of AI in detecting Deepfake fraud’  ( Onfido , 16/11/2023) < https://onfido.com/blog/ai-detecting-Deepfake-fraud/ > truy cập ngày 15/11/2024. [23] Như mục 17. [24] ThS. Trần Linh Huân và Đặng Trần Hạ Vy, ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh (2024) Tạp chí Ngân Hàng < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 18/11/2024. [25] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2024. [26[ Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày 10/11/2024. [27] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2. [28] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2, khoản 3, khoản 4, khoản 6, khoản 8, khoản 10 và khoản 12. [29] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 1. [30] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 3. [31] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 7. [32] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 60. [33] AI đa dụng là một hệ thống AI có khả năng thực hiện một loạt các nhiệm vụ khác nhau với mức độ thông minh và hiệu quả tương đương hoặc thậm chí vượt qua con người, AI đa dụng có thể học hỏi và thích nghi với nhiều lĩnh vực và nhiệm vụ khác nhau (P.A.T (NASATI), ‘Trí tuệ nhân tạo đa dụng là gì?’, ( Bộ Khoa học và Công nghệ - Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia , 2024) < https://www.vista.gov.vn/vi/news/khoa-hoc-doi-song/tri-tue-nhan-tao-da-dung-la-gi-8643.html > truy cập ngày: 15/11/2024. [34] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 133. [35] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134. [36] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134; Felipe Romero Moreno, ‘Generative AI and Deepfakes: a human rights approach to tackling harmful content’ (2024) 38 (3) International Review of Law, Computers & Technology tr297 - 326 < https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/13600869.2024.2324540#d1e109 > truy cập ngày: 10/11/2024. [37] Hiến chương của Liên minh châu Âu, Điều 11 và Điều 13. [38] Nguyên văn: Unacceptable risk. [39] Nguyên văn: High risk. [40] Nguyên văn: Limited risk. [41] Nguyên văn: Minimal risk. [42] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương 4. [43] Nguyên văn:  Generative AI [44] Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày: 10/11/2024. [45] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung  đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào ngày 14/4/2016. [46] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 6. [47] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điểm f  Khoản 1 Điều 6. [48] Nguyên văn: Automated individual decision-making. [49] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 22. [50] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 16. [51] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 17. [52]   Adi Robertso n, ‘Virginia’s ‘revenge porn’ laws now officially cover Deepfakes’ (2019), The Verge < https://www.theverge.com/2019/7/1/20677800/virginia-revenge-porn-Deepfakes-nonconsensual-photos-videos-ban-goes-into-effect > truy cập ngày: 08/11/2024. [53] HB 2678: Unlawful dissemination or sale of images of another (2019), Virginia Law Portal < https://legiscan.com/VA/bill/HB2678/2019 > truy cập ngày: 18/11/2024. [54] Nguyên văn: Synthetic media. [55] SB 5959, 2020. [56] SB 78, 2021. [57] HB 0085, 2021. [58] Trần Văn Liệu, ‘ Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ (2021), Tạp chí an toàn thông tin < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy c ập ngày: 08/11/2014. [59] Meneses, J. P, Seeking to define deepfakes from U.S. state laws. Communication & Society  (2024), 37(3), 219-235. [60] SB 309 HD2 CD1. (2021). ‘Privacy in the First Degree; Deep Fakes’. [61] Nguyên văn: Malicious Deep Fake Accountability Act of 2018. [62] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí an toàn thông tin (2021) < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy cậ p ngày 08/11/2014. [63] Deepfakes Accountability Act, được đề xuất bởi Hạ viện, tháng 6/2019. [64] Nguyên văn: Digital watermarking. [65] Digital Evidence and Fake Information Accountability and Countermeasures Enforcement Act (Tạm dịch:Đạo luật thực thi trách nhiệm và biện pháp đối phó về bằng chứng kỹ thuật số và thông tin giả mạo), được thông qua bởi Thượng viện, tháng 7/2024. [66] Lauren, ‘The Senate passed a bill cracking down on sexually explicit Deepfakes’ The Verge (2024) < https://www.theverge.com/2024/7/24/24205275/senate-passes-defiance-act-non-consensual-intimate-ai-Deepfakes > tru y cập ngày: 09/11/2024. [67] Robert Chesney and Danielle Keats Citron, ‘Deep Fakes: A Looming Challenge for Privacy, Democracy, and National Security’ (2018) < https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3213954 > truy cập ngày: 08/11/2024. [68] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 3 Điều 32. [69] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 5 Điều 34. [70] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điểm e Khoản 2 Điều 2. [71] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 326,  sửa đổi 2017, Khoản 124 Điều 1. [72] Luật An ninh mạng 2018, Điều 18. [73] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 174. [74] Hội thảo được tổ chức ngày 10/5/2024 tại Hà Nội [75] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điều 52. [76] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Mục 2, Chương XXI. [1] Tóm tắt: Trong những năm gần đây, với sự phát triển mang tính đột phá của công nghệ trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI), công nghệ Deepfake đã ra đời, mang lại những ảnh hưởng nhất định trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, tiêu biểu là trong môi trường số. Hình ảnh nam diễn viên Paul Walker được “tái tạo” lại trong bộ phim “Fast & Furious 7” hay kỹ thuật trẻ hoá các diễn viên trong một số bộ phim của Marvel là minh chứng cho thành tựu mà công nghệ này đem lại. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích, thành tựu là những rủi ro, thách thức do Deepfake gây ra. Kể từ khi Deepfake ra đời đã xuất hiện nhiều trường hợp lừa đảo sử dụng công nghệ này để trục lợi trên môi trường số gây ra sự hoang mang cho dư luận, tiến đến chia rẽ nội bộ chính trị, hủy hoại niềm tin công chúng. Nhận thấy vấn đề này là nghiêm trọng và cấp thiết, nhóm tác giả bằng phương pháp so sánh các Đạo luật, Dự luật của các quốc gia trên thế giới, phân loại và hệ thống những mặt thiếu sót trong khung pháp lý tại Việt Nam để từ đó đưa ra khuyến nghị và bài học xây dựng một môi trường số lành mạnh.   Từ khoá: Deepfake, giả mạo, môi trường số, kinh nghiệm quốc tế   Mở đầu Trong thế kỷ 21, Deepfake đã ra đời và nổi lên như một thách thức đáng lo ngại với các quốc gia trên toàn thế giới, công nghệ này thường bị lạm dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, giả mạo danh tính,...Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến quyền riêng tư và danh dự cá nhân mà còn đe dọa tới an ninh quốc gia, hoang mang dư luận và làm xói mòn đến niềm tin xã hội.[2] Trong bối cảnh đó, việc xem xét các vấn đề pháp lý liên quan đến Deepfake để kịp thời đưa ra một số khắc phục, phòng tránh là quan trọng và cấp thiết. Trên phạm vi quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã kịp thời đưa ra các chính sách, biện pháp đối phó nhằm nhận diện, kiểm soát và ngăn chặn hậu quả mà Deepfake mang lại. Tại Việt Nam hiện nay, dù chưa bị ảnh hưởng nặng nề bởi Deepfake nhưng trong thời kỳ hội nhập toàn cầu, các thông tin giả mạo do Deepfake gây ra có thể tác động sâu rộng đến nhiều mặt của xã hội.[3] Do đó, việc xây dựng một khung pháp lý cho những công nghệ mới được áp dụng trong đời sống nói chung, và quy định về sử dụng Deepfake nói riêng là cần thiết. Nhận thấy tính cấp thiết của đề tài, trong 3 phần của bài viết, nhóm tác giả sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về Deepfake, phân tích các đạo luật, dự luật về Deepfake của EU và Hoa Kỳ, đưa ra một số đề xuất trong việc quản lý công nghệ Deepfake tại Việt Nam và cuối cùng là kết luận. 1. Tổng quan về công nghệ Deepfake trong môi trường số 1.1. Định nghĩa về Deepfake trong môi trường số 1.1.1. Định nghĩa chung về Deepfake Thuật ngữ Deepfake đã xuất hiện từ đầu những năm 2017, khi một nhà phát triển phần mềm có biệt danh là “Deepfakes” đã đăng tải các đoạn phim hoán đổi khuôn mặt của những người nổi tiếng Hollywood thành khuôn mặt của các diễn viên khiêu dâm lên nền tảng Reddit.[4] Sau đó, Deepfake trở thành một xu hướng mới và được lan truyền nhanh chóng trên các nền tảng mạng xã hội. Deepfake là sự kết hợp của hai từ  “deep learning” và “fake content” . Trong đó, deep learning  là một lĩnh vực trong AI, tập trung vào việc tạo ra một mạng lưới thần kinh nhân tạo, có khả năng phân tích và đưa ra các quyết định dựa trên dữ liệu đầu vào.[5] Còn fake content  chỉ đơn giản mang nghĩa là làm giả nội dung . Như vậy, Deepfake là một công nghệ mới sử dụng trí tuệ nhân tạo để giả mạo chân dung, giọng nói của người này bằng chân dung, giọng nói của người khác. 1.1.2. Nguyên lý hoạt động hoạt động của công nghệ Deepfake Như đã đề cập phía trên, Deepfake là công nghệ làm giả khuôn mặt và tạo ra nội dung hoàn toàn giả lập bằng cách bắt chước một sự vật, sự việc có thật, thông qua hai bước chính: Bước thứ nhất , giai đoạn đào tạo.[6] Ban đầu, khi nhập vào hệ thống nguồn dữ liệu hình ảnh về một người A, ngay lập tức, công cụ này sẽ phân tích các đường nét, biểu cảm và chuyển động trên gương mặt. Tiếp theo, hệ thống tạo ra một bản sao mô phỏng[7] của A, sao chép chi tiết hơn các vùng của khuôn mặt trong mô hình thị giác máy tính.[8] Sau đó, bản mô phỏng này sẽ tạo ra hình ảnh động có chuyển động tương tự dữ liệu gốc, tuy nhiên ở thời điểm ban đầu, hình ảnh này có thể bị mờ, méo mó hoặc hành động cứng nhắc.[9] Bước thứ hai , giai đoạn thử nghiệm.[10] Tại giai đoạn này, hệ thống sẽ áp lớp mô phỏng của A lên khuôn mặt B và so sánh với ảnh gốc của A để tính độ tương đồng. Trong trường hợp chưa đạt yêu cầu, hệ thống sẽ quay lại giai đoạn đào tạo để bổ sung đặc điểm nhận dạng của A. Quá trình này lặp lại cho đến khi đạt con số đã quy chuẩn. Khi đó, kết quả nhận được là hình ảnh của B với giao diện của người A.[11] Quy trình trên cũng được áp dụng khi sử dụng Deepfake để giả mạo giọng nói của một người khác. 1.2. Thực trạng ứng dụng công nghệ Deepfake hiện nay 1.2.1. Những lợi ích khi ứng dụng công nghệ Deepfake Theo thống kê của Deeptrace,[12] có tới 96% video sử dụng Deepfake có nội dung đồi truỵ, gây cho người dùng ấn tượng xấu. Tuy nhiên, Deepfake là một công cụ hữu hiệu với một số các ngành đặc thù, bao gồm: a. Ngành công nghiệp tiếp thị Deepfake được coi là “cứu tinh” của các đơn vị tiếp thị có ngân sách eo hẹp mà muốn tối ưu hoá thời gian, công sức. Thay vì thuê diễn viên, họ chỉ cần mua giấy phép hình ảnh và chỉnh sửa video với lời thoại phù hợp. Nhờ vào Deepfake, chuỗi siêu thị Omega đã tái hiện lại hình ảnh của huyền thoại ca sĩ nhạc đồng quê - Willie Nelson trong một video quảng cáo, tạo ra cảm xúc hoài niệm cho người xem.[13] b. Ngành nghệ thuật Tương tự ngành tiếp thị, công nghệ Deepfake giúp các ngành nghệ thuật (đặc biệt là phim ảnh) tiết kiệm chi phí và đảm bảo an toàn cho diễn viên thông qua việc hỗ trợ công tác hậu kỳ, giúp cắt ghép diễn viên vào các phân cảnh mạo hiểm hoặc viễn tưởng.[14] Deepfake còn được coi là “điểm giao” giữa công nghệ và nghệ thuật khi đây là công cụ làm chuyển động hóa các tác phẩm nghệ thuật tĩnh. Năm 2019, các nhà nghiên cứu tại trung tâm AI Samsung tại Moscow đã chụp bức chân dung “Mona Lisa” của Leonardo da Vinci sau đó khiến nàng Mona Lisa nói và di chuyển như người thật, thông qua thuật toán Deepfake.[15] Bên cạnh các bức họa nổi tiếng, hình ảnh của các nghệ sĩ quá cố như Marilyn Monroe, Salvador Dali,... cũng được làm tái hiện lại bằng phương pháp tương tự.[16]   1.2.2. Những thách thức trong quá trình sử dụng công nghệ Deepfake hiện nay a. Vấn nạn phim khiêu dâm Tính tới tháng 9/2019, tổng số video có sử dụng công nghệ Deepfake mang nội dung khiêu dâm được đăng tải trên các nền tảng trực tuyến là khoảng 14.091 (trên tổng số 14.678 video). Con số này đã tăng vọt lên hơn 85.000 vào tháng 12/2020.[17] Ai cũng có thể trở thành nạn nhân của các video khiêu dâm do Deepfake tạo ra, đặc biệt là những người phụ nữ có sức ảnh hưởng, chủ yếu tới từ Anh, Mỹ và Hàn Quốc [18] (bao gồm các ca sĩ, diễn viên và nhóm nhạc nổi tiếng). Cơ sở pháp lý chưa được hoàn thiện khiến các nạn nhân cảm thấy suy sụp và phải “tự bơi” giữa các quy định chắp vá.[19] Ngoài ra, việc tìm kiếm bằng chứng, điều tra và khởi tố trên không gian mạng rất khó khăn và kéo dài, khiến nạn nhân khó đòi lại công bằng, danh dự và nhân phẩm cho bản thân. b. Thao túng chính trị Các chính trị gia và nhà cầm quyền cũng là những nạn nhân thường xuyên của công nghệ “shallowfake”, một nhánh của Deepfake. Công nghệ này được sử dụng với mục đích tạo ra giọng nói giả nhằm thêm các nội dung sai lệch vào trong các bài diễn văn và phát ngôn của họ. Năm 2024 được gọi là năm "siêu bầu cử" khi có tới hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ chứng kiến các cuộc bầu cử quyết định các vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý Nhà nước như tại Mỹ, Ấn Độ, Nga,...[20] Đây là tiền đề cho sự phát triển công nghệ Deepfake với mục đích can dự vào tình hình chính trị. Điển hình là trong chiến dịch kêu gọi bầu cử Tổng thống Mỹ, một cuộc gọi tự động do AI tạo ra bắt chước giọng nói của Tổng thống Joe Biden đã được sử dụng để ngăn cản những người theo đảng Dân chủ ở New Hampshire bỏ phiếu trong cuộc bầu cử sơ bộ vào tháng 01/2024. Cố vấn chính trị cho phép cuộc gọi này diễn ra sẽ phải chịu phí phạt 6 triệu đô-la vì sai sót này.[21] c. An ninh mạng bị đe dọa, tỉ lệ tội phạm mạng gia tăng Các thống kê cho thấy công cụ AI nói chung và công nghệ Deepfake nói riêng đang trở nên thông minh hơn. Các vụ lừa đảo và gian lận liên quan đến Deepfake, do đó, đã tăng lên mức đáng báo động khi số liệu vào năm 2023 gấp 31 lần năm 2022.[22] Trong đó, 88% các kỹ thuật lừa đảo bằng AI hoặc Deepfake nhắm vào lĩnh vực tiền điện tử.[23] Tại Việt Nam, ngày càng nhiều thủ đoạn lừa đảo sử dụng Deepfake ra đời, có thể kể tới như: (i) Giả giọng/hình ảnh của người thân để vay tiền nạn nhân qua cuộc gọi thoại/cuộc gọi video; (ii) Giả mạo giọng nhân viên ngân hàng để lấy thông tin cá nhân và mã OTP từ nạn nhân; (iii) Giả mạo người có quyền hạn, chức vụ trong các tổ chức, doanh nghiệp để yêu cầu nạn nhân chuyển tiền; (iv) Sử dụng Deepfake giả mạo hình ảnh nhằm chiếm đoạt các phúc lợi của người mất.[24] Nhìn chung, các mô hình lừa đảo này đều lợi dụng sự thiếu cẩn trọng và khó khăn trong khả năng phán đoán thật, giả của người dân khi liên lạc, giao dịch trên môi trường số.   2. Quy định của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ về công nghệ Deepfake 2.1. Các đạo luật của Liên minh châu Âu 2.1.1. Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu[25]   là khung pháp lý toàn diện đầu tiên trên thế giới dành riêng cho AI.[26] Đạo luật ra đời nhằm cân bằng giữa việc thúc đẩy đổi mới tạo ra những bước đột phá về khoa học kỹ thuật và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Về phạm vi điều chỉnh bao gồm các nhà cung cấp, triển khai, nhập khẩu, phân phối và sản xuất các sản phẩm, hệ thống AI có liên quan đến thị trường EU.[27]  Mặt khác, Đạo luật cũng đặt ra một số ngoại lệ nhất định như Đạo luật này không áp dụng cho những hệ thống AI có mã nguồn mở trừ khi những hệ thống này bị cấm hoặc được phân loại vào nhóm có rủi ro cao hoặc một số trường hợp khác.[28] Đầu tiên, Đạo luật AI đưa ra định nghĩa về hệ thống AI “là hệ thống máy hoạt động tự chủ, có thể tự thích ứng sau khi được triển khai để đạt mục tiêu từ các dữ liệu đầu vào, suy luận ra phương thức và tạo các kết quả đầu ra như dự đoán, đề xuất, hoặc các quyết định có thể ảnh hưởng tới môi trường thực và ảo.”[29] Tiếp theo Đạo luật cũng đưa ra các định nghĩa về nhà cung cấp cũng như nhà phân phối, trong đó, nhà cung cấp là các cá nhân, pháp nhân, cơ quan hay tổ chức phát triển, đưa ra thị trường, hoặc sử dụng hệ thống/mô hình AI dưới tên hoặc nhãn hiệu riêng, dù thu phí hay miễn phí[30] và nhà phân phối là một cá nhân hoặc pháp nhân trong chuỗi cung ứng, ngoài nhà cung cấp hoặc nhà nhập khẩu, cung cấp hệ thống AI trên thị trường Liên minh.[31] Cuối cùng Đạo luật định nghĩa về Deepfake là nội dung hình ảnh, âm thanh hoặc video do AI tạo ra hoặc chỉnh sửa, giống với người, vật, hay sự kiện có thật có thể khiến người xem nhầm lẫn rằng đó là sự thật.[32] Nhằm hạn chế những nguy hiểm do Deepfake gây ra, Đạo luật AI  đã thúc đẩy các nhà cung cấp, người sáng tạo nội dung xác minh tính minh bạch của các sản phẩm có chứa công nghệ này. Theo Điều 50 (2), các nhà cung cấp các công cụ AI đa dụng[33] (bao gồm Deepfake) phải gắn nhãn các nội dung do AI tạo ra, việc gắn nhãn có thể thông qua các kỹ thuật như hình mờ, nhận dạng, mã hoá,...[34] Tuy nhiên, điều này không áp dụng khi được uỷ quyền cho các hoạt động thực thi pháp luật như phát hiện tội phạm hoặc truy tố. Điều 50 (4) quy định rằng với những nhà sáng tạo sử dụng AI để tạo Deepfake thì cần phải tiết lộ điều này với công chúng, thông qua việc gắn nhãn và nêu rõ nguồn gốc AI.[35] Tuy nhiên có hai miễn trừ chính cho điều này là dùng Deepfake khi điều tra, truy tố tội phạm và khi nội dung do AI tạo ra đã trải qua quá trình kiểm duyệt và biên tập của con người. Ngoài ra, đạo luật cũng cho phép các tác phẩm Deepfake hư cấu, châm biếm hoặc nghệ thuật có nghĩa vụ tiết lộ hạn chế.[36] Tại đây, việc tiết lộ nguồn gốc AI phải tinh tế, đảm bảo tính minh bạch mà không làm ảnh hưởng đến việc biểu đạt nghệ thuật, bảo vệ quyền tự do ngôn luận và sáng tạo nghệ thuật.[37] Theo Đạo luật AI, các hệ thống AI (gồm Deepfake) được đánh giá và phân loại dựa trên mức độ rủi ro: Rủi ro không thể chấp nhận được,[38] rủi ro cao,[39] rủi ro có thể kiểm soát,[40] rủi ro không đáng kể.[41] Trong phần này sẽ chỉ đề cập đến rủi ro không kiểm soát do những hệ quả của Deepfake hiện nay thường ở mức độ này. Đối với mức độ này thì những rủi ro đến từ việc thiếu minh bạch trong việc sử dụng AI.[42] Theo đó, Đạo luật đề ra một số nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo sự minh bạch và tăng cường lòng tin của con người đối với AI, thông qua quy định về nghĩa vụ thông báo trong trường hợp cần thiết. Một trong những trường hợp điển hình đó là nội dung được tạo ra bởi AI tạo sinh,[43] nếu sử dụng Deepfake trong nội dung thì phải bảo đảm có thể nhận ra được, đặc biệt là với những thông tin được quan tâm bởi công chúng thì phải được dán nhãn là được tạo ra bởi yếu tố nhân tạo .[44] 2.1.2. Quy định Bảo vệ dữ liệu chung[45] Theo quy định của GDPR, chỉ khi có sự đồng ý của cá nhân hay nhằm thực hiện các mục đích hợp pháp thì việc sử dụng các dữ liệu cá nhân cho Deepfake mới được chấp nhận.[46] Do đó, việc đánh giá liệu người sáng tạo và nhà phân phối Deepfake có thể dựa vào "lợi ích hợp pháp" làm cơ sở pháp lý[47] hay không đòi hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích của việc sử dụng dữ liệu cá nhân để tạo Deepfake và những tác hại có thể gây ra cho cá nhân đó. Ngoài ra, GDPR còn cung cấp cho các nạn nhân của Deepfake các biện pháp để bảo vệ bản thân bao gồm quyền phản đối các quyết định tự động[48] tác động đáng kể đến cuộc sống của họ dựa trên hình ảnh giống họ trong các nội dung Deepfake độc ​​hại.[49] Chủ thể của dữ liệu cũng có quyền yêu cầu bên tạo ra các sản phẩm Deepfake sửa chữa, hoàn thiện[50] hay xóa bỏ dữ liệu cá nhân liên quan đến mình và bên sáng tạo có nghĩa vụ xoá bỏ dữ liệu đó trong khoảng thời gian đã được quy định.[51] Cả hai đạo luật đều đưa ra các phương pháp nhằm ngăn chặn những tác hại của Deepfake và bảo vệ người dùng nhưng các biện pháp này chưa thực sự hiệu quả trong việc bảo vệ toàn diện quyền của cá nhân. Hơn nữa, tác động của Deepfake vẫn chưa được xác định một rõ ràng dẫn đến nhiều thách thức trong việc vừa phát triển những công nghệ mới và kiểm soát các hệ quả tiêu cực mà nó có thể gây ra.   2.2. Quy định của Mỹ về công nghệ Deepfake 2.2.1. Ở cấp tiểu bang Bắt nguồn từ năm 2014, bang Virginia đã ra lệnh cấm phát tán những hình ảnh hoặc video khoả thân với mục đích “ép buộc, quấy rối hay đe dọa” đến bất kỳ cá nhân nào.[52] Phải đến tháng 3 năm 2019, bản sửa đổi đã làm rõ quy định này bao gồm “Các hình ảnh tĩnh hoặc video độc hại được tạo ra bởi các phần mềm Photoshop với mục đích mô tả một người thực tế và người đó có thể nhận diện được là người thật qua các đặc điểm như khuôn mặt, hình dáng, các bộ phận khác…”.[53] Không đề cập trực tiếp đến Deepfake hay phương tiện truyền thông tổng hợp[54] tuy nhiên với những nội dung ám chỉ đã ghi nhận đây là bang đầu tiên tại Mỹ ban hành luật pháp liên quan đến Deepfake. Tình trạng này tiếp tục xuất hiện tại các điều luật được ban hành tại một số bang như New York,[55] Georgia,[56]   và Wyoming.[57] Và Deepfake chỉ được nêu bật cụ thể lần đầu tiên vào tháng 9/2019 thông qua dự luật “S.B. No. 751” của bang Texas, quy định các hành vi sử dụng kỹ thuật Deepfake để tạo video nhằm can thiệp hoạt động bầu cử là hành vi phạm tội hình sự .[58]  Tuy nhiên cũng cần xem xét đến một số điểm lưu ý của luật này:  (i) Đạo luật chỉ rõ giới hạn Deepfake đối với các video nhưng không ngoại trừ các phương thức khác; (ii) Không đề cập đến sự góp mặt của AI - công cụ tạo ra phần lớn các nội dung độc hại; (iii) Mặc dù đã không phù hợp với tình hình hiện tại, song đạo luật này được coi là tiến bộ tại năm 2019 - thời điểm mà nó ra đời.[59]  Sau hai năm, cụ thể vào ngày 23 tháng 6 năm 2021, bang Hawaii đã thông qua đạo luật SB 309 sau khuyến nghị của lực lượng đặc nhiệm về việc bảo vệ quyền riêng tư hình ảnh cá nhân và cấm sử dụng Deepfake khi công có sự cho phép .[60]  Tại đây đánh dấu lần đầu tiên Deepfake được định nghĩa như một loại tội phạm.  Theo sự phát triển của nhận thức xã hội về những mối nguy hại mà Deepfake mang lại thì các bang tại Mỹ đã dần dần ban hành các đạo luật quy định về vấn đề này. Dù vẫn còn nhiều hạn chế song những luật này phản ánh được sự tiến bộ của ngành lập pháp Hoa Kỳ. 2.2.2. Ở cấp quốc gia Tính đến thời điểm hiện nay, Hoa Kỳ vẫn chưa có luật liên bang quy định cụ thể và toàn diện các vấn đề liên quan đến Deepfake, tất cả chỉ dừng lại ở những nỗ lực hoàn thiện, được kể đến như: Thứ nhất, Đạo luật cấm các Deepfake độc hại:[61] Được đề xuất bởi Quốc hội Hoa Kỳ, dù chưa được thông qua để trở thành luật tuy nhiên tại đó, nó quy định mức phạt tiền hoặc giam giữ đến 2 năm đối với hành vi phát tán hình ảnh/video giả mạo gây tổn hại danh dự. Nếu nội dung gây rối loạn chính trị, bạo lực hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng, thời gian giam giữ có thể lên đến 10 năm.[62] Thứ hai, Luật Trách nhiệm Deepfake:[63] Tạo ra một quy chuẩn cho người sử dụng công nghệ Deepfake khi họ phải áp dụng kỹ thuật “thủy vân số”[64] để chỉ rõ liệu đó là hình ảnh/video bản gốc hay bản đã qua chỉnh sửa. Nếu không tuân thủ theo biện pháp này, hành vi tạo ra Deepfake sẽ bị coi là phạm tội. Thứ ba, Luật DEFIANCE Act:[65] Cho phép các nạn nhân được khởi kiện và nhận bồi thường khi bị Deepfake giả mạo mà không có sự đồng ý. Nếu được thông qua, nó sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý mạnh mẽ ngăn chặn lạm dụng AI và khuyến khích phát triển công nghệ nhận dạng Deepfake.[66] Tóm lại, Hoa Kỳ đang xảy ra sự thiếu đồng bộ giữa quy định của pháp luật liên bang và các tiểu bang về Deepfake. Một số vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ chưa được giải quyết được như mối quan hệ giữa Deepfake và AI, xác định ranh giới giữa tự do ngôn luận và bảo vệ quyền lợi cá nhân .[67]  Dù đã có những bước tiến trong quá trình lập pháp, tuy nhiên, trong tương lai vẫn cần sự hợp tác sâu rộng của các cấp chính quyền, ngành công nghệ và cộng đồng nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống pháp lý.   3. Một số đề xuất trong việc quản lý công nghệ Deepfake tại Việt Nam 3.1. Thực trạng quy định về công nghệ Deepfake tại Việt Nam Xét trên khía cạnh bảo về các cá nhân khi bị xâm hại bởi Deepfake, nếu hình ảnh, danh dự, nhân phẩm hay uy tín của một cá nhân bị xâm phạm thì pháp luật đã có những chế định chung quy định tại Hiến pháp 2013 và BLDS 2015. Căn cứ vào Điều 21 khoản 1 Hiến pháp 2013, Điều 32, Điều 34 BLDS 2015, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý và danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Trong trường hợp có những hành vi xâm phạm, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc đối tượng vi phạm phải thu hồi, tiêu huỷ, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.[68] Tương tự, cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin còn có quyền yêu cầu đối tượng xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.[69] Cụ thể, trong trường hợp sử dụng Deepfake để ghép mặt người khác vào các đoạn phim khiêu dâm, đối tượng vi phạm có thể bị truy tố về tội vu khống[70] và tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ.[71] Ngoài ra, việc đối tượng sử dụng Deepfake để thực hiện các hành vi giả mạo để lừa đảo, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác là vi phạm pháp luật về an toàn xã hội[72] và nếu gây ra thiệt hại nặng nề về tài sản có thể bị truy tố tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.[73]  Hiện nay, Việt Nam chưa ghi nhận các trường hợp thao túng chính trị có sự hỗ trợ của Deepfake. Tuy vậy, các cá nhân phải đảm bảo tự do ngôn luận mà không gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, trật tự xã hội theo Điều 3 khoản 2 Luật an ninh mạng 2018 và điều 331 BLHS 2015. Đồng thời Điều 116 BLHS 2015 cũng quy định các mức hình phạt cụ thể với tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong mối quan hệ giữa nhân dân và chính quyền. Song song với những quy định trong luật hiện hành để giải quyết các vấn đề của Deepfake, tại hội thảo "Pháp luật về trí tuệ nhân tạo: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam",[74] trên góc độ học tập kinh nghiệm quốc tế, Bộ Tư Pháp xác định sẽ tiếp tục nghiên cứu các khuôn khổ chính sách, pháp luật đối với trí tuệ nhân tạo. Đây cũng là  bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý về AI tại Việt Nam.   3.2. Một số đề xuất trong việc quản lý công nghệ Deepfake tại Việt Nam Deepfake vừa là một công cụ hữu hiệu cho con người trong thời đại số, song cũng kèm theo đó là những hiểm họa khôn lường. Vì vậy, nhóm tác giả cho rằng việc sử dụng công nghệ này không nên bị cấm hoàn toàn nhưng cần có những giới hạn nhất định. Thông qua đó, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau: Một là, trong tương lai gần , nhằm nhanh chóng đáp ứng sự phát triển thần tốc của Deepfake nói riêng và AI nói chung, Nhà nước nên cân nhắc sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành. Thứ nhất, đối với các hành vi sai phạm có sử dụng Deepfake, công nghệ này có thể được coi là công cụ gây án, vì vậy, cần luật định rõ đó là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự[75]   riêng biệt, do có sự can thiệp của trí tuệ nhân tạo. Thứ hai, trong mục Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông,[76] BLHS 2015, chưa có bất kỳ quy định cụ thể nào liên quan tới tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Vì vậy, cần bổ sung tại mục này các khung pháp lý liên quan tới tội sử dụng Deepfake làm giả thông tin hoặc giả mạo người khác gây mất uy tín, ảnh hưởng thanh danh, thất thoát tài sản hoặc để lại hậu quả nghiêm trọng. Hai là , tiếp tục xây dựng và hoàn thiện một khung hành lang pháp lý riêng đối với công nghệ AI, trong đó có Deepfake. Đối với thực trạng công nghệ hiện nay, Việt Nam có thể tham khảo, nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế về khuôn khổ chính sách, pháp luật đối với trí tuệ nhân tạo để  xây dựng một bộ luật cụ thể dành riêng cho AI. Ví dụ, tham khảo các chế tài của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ thì Việt Nam có thể quy định các nhà cung cấp, sáng tạo tại Việt Nam khi sản xuất ra một nội dung dưới bất kỳ hình thức nào, đặc biệt là được phân phối trên các nền tảng trực tuyến phải gắn nhãn hoặc thông báo rõ với người tiếp cận về sự hiện diện của công nghệ Deepfake trong các sản phẩm của họ.  Ba là , nhà nước cũng cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về Deepfake, giúp người dân nhận thức được về những lợi và hại khi sử dụng công nghệ mới này. Công tác tuyên truyền, giáo dục này cần được thực hiện rộng rãi, đa dạng trong cả nhà trường, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp. Cùng với đó, mỗi cá nhân cũng cần tự bảo vệ mình, cẩn thận khi công khai các thông tin trên môi trường số và chủ động trong việc đòi lại công bằng cho bản thân khi hình ảnh, nhân phẩm hay danh dự bị xâm phạm. Từ đó xây dựng ý thức, trách nhiệm trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm lợi dụng Deepfake trên môi trường mạng.   Kết luận Sự ra đời của Deepfake, từ một bước tiến công nghệ đầy hứa hẹn, đã trở thành con dao hai lưỡi, gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đối với đời sống cá nhân, xã hội và quốc gia. Không chỉ làm mờ đi ranh giới giữa thật và giả, Deepfake còn tạo nên những lỗ hổng lớn về niềm tin trong thời đại số hoá. Trong bối cảnh đầy phức tạp đó, bài viết đã tập trung vào bản chất của Deepfake đồng thời phân tích kinh nghiệm từ một số các quốc gia tiên phong tại Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ trong việc xây dựng hành lang pháp lý để kiểm soát và ứng phó với công nghệ này. Tại Việt Nam, dù chưa phải tâm điểm của các nguy cơ xảy đến từ Deepfake, nhưng đứng trước ngưỡng cửa của hội nhập, của thời đại công nghệ, nước ta cần chủ động hơn trong việc xây dựng khung pháp lý dành cho Deepfake, không chỉ để đối phó mà còn để phòng ngừa những nguy cơ tiềm tàng mà Deepfake có thể đem đến. Tương lai của Deepfake phụ thuộc vào cách con người sử dụng nó: để Deepfake trở thành động lực phát triển hay là một thách thức làm suy thoái cộng đồng. Và câu trả lời nằm ở những bước đi pháp lý mạnh mẽ, linh hoạt và sáng tạo ngay từ bây giờ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO   [1] Nguyễn Thị Phương Anh - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Phạm Thị Ngân - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Hoàng Khánh Ly - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2]Trần Linh Huân, Đặng Trần Hạ Vy (2024) ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh’ Tạp chí Ngân hàng, (25/7/2024) < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 07/10/2024. [3] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí An toàn Thông tin  (2021) < https://m.antoanthongtin.gov.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742?fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTEAAR2rN2sMFtBH9XlRrhOw6G_au0cAfSJUIbj4FOk1SdRgck6rL51OK5Feez8_aem_nS_l61Rg-G4d1cOuR35C6g > truy cập ngày 06/10/2024 [4] Ian Sample, ‘What are Deepfakes – and how can you spot them?’ ( The Guardian , 2020) < https://www.theguardian.com/technology/2020/jan/13/what-are-Deepfakes-and-how-can-you-spot-them > truy cập ngày 06/10/2024 [5] Kelleher, J. D. (2019). Deep learning. MIT press, tr 1. [6] Nguyên văn: Training phase [7] Nguyên văn: Segmentation mask [8] Nguyên văn: computer vision model [9] Jay Lowe (2022) What is a Segmentation Mask? An Introduction. Roboflow, < https://blog.roboflow.com/how-to-create-segmentation-masks-with-roboflow/ > truy cập ngày 10/11/2024. [10] Nguyên văn: Test phase [11] Như mục 4. [12] Deeptrace là công ty tạo ra những công cụ nhận diện nội dung số được chỉnh sửa bởi con người hoặc công cụ AI. [13] Tim Nudd, ‘W+K and Deepfake Willie Nelson Hype Omega Mart, a Mind-Bending Las Vegas Attraction’, ( CLIOS , 2021) < https://musebyclios.com/art/wk-and-Deepfake-willie-nelson-hype-omega-mart-mind-bending-las-vegas-attraction/ > truy cập ngày 17/10/2024. [14] Như mục 13. [15] Devin Coldewey, ‘This technology can make the Mona Lisa talk’ (2019) World Economic Forum < https://www.weforum.org/stories/2019/06/mona-lisa-frown-machine-learning-brings-old-paintings-and-photos-to-life/ > truy cập ngày 16/10/2024. [16] Isobel Asher Hamilton, ‘The Mona Lisa was brought to life in vivid detail by Deepfake AI researchers at Samsung’  ( Business Insider , 2019), < https://www.businessinsider.com/mona-lisa-brought-to-life-by-saumsung-ai-2019-5 > truy cập ngày: 16/10/2024. [17] ‘Deepfake Statistics and Trends About Cyber Threats 2024’, ( Keepnet , 2024) < https://keepnetlabs.com/blog/Deepfake-statistics-and-trends-about-cyber-threats-2024 > truy cập ngày 03/11/2024. [18] Henry Ajder, Giorgio Patrini, Francesco Cavalli, và Laurence Cullen, ‘The State of Deepfakes: Landscape, Threats, and Impact’ [2019] Deeptrace tr 7. [19] Du Lam, ‘Ai cũng có thể là nạn nhân của Deepfake khiêu dâm trong kỷ nguyên AI’ ( Vietnamnet , 2024) < https://vietnamnet.vn/ai-cung-co-the-la-nan-nhan-cua-Deepfake-khieu-dam-trong-ky-nguyen-ai-2342245.html > truy cập ngày 19/11/2024. [20] Quốc Đạt, ‘2024 - năm “siêu bầu cử” định hình tương lai’  Báo Đại biểu Nhân dân (07/02/2024) < https://daibieunhandan.vn/2024-nam-sieu-bau-cu-dinh-hinh-tuong-lai-post358336.html > truy cập ngày: 07/11/2024. [21] Sasha Pezenik và Brittany, ‘ ABC News  Fake Biden robocall urges New Hampshire voters to skip their primary’ ABC News (23/01/2024) < https://abcnews.go.com/Politics/fake-biden-robocall-urges-new-hampshire-voters-skip/story?id=106580926 > truy cập ngày 12/11/2024. [22] Lubna Takruri, ‘The role of AI in detecting Deepfake fraud’  ( Onfido , 16/11/2023) < https://onfido.com/blog/ai-detecting-Deepfake-fraud/ > truy cập ngày 15/11/2024. [23] Như mục 17. [24] ThS. Trần Linh Huân và Đặng Trần Hạ Vy, ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh (2024) Tạp chí Ngân Hàng < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 18/11/2024. [25] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2024. [26[ Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày 10/11/2024. [27] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2. [28] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2, khoản 3, khoản 4, khoản 6, khoản 8, khoản 10 và khoản 12. [29] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 1. [30] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 3. [31] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 7. [32] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 60. [33] AI đa dụng là một hệ thống AI có khả năng thực hiện một loạt các nhiệm vụ khác nhau với mức độ thông minh và hiệu quả tương đương hoặc thậm chí vượt qua con người, AI đa dụng có thể học hỏi và thích nghi với nhiều lĩnh vực và nhiệm vụ khác nhau (P.A.T (NASATI), ‘Trí tuệ nhân tạo đa dụng là gì?’, ( Bộ Khoa học và Công nghệ - Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia , 2024) < https://www.vista.gov.vn/vi/news/khoa-hoc-doi-song/tri-tue-nhan-tao-da-dung-la-gi-8643.html > truy cập ngày: 15/11/2024. [34] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 133. [35] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134. [36] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134; Felipe Romero Moreno, ‘Generative AI and Deepfakes: a human rights approach to tackling harmful content’ (2024) 38 (3) International Review of Law, Computers & Technology tr297 - 326 < https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/13600869.2024.2324540#d1e109 > truy cập ngày: 10/11/2024. [37] Hiến chương của Liên minh châu Âu, Điều 11 và Điều 13. [38] Nguyên văn: Unacceptable risk. [39] Nguyên văn: High risk. [40] Nguyên văn: Limited risk. [41] Nguyên văn: Minimal risk. [42] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương 4. [43] Nguyên văn:  Generative AI [44] Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày: 10/11/2024. [45] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung  đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào ngày 14/4/2016. [46] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 6. [47] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điểm f  Khoản 1 Điều 6. [48] Nguyên văn: Automated individual decision-making. [49] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 22. [50] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 16. [51] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 17. [52] Adi Robertso n, ‘Virginia’s ‘revenge porn’ laws now officially cover Deepfakes’ (2019), The Verge < https://www.theverge.com/2019/7/1/20677800/virginia-revenge-porn-Deepfakes-nonconsensual-photos-videos-ban-goes-into-effect > truy cập ngày: 08/11/2024. [53] HB 2678: Unlawful dissemination or sale of images of another (2019), Virginia Law Portal < https://legiscan.com/VA/bill/HB2678/2019 > truy cập ngày: 18/11/2024. [54] Nguyên văn: Synthetic media. [55] SB 5959, 2020. [56] SB 78, 2021. [57] HB 0085, 2021. [58] Trần Văn Liệu, ‘ Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ (2021), Tạp chí an toàn thông tin < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy c ập ngày: 08/11/2014. [59] Meneses, J. P, Seeking to define deepfakes from U.S. state laws. Communication & Society  (2024), 37(3), 219-235. [60] SB 309 HD2 CD1. (2021). ‘Privacy in the First Degree; Deep Fakes’. [61] Nguyên văn: Malicious Deep Fake Accountability Act of 2018. [62] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí an toàn thông tin (2021) < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy cậ p ngày 08/11/2014. [63] Deepfakes Accountability Act, được đề xuất bởi Hạ viện, tháng 6/2019. [64] Nguyên văn: Digital watermarking. [65] Digital Evidence and Fake Information Accountability and Countermeasures Enforcement Act (Tạm dịch:Đạo luật thực thi trách nhiệm và biện pháp đối phó về bằng chứng kỹ thuật số và thông tin giả mạo), được thông qua bởi Thượng viện, tháng 7/2024. [66] Lauren, ‘The Senate passed a bill cracking down on sexually explicit Deepfakes’ The Verge (2024) < https://www.theverge.com/2024/7/24/24205275/senate-passes-defiance-act-non-consensual-intimate-ai-Deepfakes > tru y cập ngày: 09/11/2024. [67] Robert Chesney and Danielle Keats Citron, ‘Deep Fakes: A Looming Challenge for Privacy, Democracy, and National Security’ (2018) < https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3213954 > truy cập ngày: 08/11/2024. [68] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 3 Điều 32. [69] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 5 Điều 34. [70] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điểm e Khoản 2 Điều 2. [71] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 326,  sửa đổi 2017, Khoản 124 Điều 1. [72] Luật An ninh mạng 2018, Điều 18. [73] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 174. [74] Hội thảo được tổ chức ngày 10/5/2024 tại Hà Nội [75] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điều 52. [76] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Mục 2, Chương XXI. [1] Nguyễn Thị Phương Anh - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Phạm Thị Ngân - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Hoàng Khánh Ly - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2]Trần Linh Huân, Đặng Trần Hạ Vy (2024) ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh’ Tạp chí Ngân hàng, (25/7/2024) < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 07/10/2024. [3] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí An toàn Thông tin  (2021) < https://m.antoanthongtin.gov.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742?fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTEAAR2rN2sMFtBH9XlRrhOw6G_au0cAfSJUIbj4FOk1SdRgck6rL51OK5Feez8_aem_nS_l61Rg-G4d1cOuR35C6g > truy cập ngày 06/10/2024 [4] Ian Sample, ‘What are Deepfakes – and how can you spot them?’ ( The Guardian , 2020) < https://www.theguardian.com/technology/2020/jan/13/what-are-Deepfakes-and-how-can-you-spot-them > truy cập ngày 06/10/2024 [5] Kelleher, J. D. (2019). Deep learning. MIT press, tr 1. [6] Nguyên văn: Training phase [7] Nguyên văn: Segmentation mask [8] Nguyên văn: computer vision model [9] Jay Lowe (2022) What is a Segmentation Mask? An Introduction. Roboflow, < https://blog.roboflow.com/how-to-create-segmentation-masks-with-roboflow/ > truy cập ngày 10/11/2024. [10] Nguyên văn: Test phase [11] Như mục 4. [12] Deeptrace là công ty tạo ra những công cụ nhận diện nội dung số được chỉnh sửa bởi con người hoặc công cụ AI. [13] Tim Nudd, ‘W+K and Deepfake Willie Nelson Hype Omega Mart, a Mind-Bending Las Vegas Attraction’, ( CLIOS , 2021) < https://musebyclios.com/art/wk-and-Deepfake-willie-nelson-hype-omega-mart-mind-bending-las-vegas-attraction/ > truy cập ngày 17/10/2024. [14] Như mục 13. [15] Devin Coldewey, ‘This technology can make the Mona Lisa talk’ (2019) World Economic Forum < https://www.weforum.org/stories/2019/06/mona-lisa-frown-machine-learning-brings-old-paintings-and-photos-to-life/ > truy cập ngày 16/10/2024. [16] Isobel Asher Hamilton, ‘The Mona Lisa was brought to life in vivid detail by Deepfake AI researchers at Samsung’  ( Business Insider , 2019), < https://www.businessinsider.com/mona-lisa-brought-to-life-by-saumsung-ai-2019-5 > truy cập ngày: 16/10/2024. [17] ‘Deepfake Statistics and Trends About Cyber Threats 2024’, ( Keepnet , 2024) < https://keepnetlabs.com/blog/Deepfake-statistics-and-trends-about-cyber-threats-2024 > truy cập ngày 03/11/2024. [18] Henry Ajder, Giorgio Patrini, Francesco Cavalli, và Laurence Cullen, ‘The State of Deepfakes: Landscape, Threats, and Impact’ [2019] Deeptrace tr 7. [19] Du Lam, ‘Ai cũng có thể là nạn nhân của Deepfake khiêu dâm trong kỷ nguyên AI’ ( Vietnamnet , 2024) < https://vietnamnet.vn/ai-cung-co-the-la-nan-nhan-cua-Deepfake-khieu-dam-trong-ky-nguyen-ai-2342245.html > truy cập ngày 19/11/2024. [20] Quốc Đạt, ‘2024 - năm “siêu bầu cử” định hình tương lai’  Báo Đại biểu Nhân dân (07/02/2024) < https://daibieunhandan.vn/2024-nam-sieu-bau-cu-dinh-hinh-tuong-lai-post358336.html > truy cập ngày: 07/11/2024. [21] Sasha Pezenik và Brittany, ‘ ABC News  Fake Biden robocall urges New Hampshire voters to skip their primary’ ABC News (23/01/2024) < https://abcnews.go.com/Politics/fake-biden-robocall-urges-new-hampshire-voters-skip/story?id=106580926 > truy cập ngày 12/11/2024. [22] Lubna Takruri, ‘The role of AI in detecting Deepfake fraud’  ( Onfido , 16/11/2023) < https://onfido.com/blog/ai-detecting-Deepfake-fraud/ > truy cập ngày 15/11/2024. [23] Như mục 17. [24] ThS. Trần Linh Huân và Đặng Trần Hạ Vy, ‘Nhận diện thủ đoạn lừa đảo qua công nghệ Deepfake - Một số giải pháp phòng, tránh (2024) Tạp chí Ngân Hàng < https://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-thu-doan-lua-dao-qua-cong-nghe-Deepfake-mot-so-giai-phap-phong-tranh.htm > truy cập ngày 18/11/2024. [25] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2024. [26[ Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày 10/11/2024. [27] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2. [28] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 2, khoản 3, khoản 4, khoản 6, khoản 8, khoản 10 và khoản 12. [29] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 1. [30] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 3. [31] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 7. [32] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương I, Điều 3, khoản 60. [33] AI đa dụng là một hệ thống AI có khả năng thực hiện một loạt các nhiệm vụ khác nhau với mức độ thông minh và hiệu quả tương đương hoặc thậm chí vượt qua con người, AI đa dụng có thể học hỏi và thích nghi với nhiều lĩnh vực và nhiệm vụ khác nhau (P.A.T (NASATI), ‘Trí tuệ nhân tạo đa dụng là gì?’, ( Bộ Khoa học và Công nghệ - Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia , 2024) < https://www.vista.gov.vn/vi/news/khoa-hoc-doi-song/tri-tue-nhan-tao-da-dung-la-gi-8643.html > truy cập ngày: 15/11/2024. [34] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 133. [35] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134. [36] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Đoạn trích 134; Felipe Romero Moreno, ‘Generative AI and Deepfakes: a human rights approach to tackling harmful content’ (2024) 38 (3) International Review of Law, Computers & Technology tr297 - 326 < https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/13600869.2024.2324540#d1e109 > truy cập ngày: 10/11/2024. [37] Hiến chương của Liên minh châu Âu, Điều 11 và Điều 13. [38] Nguyên văn: Unacceptable risk. [39] Nguyên văn: High risk. [40] Nguyên văn: Limited risk. [41] Nguyên văn: Minimal risk. [42] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương 4. [43] Nguyên văn:  Generative AI [44] Phạm Minh Hạnh, ‘ĐẠO LUẬT TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU - MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ’ (2024) Kỳ 2 (413) Pháp luật quốc tế < https://danchuphapluat.vn/uploads//files/2024/10/10-pham-minh-hanh-413.pdf > truy cập ngày: 10/11/2024. [45] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung  đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào ngày 14/4/2016. [46] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 6. [47] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điểm f  Khoản 1 Điều 6. [48] Nguyên văn: Automated individual decision-making. [49] Quy định Bảo vệ dữ liệu chung 2016, Điều 22. [50] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 16. [51] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo 2024, Chương III, Mục 3, Điều 17. [52]   Adi Robertso n, ‘Virginia’s ‘revenge porn’ laws now officially cover Deepfakes’ (2019), The Verge < https://www.theverge.com/2019/7/1/20677800/virginia-revenge-porn-Deepfakes-nonconsensual-photos-videos-ban-goes-into-effect > truy cập ngày: 08/11/2024. [53] HB 2678: Unlawful dissemination or sale of images of another (2019), Virginia Law Portal < https://legiscan.com/VA/bill/HB2678/2019 > truy cập ngày: 18/11/2024. [54] Nguyên văn: Synthetic media. [55] SB 5959, 2020. [56] SB 78, 2021. [57] HB 0085, 2021. [58] Trần Văn Liệu, ‘ Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ (2021), Tạp chí an toàn thông tin < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy c ập ngày: 08/11/2014. [59] Meneses, J. P, Seeking to define deepfakes from U.S. state laws. Communication & Society  (2024), 37(3), 219-235. [60] SB 309 HD2 CD1. (2021). ‘Privacy in the First Degree; Deep Fakes’. [61] Nguyên văn: Malicious Deep Fake Accountability Act of 2018. [62] Trần Văn Liệu, ‘Tình hình lập pháp của các nước liên quan đến công nghệ Deepfake’ Tạp chí an toàn thông tin (2021) < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/tinh-hinh-lap-phap-cua-cac-nuoc-lien-quan-den-cong-nghe-Deepfake-106742 > truy cậ p ngày 08/11/2014. [63] Deepfakes Accountability Act, được đề xuất bởi Hạ viện, tháng 6/2019. [64] Nguyên văn: Digital watermarking. [65] Digital Evidence and Fake Information Accountability and Countermeasures Enforcement Act (Tạm dịch:Đạo luật thực thi trách nhiệm và biện pháp đối phó về bằng chứng kỹ thuật số và thông tin giả mạo), được thông qua bởi Thượng viện, tháng 7/2024. [66] Lauren, ‘The Senate passed a bill cracking down on sexually explicit Deepfakes’ The Verge (2024) < https://www.theverge.com/2024/7/24/24205275/senate-passes-defiance-act-non-consensual-intimate-ai-Deepfakes > tru y cập ngày: 09/11/2024. [67] Robert Chesney and Danielle Keats Citron, ‘Deep Fakes: A Looming Challenge for Privacy, Democracy, and National Security’ (2018) < https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3213954 > truy cập ngày: 08/11/2024. [68] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 3 Điều 32. [69] Bộ Luật Dân sự 2015, Khoản 5 Điều 34. [70] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điểm e Khoản 2 Điều 2. [71] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 326,  sửa đổi 2017, Khoản 124 Điều 1. [72] Luật An ninh mạng 2018, Điều 18. [73] Bộ Luật Hình sự 2015, Điều 174. [74] Hội thảo được tổ chức ngày 10/5/2024 tại Hà Nội [75] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Điều 52. [76] Bộ Luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017, Mục 2, Chương XXI.

  • [69] NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ DEEPFAKE VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI VIỆT NAM

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Nguyễn Ngọc Minh, Nguyễn Phương Anh[1] Tóm tắt: Công nghệ Deepfake đang phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật. Điều này đã đặt ra nhiều thách thức về pháp lý mới về vấn đề quyền tác giả. Sự tham gia của Deepfake trong sản xuất các tác phẩm nghệ thuật khiến việc bảo hộ quyền tác giả trong lĩnh vực này gây nhiều tranh cãi, bởi xác định tác giả và đồng tác giả hiện đang gặp nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và lĩnh vực nghệ thuật hiện nay, việc nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý và quyền lợi của các bên: con người và trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực nghệ thuật là vô cùng cấp thiết. Deepfake làm mờ ranh giới giữa thực tế và hư cấu theo cách mà luật sở hữu trí tuệ truyền thống không thể xử lý được. Trên thế giới, có nhiều hệ thống pháp luật hiện tại đã và đang tiến hành vô số nghiên cứu và thảo luận về cách điều chỉnh quyền tác giả trong các tác phẩm nghệ thuật có sự tham gia của Deepfake. Việc phân tích pháp lý về công nhận Deepfake là đồng tác giả và được bảo hộ quyền tác giả sẽ là bước đi quan trọng cho công cuộc ứng phó với những vấn đề pháp lý phức tạp của công nghệ Deepfake, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền nghệ thuật nước nhà, đồng thời đưa ra các phương hướng cho việc xác định quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật có sự tham gia của Deepfake ở Việt Nam.  Từ khóa: công nghệ Deepfake, trí tuệ nhân tạo, quyền tác giả, đồng tác giả, tác phẩm nghệ thuật. 1. Dẫn nhập WIPO đã công bố Dự thảo Báo cáo về Chính sách Sở hữu Trí tuệ và Trí tuệ Nhân tạo vào tháng 12/2019, trong đó làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến nội dung Deepfake dưới góc độ sở hữu trí tuệ. Báo cáo đặt ra hai câu hỏi trọng tâm: Nếu Deepfake được tạo ra từ dữ liệu có bản quyền, thì quyền tác giả của nội dung Deepfake đó sẽ thuộc về ai? Liệu có cần một cơ chế thù lao công bằng cho những cá nhân bị sử dụng hình ảnh hoặc "màn trình diễn" của họ trong các sản phẩm Deepfake?[2] Theo WIPO, mối quan tâm chính không phải là việc xác định ai sẽ sở hữu quyền tác giả đối với một sản phẩm Deepfake, mà là liệu các tác phẩm Deepfake có nên được cấp quyền tác giả hay không.[3] Deepfake, với bản chất phức hợp, dễ vi phạm bản quyền nếu không có sự đồng ý, và việc lạm dụng nó có thể gây tổn hại danh dự, đòi hỏi pháp luật phải quy định trách nhiệm rõ ràng. Việc xác định quyền tác giả (QTG) trong trường hợp này là cần thiết nhằm phân định rõ trách nhiệm pháp lý, bảo vệ quyền lợi chính đáng và tránh các tranh chấp liên quan đến bản quyền. Do vậy, bài nghiên cứu nhằm cung cấp thông tin về vấn đề pháp lý phát sinh cũng như những tiềm năng khi các tác phẩm nghệ thuật có sự tham gia của công nghệ Deepfake được bảo hộ quyền tác giả dựa trên luật pháp quốc tế và nội luật. Cuối cùng, từ thực tiễn quốc tế đưa ra những phương hướng cho Việt Nam. 2. Một số vấn đề lý luận chung về quyền tác giả đối với các tác phẩm nghệ thuật sử dụng công nghệ Deepfake 2.1. Tổng quan về quyền tác giả 2.1.1. Khái niệm về quyền tác giả và đồng tác giả Trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, QTG đều nhấn mạnh vai trò của người sáng tạo trực tiếp ra tác phẩm. Ví dụ, theo Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng & Bằng sáng chế năm 1988 của Anh (CDPA 1988)[4] và Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ[5], tác giả được định nghĩa là người tạo ra tác phẩm. Tại Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (LSHTT 2005) cũng có định nghĩa tương tự, khẳng định “tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm”.[6] Các quy định này đều thống nhất về vai trò của cá nhân trực tiếp tạo ra tác phẩm trong việc xác định tư cách tác giả , qua đó xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với tác phẩm mình sáng tạo. QTG trên thế giới được ghi nhận dưới hai thuật ngữ là “bản quyền” đối với các nước thông luật và “quyền tác giả” đối với các nước thuộc hệ thống luật lục địa. Trong đó, các nước theo hệ thống thông luật (common law) thường sử dụng thuật ngữ “bản quyền”, tập trung vào khía cạnh thương mại, nhấn mạnh các quyền và lợi ích kinh tế của chủ sở hữu tác phẩm. Trong khi đó, các nước thuộc hệ thống luật lục địa (civil law) lại sử dụng thuật ngữ “quyền tác giả”, ưu tiên đề cao quyền lợi tinh thần của người sáng tạo, tức là quyền gắn liền với cá nhân tác giả.[7] Dù theo cách tiếp cận nào thì các quốc gia trên thế giới đều thống nhất ở điểm chung QTG là phạm vi các quyền (bao gồm cả quyền nhân thân và quyền tài sản) của chủ thể (bao gồm tác giả và chủ sở hữu QTG) đối với tác phẩm của họ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.[8]  Bên cạnh đó, LSHTT 2005 quy định đồng tác giả là hai hoặc nhiều cá nhân cùng hợp tác sáng tạo trực tiếp một tác phẩm, với điều kiện các đóng góp của họ phải tạo nên một tổng thể tác phẩm hoàn chỉnh.[9] Điều này tương đồng với Luật pháp quốc tế khi đồng tác giả được định nghĩa là những người cùng sáng tạo ra một tác phẩm mà các đóng góp hòa quyện, không thể tách rời.[10] Như vậy, yếu tố quyết định tư cách tác giả, đồng tác giả chính là mức độ sáng tạo mang tính cá nhân và khả năng đóng góp vào tính hoàn chỉnh của tác phẩm. Tuy nhiên người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả hoặc đồng tác giả.[11] 2.1.2. Điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả Trên cơ sở xây dựng hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ quốc gia, nhìn chung các quốc gia thành viên của Công ước Bern, bao gồm Việt Nam, đều đặt ra những điều kiện cơ bản để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả:[12] (i) Thuộc loại hình được bảo hộ: Tác phẩm phải thuộc danh mục các loại hình được quy định tại Điều 14 LSHTT; (ii) Thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định: Tác phẩm cần được cụ thể hóa, được ghi lại dưới dạng chữ viết, âm thanh, hình ảnh, hay bất kỳ phương tiện vật lý nào. Việc bảo hộ không phụ thuộc vào nội dung, chất lượng, hình thức, ngôn ngữ, phương tiện, cũng như trạng thái đã công bố hoặc chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký; (iii) Tính nguyên gốc: Tác phẩm phải được sáng tạo trực tiếp từ lao động trí tuệ của tác giả, thể hiện dấu ấn cá nhân và sự sáng tạo riêng biệt của họ. Điều này nhằm đảm bảo rằng tác phẩm có tính độc đáo và không sao chép từ các nguồn khác.[13] Tóm lại, để được bảo hộ quyền tác giả, tác phẩm phải đáp ứng các tiêu chí về loại hình, cách thể hiện, và tính nguyên gốc. Những điều kiện này không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của tác giả mà còn góp phần khuyến khích sáng tạo và phát triển các giá trị nghệ thuật, trí tuệ. 2.2. Tổng quan về các tác phẩm nghệ thuật sử dụng công nghệ Deepfake. 2.2.1. Khái niệm về tác phẩm nghệ  thuật. Theo LSHTT 2005, các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, dù được thể hiện bằng hình thức nào, đều được coi là tác phẩm.[14] Đối với Hoa Kỳ, bên cạnh văn học, nghệ thuật và khoa học, tác phẩm được bảo hộ còn có thể là tác phẩm kiến trúc.[15] Dù có vài sự khác biệt trong quy định về lĩnh vực mà tác phẩm thể hiện, nhìn chung các quốc gia đều coi tác phẩm là đối tượng bảo hộ quyền tác giả theo công ước  Bern.[16]  Bên cạnh đó, học thuyết phân loại nghệ thuật đã được M.Kagan thuật lại, trong đó từ thời hậu Aristotle người ta đã định hình được 6 loại hình nghệ thuật khác nhau và căn cứ vào tính chất của từng loại chia chúng thành hai nhóm Tĩnh (Kiến trúc, Điêu khắc, Hội họa…) và Động (Âm nhạc, Thơ và Múa….). Kết hợp và đối chiếu với 14 loại hình tác phẩm được bảo hộ trong LSHTT 2005 , từ đó nhóm tác giả định nghĩa tác phẩm nghệ thuật bao gồm tác phẩm âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện ảnh; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. 2.2.2. Khái niệm và ứng dụng của công nghệ Deepfake trong các tác phẩm nghệ thuật. a.  Khái niệm về công nghệ Deepfake Deepfake, kết hợp giữa "deep learning" (học sâu) và "fake" (giả mạo), là công nghệ sử dụng mạng nơ-ron nhân tạo để tạo ra video hoặc âm thanh giả mạo với độ chân thực cao. Quá trình này dựa trên thuật toán học sâu để phân tích dữ liệu lớn, mô phỏng biểu cảm khuôn mặt, cử chỉ và giọng nói, từ đó ghép hình ảnh khuôn mặt vào video gốc và điều chỉnh sao cho có độ chân thực cao nhất.[17] Theo Đạo luật Cấm Deepfake độc hại 2018 Hoa Kỳ định nghĩa Deepfake là bản ghi âm hình ảnh được chỉnh sửa để người xem nhầm lẫn với lời nói hoặc hành động thực của một người.[18] Ở đây, “bản ghi âm hình ảnh” bao gồm các nội dung kỹ thuật số như hình ảnh, video và ghi âm giọng nói.[19] Công nghệ Deepfake luôn được ứng dụng để tạo ra những video giả có tính chân thực cao, khó phát hiện do sử dụng cảnh quay thật và âm thanh sống động, lan truyền nhanh chóng trên mạng xã hội.[20] b. Ứng dụng của công nghệ Deepfake trong các tác phẩm nghệ thuật. Công nghệ Deepfake, dựa trên ba tiến bộ chính trong học máy – Mạng Nơ-ron Nhân tạo (ANN), Mã hóa-Giải mã (Autoencoder), và Mạng Đối kháng Sinh tạo (GANs) – đang tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực nghệ thuật và sáng tạo hình ảnh.[21] ANN mô phỏng hoạt động của bộ não con người, xử lý thông tin từ lượng dữ liệu khổng lồ, giúp Deepfake ngày càng thuyết phục và tinh vi. Autoencoder, đặc biệt trong kỹ thuật hoán đổi khuôn mặt (face-swap), dựa trên việc nén và tái tạo các đặc điểm vật lý của đối tượng, giúp tạo ra những hình ảnh hoặc video giả mạo nhưng vẫn duy trì tính chân thực cao. Trong khi đó, GANs – với hai mạng nơ-ron “generator” (máy tạo) có nhiệm vụ tạo ra video hoặc âm thanh giả mạo bằng cách cố gắng tái tạo các mẫu từ bộ dữ liệu đầu vào và “discriminator” (máy phân biệt) ngược lại, sẽ nhận vào cả bộ dữ liệu gốc lẫn các video hoặc âm thanh Deepfake mới tạo ra nhằm phân biệt dữ liệu hợp lệ và giả mạo.[22] Một trong những đặc điểm ấn tượng của tác phẩm nghệ thuật sử dụng công nghệ Deepfake là khả năng tái hiện chuyển động sống động từ các bức tranh bất động. Dự án nghiên cứu của Trung tâm AI của Samsung tại Moscow, phối hợp với Viện Khoa học và Công nghệ Skolkovo, đã sử dụng Autoencoder để tạo chuyển động cho các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng như Mona Lisa  của Leonardo Da Vinci và Chân dung người phụ nữ vô danh  của Ivan Kramskoi. Nghiên cứu này, với tiêu đề Few-Shot Adversarial Learning of Realistic Neural Talking Head Models , nhận diện các điểm mốc trên khuôn mặt từ tranh rồi áp dụng thuật toán mã hóa để phân tích và tái tạo chuyển động.[23] Đây không chỉ là sự mô phỏng, mà còn là sự tái hiện các tác phẩm trong ngữ cảnh mới, tạo ra một trải nghiệm tương tác chưa từng có đối với người xem. Ngoài ra, dự án Gen Studio , do MIT, Microsoft và Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan hợp tác, minh họa cách GANs có thể tạo ra các hình ảnh hoàn toàn mới dựa trên những tác phẩm hiện có. Gen Studio  cho phép người dùng chọn hình ảnh từ bộ sưu tập bảo tàng và nhập vào máy tạo để "hình dung không gian giữa các tác phẩm", tạo ra hình ảnh mới, thực tế, dựa trên phản hồi từ máy phân biệt, từ đó giúp tái hiện và khám phá mối liên hệ giữa các tác phẩm nghệ thuật trong bộ sưu tập.[24] Dự án A.ICAN  ứng dụng Creative Adversarial Network (CAN) - một biến thể của GAN để tạo ra các tác phẩm mới, tăng cường độ phức tạp và tính độc đáo của hình ảnh. Nghiên cứu của Hong và Curran (2019) cho thấy người xem không thể phân biệt tác phẩm do CAN tạo ra với tác phẩm của con người, đồng thời đánh giá cao nghệ thuật từ CAN về tính mới lạ, cấu trúc thẩm mỹ và tính cảm hứng.[25] Deepfake cũng ngày càng cách mạng hóa điện ảnh: tái tạo giọng nói cho diễn viên mất giọng, tái hiện các cảnh phim kinh điển, nâng cấp hiệu ứng hậu kỳ…[26] Trong Gemini Man  (2019), công nghệ này được sử dụng để tái hiện hình ảnh trẻ trung của Will Smith từ The Fresh Prince of Bel-Air .[27] 3. Những vấn đề pháp lý phát sinh khi coi Deepfake là đồng tác giả và được bảo hộ quyền tác giả trong tác phẩm nghệ thuật 3.1. Khó khăn khi xác định đồng tác giả để bảo hộ quyền tác giả trong tác phẩm nghệ thuật có sự tham gia của công nghệ Deepfake Để được công nhận là đồng tác giả đối với một tác phẩm nghệ thuật, pháp luật các nước thường yêu cầu những điều kiện cụ thể dựa trên sự đóng góp sáng tạo và ý chí hợp tác giữa các tác giả. Ví dụ, LSHTT 2005 quy định đồng tác giả là những người “cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm” và không bao gồm những người chỉ đóng góp hỗ trợ kỹ thuật hoặc tài chính.[28] Bộ Luật Dân sự 2015 (BLDS) quy định tác giả phải là những con người sáng tác ra các tác phẩm nghệ thuật.[29] Ở Hoa Kỳ, quy định cũng chỉ ra các tác giả buộc phải là con người.[30] Có thể thấy rằng trong các định nghĩa quy định đồng tác giả nêu trên, cá nhân đó phải là con người mới có thể được coi là chủ thể của quyền tác giả.  Trong trường hợp có sự tham gia của Deepfake trong một tác phẩm nghệ thuật, lằn ranh giữa tính con người và trí tuệ nhân tạo trở nên mờ nhạt và khó xác định do  quá trình sáng tạo không hoàn toàn thuộc về con người mà phụ thuộc rất nhiều vào các thuật toán và dữ liệu được cung cấp. Điều này đặt ra câu hỏi quan trọng trong việc xác định tác giả thực sự của tác phẩm bởi quá trình sáng tác khi có sự tham gia của Deepfake cũng đồng nghĩa với sự tham gia của những người như người lập trình, người vận hành hệ thống và cung cấp dữ liệu, hay thậm chí là chính trí tuệ nhân tạo đó. Người lập trình có thể được coi như người sáng tạo ra công cụ, nhưng họ không trực tiếp tham gia vào việc tạo nên từng tác phẩm cụ thể. Trong khi đó, người vận hành chỉ đơn thuần sử dụng công cụ mà không thực sự góp phần vào sự sáng tạo của tác phẩm. Việc xác định tác giả thực sự không chỉ là một vấn đề pháp lý, mà còn ảnh hưởng lớn đến quyền lợi và trách nhiệm. Đó là bởi, nếu Deepfake được công nhận là đồng tác giả sẽ làm phát sinh những vấn đề pháp lý về Những câu hỏi này làm phức tạp thêm hệ thống pháp luật và đòi hỏi các nhà làm luật phải đưa ra những quy định rõ ràng và hợp lý. Điều quan trọng là phải đảm bảo được sự công bằng, minh bạch và phù hợp với thực tiễn để tránh những hệ lụy tiêu cực trong tương lai. 3.2. Công nghệ Deepfake thiếu tính sáng tạo và tính nguyên gốc Đặc biệt, trong lĩnh vực nghệ thuật, các tác phẩm nghệ thuật phải thể hiện được tính sáng tạo và tính nguyên gốc. Trong vụ án nổi tiếng University of London Press v University Tutorial Press , tòa án nhấn mạnh rằng một tác phẩm chỉ được coi là nguyên gốc khi nó thể hiện sự lao động, kỹ năng và sáng tạo nhất định, đồng thời không sao chép từ các tác phẩm khác.[31] Tiêu chuẩn này đã trở thành một trong những nền tảng pháp lý quan trọng tại Anh. Tại Hoa Kỳ, vụ án Feist Publications, Inc. v Rural Telephone Service Co.  của Tòa án Tối cao đã tạo bước ngoặt quan trọng trong việc xác định tính nguyên gốc. Tòa án nhấn mạnh rằng để được bảo hộ bản quyền, một tác phẩm phải đáp ứng hai yêu cầu: (1) do tác giả sáng tạo, nhấn mạnh vai trò của sự sáng tạo độc lập, và (2) thể hiện một mức độ sáng tạo tối thiểu.[32] Khái niệm tính nguyên gốc từng gắn liền với học thuyết "mồ hôi trán" (sweat of the brow), nhấn mạnh giá trị lao động trong việc sáng tạo ra một tác phẩm. Tuy nhiên, sau phán quyết vụ án Feist Publications, Inc. v Rural Telephone Service Co.  học thuyết này đã bị bác bỏ.[33] Ngày nay, chỉ riêng công sức bỏ ra không còn là điều kiện đủ để một tác phẩm được bảo hộ bản quyền. Thay vào đó, luật Bản quyền Hoa Kỳ ưu tiên khuyến khích sự sáng tạo và bảo vệ những nỗ lực trí tuệ thực sự.[34] Điều này có nghĩa là một tác phẩm phải mang dấu ấn sáng tạo của tác giả, phải mang giá trị tinh thần, cảm xúc mà chỉ con người mới có thể tự nhiên có được. Ở Việt Nam, tính sáng tạo và tính nguyên gốc là hai tiêu chí quan trọng để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo LSHTT 2005 và BLDS 2015. Tính nguyên gốc thể hiện ở chỗ tác phẩm phải do tác giả tự mình sáng tạo, không sao chép từ tác phẩm khác và phải mang dấu ấn cá nhân của người sáng tạo.[35] Đây là cơ sở để đảm bảo tác phẩm được công nhận là độc lập và không vi phạm quyền của tác giả khác. Tính sáng tạo, dù không được định nghĩa rõ ràng trong luật, thường được hiểu là tính mới trong một hoặc nhiều phương diện.[36] Một tác phẩm nghệ thuật không cần phải quá độc đáo hay vượt trội, nhưng phải phản ánh dấu ấn tinh thần và cảm xúc riêng của người sáng tạo. Suy cho cùng, Deepfake không phải một con người, mà là một công nghệ trí tuệ nhân tạo mạnh mẽ. Chúng thiếu đi tính sáng tạo và nguyên gốc mà một đồng tác giả cần mang lại trong các tác phẩm của họ. Chính yếu tố then chốt đó đã làm cho công nghệ này, mặc dù hiện đang được sử dụng trong nhiều các tác phẩm nghệ thuật như đã được nhắc đến ở phần 1, khó có thể được bảo hộ quyền tác giả với tư cách đồng tác giả.  4. Tiềm năng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật sử dụng công nghệ Deepfake và liên hệ thực tiễn với Việt Nam. Sự phổ biến của các tác phẩm Deepfake đã đặt ra vấn đề về khả năng bảo hộ bản quyền và việc xác định "tác giả": (i) Tác giả là người tạo ra chương trình Deepfake. (ii) Tác giả là người sử dụng chương trình để thực hiện ý tưởng sáng tạo của mình. Trong phần này, nhóm tác giả tập trung phân tích học thuyết “sử dụng hợp lý” của Hoa Kỳ, Ấn Độ và Anh nhằm đánh giá hiệu quả của luật bản quyền trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh từ công nghệ đột phá này do cách tiếp cận khác biệt ở các khu vực pháp lý từ đó đưa ra phương hướng cho Việt Nam. 4.1. Hoa Kỳ Tại Hoa Kỳ, nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (fair use), được quy định trong Mục 107 của DMCA 1998, có phạm vi áp dụng rất rộng, thậm chí bảo vệ cả các Deepfake được tạo ra với mục đích xấu.[37] Nguyên tắc này dựa trên bốn yếu tố: (1) mục đích và tính chất của việc sử dụng, (2) bản chất tác phẩm có bản quyền, (3) mức độ và tính chất của nội dung sử dụng, và (4) tác động lên thị trường của tác phẩm gốc. Khái niệm “sử dụng mang tính biến đổi” (transformative use), được công nhận trong vụ Campbell v. Acuff Rose , cho phép bảo vệ các tác phẩm thay đổi mục đích, ý nghĩa hoặc thông điệp của nội dung gốc.[38] Các tòa án tại Hoa Kỳ đã khẳng định: ngay cả khi có sự sao chép đáng kể, nếu tác phẩm mang tính biến đổi thì vẫn có thể được bảo vệ theo nguyên tắc sử dụng hợp lý.[39] Do Deepfake thường mang mục đích khác với tác phẩm gốc và không ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị thị trường của nó, nhiều tác phẩm Deepfake có thể được bảo vệ dưới nguyên tắc này, ngay cả khi được tạo ra với mục đích ác ý, như phỉ báng hoặc xuyên tạc.[40] Ngoài ra, biện pháp bảo hộ dựa trên "parody" (châm biếm), xuất phát từ Quy định về Bản quyền và Quyền trong Biểu diễn 2014, quy định rằng việc tái sản xuất một tác phẩm nghệ thuật nhằm mục đích "tranh biếm họa, châm biếm hoặc mô phỏng" có thể được hưởng sự bảo hộ theo nguyên tắc sử dụng hợp lý.[41] 4.2. Ấn Độ Ở Ấn Độ, bức tranh "Suryast" của chương trình A.I RAGHAV đã được đăng ký bản quyền với Ankit Sahni là đồng tác giả.[42] Quyết định này phản ánh quan điểm các tác phẩm do A.I tạo ra có thể đủ điều kiện bảo vệ bản quyền nếu có sự tham gia của con người. Nguyên tắc sử dụng hợp lý (fair dealing) theo Mục 52 của Đạo luật Bản quyền 1957 (ICA) xác định cụ thể các hành vi được miễn trừ vi phạm bản quyền.[43] Khác với Hoa Kỳ, nguyên tắc này mang tính cứng nhắc nhưng hiệu quả trong xử lý Deepfake có mục đích xấu, vì Deepfake không thuộc danh mục các hành vi miễn trừ. Tuy nhiên, việc sử dụng Deepfake với mục đích chính đáng có thể không được bảo vệ. Tòa án Ấn Độ đã mở rộng khái niệm sử dụng mang tính biến đổi (transformative use) trong mục “đánh giá” tại Mục 52(1)(a)(ii)[44] của ICA, như trong vụ University of Oxford v. Narendra Publishing .[45] Mặc dù khái niệm này kết hợp yếu tố “fair use” để bảo vệ các tác phẩm có lợi ích xã hội, nhưng hiện chỉ áp dụng cho sách hướng dẫn thuộc thể loại văn học và chưa bao gồm Deepfake. Mục 57 của ICA đảm bảo quyền nhân thân, bao gồm quyền công nhận tác giả và quyền bảo vệ toàn vẹn tác phẩm, phù hợp với Công ước Berne, 1886.[46] Deepfake, nếu bị coi là bóp méo hoặc sửa đổi tác phẩm, có thể vi phạm quyền bảo vệ toàn vẹn theo Mục 57(1)(b).[47] Mục 55 và 63 quy định trách nhiệm dân sự và hình sự đối với hành vi vi phạm, như bồi thường, lệnh cấm, phạt tiền và tù giam. Các biện pháp này tạo răn đe đối với Deepfake có mục đích xấu nhưng không bảo vệ trường hợp sử dụng hợp pháp.[48] 4.3. Anh Tại Anh, các tác phẩm do A.I tạo ra được xem là "tác phẩm do máy tính tạo ra", theo Điều 178 của Đạo luật CDPA 1988.[49] Tác phẩm do máy tính tạo ra bao gồm các tác phẩm Deepfake, vì chúng được tạo ra bởi A.I mà không có sự can thiệp trực tiếp từ con người. Tuy nhiên, theo Điều 9(3) của Đạo luật này, người thiết lập điều kiện để tạo ra tác phẩm sẽ được coi là tác giả, cách tiếp cận này hướng đến nội dung ghi nhận quyền tác giả cho người đã tạo nên các chương trình máy tính này. Pháp luật Anh bảo vệ nguyên tắc sử dụng hợp lý (fair dealing) theo Mục 29 và Mục 30 của Đạo luật CDPA 1988, cho phép sử dụng tài liệu có bản quyền mà không cần sự cho phép trong một số trường hợp. Tuy nhiên, “sử dụng hợp lý” không được định nghĩa chính xác mà phải phụ thuộc vào hoàn cảnh, như được xác định trong vụ Hubbard v. Vosper ,[50] nơi Chúa tể Denning cho rằng "sử dụng hợp lý" phải dựa trên các yếu tố như mục đích sử dụng, tác động đến thị trường của tác phẩm và các tác phẩm thay thế có sẵn. Mặc dù nguyên tắc sử dụng công bằng ở Anh có thể bị coi là cứng nhắc, nhưng vẫn đủ linh hoạt để áp dụng cho Deepfake. Các Deepfake được tạo ra với lý do nghiên cứu hoặc như một hình thức biểu đạt có thể đủ điều kiện bảo được bảo hộ. Trong vụ Hyde Park Residence Ltd v. Yelland & Ors ,[51] Tòa án Phúc thẩm Anh đã nhấn mạnh rằng động cơ của người sử dụng là yếu tố quan trọng trong việc xác định tính công bằng của việc sử dụng, điều này có thể áp dụng đối với Deepfake được tạo ra với mục đích xấu.[52]   Anh được cho là cân bằng và dung hòa giữa sự linh hoạt của Mỹ và giới hạn của Ấn Độ. 4.4. Bài học kinh nghiệm và phương hướng cho Việt Nam. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” cũng được quy định trong pháp luật Việt Nam nhưng có phạm vi áp dụng hẹp hơn so với Vương quốc Anh.[53] Nói cách khác, Việt Nam bảo hộ quyền lợi của chủ sở hữu mạnh hơn, ít nhất là trên quy định.[54] Pháp luật SHTT Việt Nam hiện hành không bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm do AI nói chung và Deepfake nói riêng tạo ra và cũng không thừa nhận tư cách pháp lý của các chủ thể không phải là con người. Tuy nhiên, từ những thực tiễn luật pháp quốc tế, bài viết sẽ đúc kết những bài học kinh nghiệm cũng như phương hướng cho Việt Nam.  Deepfake là sản phẩm được tạo ra từ các chương trình máy tính và mô hình AI (như GANs, ANN…). Do vậy, Deepfake có thể được bảo hộ quyền tác giả t heo Hiệp định TRIPS.[55] Bên cạnh đó, các tác phẩm nghệ thuật có sự tham gia công nghệ Deepfake là sản phẩm đầu ra được tạo bằng công nghệ này và thực tiễn hiện nay như đã được phân tích ở phần 1.2.2 cho thấy các tác phẩm nghệ thuật có sự tham gia công nghệ Deepfake dễ được công nhận hơn các tác phẩm nghệ thuật được tạo ra 100% từ công nghệ này. Vậy nên, nhóm tác giả cho rằng những tác phẩm này, nếu không vi phạm tiêu chuẩn đạo đức, có tiềm năng được bảo hộ quyền tác giả và các tác giả của các chương trình máy tính có thể được coi là đồng tác giả của các tác phẩm nghệ thuật nêu trên. Hơn thế nữa, xu hướng ở một số quốc gia như Ấn Độ, Hồng Kông, New Zealand hay Ireland, hệ thống Luật Sở hữu trí tuệ trao quyền tác giả cho lập trình viên – người tạo ra các chương trình AI. Có thể thấy rằng, công nghệ Deepfake, mặc dù có tính tự động hóa cao, vẫn phụ thuộc vào sự can thiệp và định hướng từ con người, bao gồm lập trình viên, điều chỉnh thuật toán và kiểm soát đầu ra. Trong quá trình sáng tạo tác phẩm với sự hỗ trợ của Deepfake, A.I không hoàn toàn tự chủ mà còn yêu cầu các quyết định mang tính nghệ thuật từ cá nhân sử dụng công nghệ, bao gồm việc lựa chọn dữ liệu, định hình nội dung, và tinh chỉnh kết quả. Điều này cho thấy một mối quan hệ đồng sáng tạo giữa con người và công nghệ trong việc tạo ra tác phẩm. Khi sử dụng Deepfake, cả lập trình viên và cá nhân ứng dụng Deepfake để hiện thực hóa ý tưởng nghệ thuật đều có vai trò đóng góp quan trọng. Như vậy, các yếu tố này hoàn toàn đáp ứng tiêu chí pháp lý để công nhận tư cách đồng tác giả trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm nghệ thuật tạo ra từ công nghệ Deepfake. 5. Kết luận Sự tham gia của công nghệ Deepfake trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật mang đến những tiềm năng lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức về pháp lý. Việc xác định quyền tác giả và đồng tác giả trong các tác phẩm có sự tham gia của Deepfake không chỉ là vấn đề về quyền lợi mà còn liên quan đến trách nhiệm pháp lý, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ này có thể bị lạm dụng. Bài viết phân tích pháp lý những tiềm năng cũng như các vấn đề có thể phát sinh khi công nhận Deepfake là đồng tác giả và được bảo hộ quyền tác giả. Có thể nói, đây vẫn còn là vấn đề gây rất nhiều tranh cãi, nhưng nó không chỉ đặt ra bài toán về pháp lý mà còn là cơ hội để chúng ta xây dựng một môi trường pháp luật hiện đại, minh bạch, phù hợp với sự thay đổi không ngừng của công nghệ.  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Ngọc Minh, Nguyễn Phương Anh - Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2] Harshvardhan Mudgal, ‘The deepfake dilemma: Detection and decree’ Bar and Bench  (18/11/2023)   https://www.barandbench.com/columns/deepfake-dilemma-detection-and-desirability  truy cập ngày 15/11/2024. [3] Betül Çolak, ‘Legal Issues of Deepfakes’ Institute for Internet & the Just Society  (19/01/2021)   https://www.internetjustsociety.org/legal-issues-of-deepfakes  truy cập ngày 15/11/2024. [4] Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng & Bằng sáng chế năm 1988, khoản 1 Điều 9. [5] [30] ‘Works Made for Hire’, United States Copyright Office ,   https://www.copyright.gov/circs/circ30.pdf  truy cập ngày 12/11/2024. [6] [9] [11] [26] [28] [35] [53] Luật Sở hữu Trí tuệ 2005,khoản 1 và khoản 2 Điều 12a,  khoản 1 Điều 13, khoản 3 Điều 14, khoản 1 Điều 25 [7] Nguyễn Trung Hiếu, ‘Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm của trí tuệ nhân tạo, kinh nghiệm của một số quốc gia và đề xuất cho Việt Nam’ (Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội). [8] Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ , NXB Công an nhân dân, tr. 38. [10] The Copyright Act  1976, 17 U.S. Code § 101. [12] Nguyễn Phan Thục Chi, ‘Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo - Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam’ (Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội). [13] [34] Vương Khánh Huyền và Hồ Thúy Ngọc, ‘Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm do Trí tuệ Nhân tạo (A.I) tạo ra...’, FTU Working Paper Series  Vol. 1 No. 2 (03/2024).  [14] Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, khoản 7 Điều 4. [15] The Copyright Act  1976, 17 U.S. Code § 102. [16] Công ước Berne 1886, khoản 1 Điều 2. [17] Hao Li, ‘The Emergence of Deepfake Technology: A Review’ (11/2019)   https://timreview.ca/sites/default/files/article_PDF/TIMReview_November2019%20-%20D%20-%20Final.pd  truy cập ngày 15/11/2024. [18] S.3805 - Malicious Deep Fake Prohibition Act of 2018 , § 1041. [19] Haojie Wu, Pan Hui và Pengyuan Zhou, ‘Deepfake in the Metaverse: An Outlook Survey’ (12/06/2023)   https://arxiv.org/pdf/2306.07011  truy cập ngày 14/11/2024. [20] Valencia A. Jones, ‘Artificial Intelligence Enabled – Deepfake Technology’ (05/2020)   https://www.proquest.com/openview/60d6b06b94904dccf257c4ea7c297226/1?pq-origsite=gscholar&cbl=18750&diss=y  truy cập ngày 14/11/2024. [21] Tianxiang Shen, Ruixian Liu, Ju Bai, Zheng Li, “Deep Fakes” using Generative Adversarial Networks (GAN). [22] Mvelo Mcuba, Avinash Singh, Richard Adeyemi Ikuesan và Hein Venter, ‘The Effect of Deep Learning Methods on Deepfake Audio Detection...’ (2023)   https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1877050923002910  truy cập ngày 10/11/2024. [23] [24] Emily White, ‘Positive Implications of Deepfake Technology in the Arts and Culture’, AMT Lab  (01/09/2021)   https://amt-lab.org/blog/2021/8/positive-implications-of-deepfake-technology-in-the-arts-and-culture  truy cập ngày 13/11/2024. [25] Ivana Stojanović Prelević và Zareesh Zehra, ‘Aesthetic of Deepfake - Sphere of Art and Entertainment Industry’ (01/2024)   https://www.researchgate.net/ ...  truy cập ngày 13/11/2024. [27] Gillian Murphy, Didier Ching, John Twomey và Conor Linehan, ‘Face/Off: Changing the face of movies with deepfakes’ (06/07/2023) https://journals.plos.org/ ... truy cập ngày 13/11/2024. [29] [36] Bộ Luật Dân sự 2015, Điều 736.  [31] University of London Press v University Tutorial Press  [1916] 2 Ch 601. [32] [33] Feist Publications, Inc. v Rural Telephone Service Co., Inc. , 499 U.S. 340 (1991).  [37] Đạo luật Bản quyền Thiên niên kỷ kỹ thuật số năm 1988, Mục 107. [38] Campbell v Acuff Rose , 510 US 569 (1994). [39] Các bản án: Patrick Cariou v Richard Prince , Rogers v Koons , Leibovitz v Paramount Pictures , Seltzer v Green Day , Blanch v Koons , Bill Graham Archives v Dorling Kindersley Ltd . [40] Danielle K. Citron và Robert Chesney, ‘Deep Fakes: A Looming Challenge...’ (2019) California Law Review , 107:1753. [41] Clive D Thorne, ‘Deepfakes and intellectual property rights’, The Trademark Lawyer  (10/11/2022) https://trademarklawyermagazine.com/ ... truy cập ngày 12/11/2024. [42] Sukanya Sarkar, ‘India recognises AI as co-author...’, Managing IP  (05/08/2021) https://www.managingip.com/ ... truy cập ngày 12/11/2024. [43] [44]  Đạo luật Bản quyền Ấn Độ, Mục 52.  [45] University of Oxford v Narendra Publishing House , ILR (2009) 2 Del 221. [46] ICA 1957, s 57. [47] [48] Đạo luật Bản quyền Ấn Độ, Mục 55, Mục 57(1)(b), Mục 63 [49] Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng & Bằng sáng chế năm 1988, Điều 178. [50] Hubbard v Vosper , [1972] 2 QB 84. [51] Hyde Park Residence Ltd  (n 45). [52] Neeraja Seshadri và Sindhu A, ‘Are Copyright Laws Adequate to Deal with Deepfakes?’, KSLC Commercial Law Blog  (17/12/2020) https://blogs.kcl.ac.uk/ ... truy cập ngày 16/11/2024. [54] Lê Vũ Vân Anh, ‘Quy định về “sử dụng hợp lý” tác phẩm: Góc nhìn so sánh...’, Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Việt Nam  (19/09/2022) https://vjst.vn/ ... truy cập ngày 12/11/2024. [55] Hiệp định TRIPS 1994, khoản 1 Điều 10.

  • [68] BẢO VỆ QUYỀN ĐỐI VỚI DỮ LIỆU CÁ NHÂN CỦA CON NGƯỜI TRONG KỶ NGUYÊN TRÍ TUỆ NHÂN TẠO - THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Vương Thị Bảo Ngọc, Đỗ Thu Trang, Lương Khánh Ngọc[1] Tóm tắt: Cuộc cách mạng 4.0 với động lực cốt lõi là trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) đã khiến dữ liệu cá nhân (DLCN) nổi lên như một loại “vàng đen mới" - do lượng lớn dữ liệu mà các công nghệ này sử dụng trực tiếp đến từ thông tin cá nhân của người dùng. Điều này đã đặt ra những thách thức lớn trong vấn đề bảo vệ quyền đối với DLCN. Hành vi sử dụng AI trái phép để thu thập, xử lý dữ liệu đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp quyền đối với DLCN của các chủ thể. Trước tình hình đó, việc đảm bảo quyền này là nhiệm vụ cấp bách và là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên thế giới . Những năm gần đây, để ứng phó trước nguy cơ tiềm ẩn từ AI, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền đối với DLCN của các chủ thể. Trong phạm vi bài nghiên cứu, nhóm tác giả tiến hành phân tích và so sánh hệ thống pháp luật của Việt Nam với một số mô hình pháp lý trên thế giới. Từ đó rút ra những giá trị tham khảo và kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về vấn đề bảo vệ quyền đối với dữ liệu cá nhân trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo. Từ khóa: trí tuệ nhân tạo, dữ liệu cá nhân, bảo vệ quyền đối với dữ liệu cá nhân. 1. Dẫn nhập Với sự bùng nổ của AI, quyền đối với DLCN ngày càng nhận được sự quan tâm của các nhà lập pháp trên toàn thế giới. Liên minh châu Âu (EU) đã tiên phong trong việc thiết lập các chuẩn mực pháp lý toàn diện về bảo vệ DLCN; còn Hoa Kỳ từ rất sớm đã xây dựng các quy định liên quan đến DLCN thông qua các văn bản pháp luật liên bang với cách tiếp cận theo từng lĩnh vực đặc thù. Bài viết sẽ khái quát quyền đối với DLCN trong kỷ nguyên AI đồng thời phân tích, đối chiếu pháp luật Việt Nam với hai hệ thống pháp luật này. Sau đó, nhóm nghiên cứu sẽ làm rõ hai vấn đề: những bất cập điển hình trong khung pháp lý hiện hành của Việt Nam trước những thách thức từ AI đối với việc bảo vệ quyền của chủ thể DLCN và những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình xây dựng pháp luật bảo vệ DLCN. 2. Khái quát quyền đối với DLCN trong kỷ nguyên AI  2.1. Khái niệm quyền đối với DLCN Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ DLCN, khoản 1 Điều 2 quy định DLCN là “thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể.”  Gắn liền với DLCN là khái niệm bảo vệ DLCN, được quy định tại khoản 5 Điều 2: “Bảo vệ DLCN là hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm liên quan đến DLCN theo quy định của pháp luật.” Trong khi đó, EU quy định DLCN là bất kỳ thông tin nào liên quan đến một người cụ thể (chủ thể dữ liệu), giúp xác định hoặc nhận dạng người đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (nội hàm khoản 1 Điều 4)[2] và quy định bảo vệ DLCN là hoạt động nhằm đảm bảo việc xử lý DLCN được thực hiện một cách minh bạch;[3] DLCN chỉ được sử dụng cho mục đích đã định, được lưu trữ an toàn và không tiết lộ cho bên thứ ba mà không có sự đồng ý.[4] Qua đó, điểm chung về định nghĩa và bảo vệ DLCN trong cả hai hệ thống pháp luật là: DLCN là bất kỳ thông tin nào gắn với một con người cụ thể giúp xác định người đó; bảo vệ DLCN là hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm liên quan đến DLCN dựa trên các quy định về cơ sở xử lý DLCN. Bảo vệ DLCN cũng là hoạt động cơ bản nhằm bảo vệ quyền của chủ thể đối với DLCN của mình. Trong khi tầm quan trọng của quyền đối với DLCN (hay còn gọi là quyền bảo vệ DLCN)  chưa được xác định cụ thể trong pháp luật Việt Nam, EU đã công nhận quyền đối với DLCN là một trong các quyền cơ bản của con người.[5] 2.2. Khái niệm AI Khái niệm AI đã được phát triển và mở rộng qua nhiều thập kỷ. Từ định nghĩa ban đầu của nhà khoa học người Anh Alan Turing năm 1950: “AI là hệ thống có khả năng hành động như con người ”[6] đến những cách tiếp cận toàn diện hơn của các nhà khoa học Stuart Russel, Peter Norvig: AI bao gồm cả việc mô phỏng quá trình tư duy, tìm kiếm các giải pháp hợp lý…[7] Tại Việt Nam, AI là lĩnh vực nghiên cứu và phát triển các cơ chế, thuật toán nhằm tạo ra các hệ thống có khả năng thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi trí thông minh (hệ thống AI).[8] Hệ thống AI hiểu đơn giản là sản phẩm cụ thể được xây dựng dựa trên các nghiên cứu về AI.  Theo Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của EU (AIA), hệ thống AI được định nghĩa với những nét tương đồng với Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13902:2023 của Việt Nam. Từ những điều khoản trong AIA, hệ thống AI được phân loại dựa trên các rủi ro tiềm ẩn nhằm thiết lập cơ sở hình thành cơ quan giám sát, quản lý và thực thi AIA của EU.[9] Ý tưởng về sự phân loại AI dựa trên mức độ rủi ro và hình thành cơ quan giám sát độc lập cũng nhận được sự quan tâm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ qua những dự luật, phiên thảo luận trong những năm gần đây.[10] Trên lý thuyết, AI cung cấp những giải pháp hữu hiệu trong việc quản lý và bảo vệ DLCN[11]. Thế nhưng, trên thực tế việc ứng dụng AI vào xử lý DLCN đang đối mặt với nhiều thách thức.[12] Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật cần có những cập nhật để đối phó trước nguy cơ tiềm ẩn của AI gây ra cho chủ thể DLCN. 3. Pháp luật hiện hành của Việt Nam và pháp luật quốc tế về quyền đối với DLCN trong một số vấn đề nổi bật ở kỷ nguyên AI Trong kỷ nguyên số, quyền của chủ thể dữ liệu đang đối mặt với nhiều thách thức. Sau đây, nhóm tác giả sẽ phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam và quốc tế thông qua một số vấn đề nổi bật như: tình trạng DLCN bị xử lý khi chưa có sự đồng ý của chủ thể, tình trạng chủ thể dữ liệu chưa thể xoá DLCN và quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại chưa được đảm bảo. 3.1. Vấn đề bảo đảm quyền đồng ý của chủ thể DLCN Hiện nay, trên thế giới, việc ứng dụng AI vào xử lý DLCN mang đến nhiều tiêu cực, một trong số đó là thực trạng DLCN của chủ thể bị xử lý mà không có sự đồng ý của chủ thể đó, điển hình thể hiện qua vụ việc Công ty Clearview AI thu thập dữ liệu ảnh khuôn mặt từ Internet trong khi chưa có sự đồng ý từ chủ thể.[13] Điều này đã đặt ra câu hỏi về rủi ro của AI trong việc xử lý DLCN với quyền đối với DLCN nói chung và quyền đồng ý nói riêng, đặc biệt là tại Việt Nam khi số người sử dụng Internet lên đến 78,44 triệu người (tính đến tháng 01 năm 2024).[14] Tại Việt Nam, khoản 2 Điều 9 Nghị định 13/2023/NĐ-CP đã có quy định về quyền đồng ý của chủ thể DLCN: “ Chủ thể dữ liệu được đồng ý hoặc không đồng ý cho phép xử lý DLCN của mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 17 Nghị định này. ” Ngoài ra, Nghị định cũng đưa ra cơ sở thiết lập sự đồng ý của chủ thể trong quyền đồng ý (khoản 8 Điều 2) và quy định về nội dung thông báo cho chủ thể nhằm đạt được sự đồng ý hợp lệ (Điều 11), nội dung thông báo cho chủ thể dữ liệu về xử lý DLCN (Điều 13). Tuy nhiên, ngay cả khi Nghị định đã được ban hành, thực tiễn vẫn tồn tại nhiều hoạt động xử lý DLCN khi chưa có sự đồng ý của chủ thể. Điều này cho thấy quyền đồng ý chưa được bảo đảm, chủ yếu là do pháp luật chưa ghi nhận các quyền của công dân đối với DLCN và cơ chế thực thi bảo vệ các quyền này còn chưa hoàn thiện.[15] Các đạo luật Liên bang của Hoa Kỳ đã có quy định về DLCN nói chung và đề cập đến khía cạnh “đồng ý” nói riêng, điển hình như Đạo luật về quyền riêng tư 1974 cấm tiết lộ thông tin về một cá nhân từ hệ thống thông tin mà không có sự đồng ý bằng văn bản của cá nhân đó.[16] Có thể thấy, thời điểm ra đời của các quy định Liên bang về sự đồng ý đối với xử lý DLCN là khá sớm (trước thời điểm AI bùng nổ), và vì vậy, các đạo luật Liên bang này chưa đủ hiệu quả để đối mặt với thực tiễn sử dụng AI xâm phạm quyền đồng ý phức tạp như ngày nay[17] (như hình thức thể hiện sự đồng ý được xác lập của chủ thể dữ liệu chưa được cập nhật,...). Tại EU, Quy định bảo vệ dữ liệu chung (General Data Protection Regulation - GDPR) tuy không đề cập đến quyền đồng ý rõ ràng nhưng đã tập trung vào việc định nghĩa và xác định tính chất của “sự đồng ý” trên phương diện pháp lý. Cụ thể, khoản 11 Điều 4 GDPR có nội hàm quy định “sự đồng ý” của chủ thể dữ liệu là bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy chủ thể dữ liệu, qua mong muốn của mình, thể hiện sự đồng ý với việc xử lý DLCN liên quan đến chủ thể đó bằng một tuyên bố hoặc hành động khẳng định rõ ràng trên cơ sở tự do, tự nguyện, được cung cấp thông tin về việc xử lý DLCN đó. Quy định này đã đặt ra cơ sở cho quyền đồng ý của chủ thể đối với DLCN tại EU: quyền đồng ý đối với các hoạt động liên quan đến DLCN của chủ thể phải hoàn toàn dựa trên cơ sở tự do, tự nguyện, và chủ thể cần phải được cung cấp đầy đủ thông tin trước khi cho phép xử lý DLCN. Một điều cần lưu ý là, trong phạm vi xử lý DLCN trong AI, “cung cấp đầy đủ thông tin” cần được hiểu là hành động cung cấp thông tin cơ bản về xử lý DLCN, và bao gồm tất cả những thông tin cần thiết có thể ảnh hưởng đến quyết định cho phép xử lý dữ liệu của chủ thể, như việc AI xử lý DLCN đó được phân loại ra sao, loại AI đó có thể có những rủi ro gì đến DLCN và quyền đối với DLCN của chủ thể,...[18] Theo nghiên cứu do Mạng lưới thực thi quyền riêng tư toàn cầu (The Global Privacy Enforcement Network – GPEN), 59% thiết bị Internet vạn vật (The Internet of Things - IoT),[19] mạng lưới tập hợp các thiết bị thông minh và công nghệ bao gồm cả AI,[20] không cung cấp rõ ràng việc DLCN sẽ được xử lý như thế nào; trong khi đó, hầu hết chủ thể sử dụng thiết bị IoT không có lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý với các chính sách do nhà cung cấp IoT đưa ra, nếu không sẽ không thể sử dụng các thiết bị này.[21] Đây là một hình thức ép buộc đồng ý, khi không cung cấp đầy đủ thông tin khiến cho chủ thể xem xét đồng thuận nhưng lại “ngầm” cho chủ thể thấy hệ quả nếu chủ thể không đưa ra sự đồng ý.[22] Một vấn đề khác cần quan tâm là vấn đề công nhận quyền đồng ý là một quyền cơ bản của con người. Do Việt Nam vẫn chưa ghi nhận các quyền của công dân đối với DLCN là quyền cơ bản của con người, nên thực tiễn vẫn tồn tại nhiều hoạt động xử lý DLCN trái phép, xâm phạm các quyền của chủ thể đối với DLCN nói chung và quyền đồng ý nói riêng.[23] Tại EU, sự đồng ý đã được công nhận là một khía cạnh thiết yếu thuộc quyền cơ bản của con người trong việc bảo vệ DLCN.[24] Điều đó có nghĩa, việc AI xâm phạm quyền đồng ý của chủ thể là tương tự như xâm phạm các quyền cơ bản khác. Một ví dụ cho sự xâm phạm này có thể kể đến là vụ 17 tác giả kiện OpenAI vì các tác phẩm được đăng ký bản quyền của họ bị khai thác trái phép nhằm đào tạo mô hình AI mà chưa có sự đồng ý từ họ. OpenAI sau đó bị phát hiện đã thu thập hàng loạt DLCN từ nguyên đơn, và bỏ qua quyền đồng ý, quyền riêng tư và quyền sở hữu trí tuệ của họ,[25] đồng nghĩa với việc OpenAI xâm phạm cả ba quyền cơ bản. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam cần giải quyết những vấn đề nêu trên liên quan đến các tiêu chí trong cơ sở của quyền đồng ý và công nhận quyền đối với DLCN nói chung, quyền đồng ý nói riêng là quyền con người. Điều này có thể giúp Việt Nam đối mặt với tác động tiêu cực từ AI và giảm thiểu khả năng quyền đồng ý của chủ thể DLCN bị xâm phạm bởi AI. 3.2. Vấn đề đảm bảo quyền xoá DLCN của chủ thể DLCN Hiện nay, AI được phát triển dựa trên lượng DLCN khổng lồ.[26] Một mô hình điển hình là LinkedIn được phát triển với DLCN của 930 triệu người dùng với mục đích đào tạo AI nhưng những DLCN được sử dụng trong quá trình đó không thể xóa khỏi cơ sở dữ liệu của AI.[27] Có thể thấy, AI là một thực thể có khả năng lưu trữ thông tin vĩnh viễn và có khả năng truy xuất dữ liệu trong quá khứ một cách dễ dàng, dẫn đến nhu cầu của chủ thể dữ liệu về quyền được xóa dữ liệu.[28] Đến nay, quyền xóa dữ liệu đã trở thành một quyền cơ bản, do các nhà lập pháp coi việc phát triển quyền này như một bước phát triển quyền tự quyết cá nhân trong thời đại bùng nổ AI.[29] Theo đó, một cá nhân có quyền xóa và yêu cầu xóa những DLCN trên cơ sở dữ liệu của AI nếu thông tin đó làm tổn hại đến cá nhân, đã lỗi thời hoặc không còn cần thiết.[30]  Tại Việt Nam, các quy định về quyền xóa dữ liệu còn sơ khai, thiếu tính thống nhất về thuật ngữ, đồng thời chưa thể hiện rõ cơ chế bảo vệ cũng như ngăn chặn những vi phạm trong bối cảnh của AI.[31] Trước hết, các quy định về quyền xóa dữ liệu còn sơ khai bởi quyền này được quy định rải rác tại một vài văn bản quy phạm pháp luật. Quyền xóa dữ liệu được quy định trực tiếp tại Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ DLCN tại khoản 5 Điều 9: “Chủ thể dữ liệu được xóa hoặc yêu cầu xóa DLCN của mình, trừ trường hợp luật có quy định khác.”  Còn các văn bản trước đó thì chỉ đề cập quyền xóa dữ liệu một cách gián tiếp với những thuật ngữ như “hủy bỏ”, “gỡ bỏ”, “tiêu hủy”. Đầu tiên là sự ghi nhận một cách gián tiếp rằng quyền xóa dữ liệu được coi như một phương thức để bảo vệ đời sống riêng tư tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013.[32] Sau đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) tiếp tục ghi nhận tại các Điều 32, 34, 38, cho phép chủ thể dữ liệu yêu cầu bên kiểm soát dữ liệu gỡ bỏ, thu hồi, tiêu hủy dữ liệu.[33] Đến năm 2018, quyền xóa dữ liệu tiếp tục được quy định tại Điều 18 Luật an toàn thông tin mạng, cho phép chủ thể hủy bỏ dữ liệu đã được lưu trữ, thu thập.[34] Tới đây, có thể thấy rằng quyền xóa dữ liệu chưa có sự thống nhất về mặt thuật ngữ. Tiếp theo, về cơ chế bảo vệ và thực thi quyền, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP yêu cầu bên kiểm soát dữ liệu phải xóa DLCN trong vòng 72 giờ kể từ khi nhận yêu cầu của chủ thể.[35] Tuy nhiên, việc thực thi quy định này chưa có hướng dẫn cụ thể, khiến nhiều tổ chức còn gặp khó khăn trong việc áp dụng và thực thi đúng quy định.[36]  Pháp luật liên bang Hoa Kỳ chưa có quy định toàn diện về quyền xóa dữ liệu, mà chỉ áp dụng giới hạn trong một số lĩnh vực cụ thể và chưa bao phủ các ứng dụng AI.[37] Theo đó, ba trường hợp quyền xóa dữ liệu được quy định rõ ràng trong pháp luật liên bang Hoa Kỳ bao gồm (i) xóa thông tin tín dụng không chính xác,[38] (ii) xóa DLCN trẻ em theo yêu cầu phụ huynh,[39] và (iii) hủy thông tin nhận dạng cá nhân khi không còn cần thiết.[40] Như vậy, quyền xóa dữ liệu ở Hoa Kỳ dựa trên nguyên tắc  DLCN chỉ nên được lưu trữ khi còn phục vụ mục đích hợp lý và chính đáng, và phải bị xóa khi trở nên lỗi thời hoặc không cần thiết.[41] Hoa Kỳ cũng thành lập các cơ quan giám sát độc lập như Bộ Y Tế và Dịch Vụ Nhân Sinh Hoa Kỳ (HHS) giám sát thực thi Đạo luật về trách nhiệm giải trình và cung cấp thông tin bảo hiểm y tế (HIPAA),[42] Cục bảo vệ tài chính người tiêu dùng (CFPB) giám sát thực thi Đạo luật báo cáo tín dụng công bằng (FCRA).[43] Tuy nhiên, quyền xóa dữ liệu tại Hoa Kỳ vẫn chưa được điều chỉnh trong AI là bởi các quy định hiện hành không áp dụng trực tiếp cho việc kiểm soát và xóa DLCN do AI thu thập.[44] Tại EU, các nguyên tắc cơ bản về quyền xóa dữ liệu thể hiện tính minh bạch, công bằng hơn phần lớn các quốc gia.[45] Theo Điều 17 GDPR, DLCN được xử lý trong hệ thống khi có yêu cầu, không có lý do hợp pháp và xác đáng để lưu trữ và truyền tải thông tin cá nhân đó.[46] Dựa trên cơ sở này, quyền xóa dữ liệu ở EU được phát triển thông qua AIA. Theo đó, DLCN được xử lý trong quá trình thử nghiệm bằng các biện pháp kỹ thuật[47] hoặc bằng hệ thống AI trong điều kiện thực tế[48] đều phải được xóa sau khi kết thúc thử nghiệm hoặc khi có yêu cầu của chủ thể dữ liệu. Khoản 10 Điều 26 bổ sung thêm yêu cầu các dữ liệu được xử lý bởi hệ thống AI có rủi ro cao phải được xóa nếu có yêu cầu từ phía cá nhân. Tham chiếu với quy định của Điều 12 GDPR, thủ tục xử lý yêu cầu bao gồm thời hạn, gia hạn thời hạn, bồi thường khi có thiệt hại phát sinh. Bên cạnh đó, EU cũng thiết lập các quy định về cơ quan giám sát việc thực thi với nhiệm vụ tiếp nhận và điều tra các khiếu nại liên quan đến quyền đối với dữ liệu của các chủ thể.[49] Ví dụ, cơ quan giám sát phải can thiệp khi một yêu cầu xóa dữ liệu không được phản hồi. Sau khi điều tra, cơ quan xác định rằng yêu cầu bị bỏ qua do lỗi kỹ thuật trong quá trình chuyển hệ thống quản lý mới và đã tiến hành hòa giải để giải quyết yêu cầu khiếu nại của bên chủ thể dữ liệu đối với bên kiểm soát dữ liệu.[50]   Như vậy, có thể thấy các quy định pháp luật về quyền xóa dữ liệu đã có những bước tiến để thích nghi trong bối cảnh AI. Nhưng sự phát triển của AI vẫn đang theo chiều hướng khó đoán định,[51] đòi hỏi Việt Nam cũng như các quốc gia khác cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho quyền này.  3.3. Vấn đề đảm bảo quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của chủ thể DLCN Từ hai vấn đề đã đề cập ở trên, việc xảy ra thiệt hại thực tế là điều có thể xảy ra. Tuy nhiên việc xác định trách nhiệm bồi thường trước những hành vi xâm phạm DLCN liên quan đến AI hiện nay còn nhiều vướng mắc, chủ yếu do chưa có quy định cụ thể về tư cách pháp lý của AI.[52] Điều này dẫn đến việc quyền của chủ thể dữ liệu chưa được đảm bảo.  Tại Việt Nam, theo Điều 13 BLDS 2015, khi DLCN bị xâm phạm, nạn nhân có thể yêu cầu người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường để khắc phục hậu quả. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại được ghi nhận trong một số văn bản pháp luật nhưng mang tính khái quát. Cụ thể, Điều 22 Luật Công nghệ Thông tin 2006: “Cá nhân có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm trong việc cung cấp thông tin cá nhân”.  Điều 8 Luật An toàn Thông tin mạng 2015 và Điều 11 Luật Bảo vệ Quyền lợi Người tiêu dùng 2010 quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân “nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật” . Nghị định 13/2023/NĐ-CP ghi nhận   tại khoản 10 Điều 9 “chủ thể dữ liệu có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật khi xảy ra vi phạm quy định về bảo vệ DLCN của mình, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác” . Đặt trong bối cảnh sự phát triển của AI tạo ra thách thức lớn về xã hội và pháp lý,[53] AI có thể sẽ là đối tượng trực tiếp[54] gây hại cho con người.[55] Những quy định hiện hành chưa bảo đảm quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại của chủ thể. Câu hỏi đặt ra là: Ai sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất này. Như vậy, để giải quyết tranh chấp về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do những hành vi xâm phạm DLCN liên quan đến AI, việc xác định tư cách pháp lý của AI là cần thiết.  Pháp luật Hoa Kỳ và EU chưa công nhận AI là chủ thể của pháp luật nhưng đang có những bước tiến nhất định trong việc xem xét xác định tư cách pháp lý của AI trong lĩnh vực dân sự.[56] Việc AI được xác lập tư cách pháp lý sẽ tạo ra cơ chế rõ ràng để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến AI (cơ quan tổ chức hợp pháp, có người đại diện về mặt pháp luật, có tài sản để hoạt động và chịu trách nhiệm,...).[57] Tại Hoa Kỳ, báo cáo “Kế hoạch Chiến lược Nghiên cứu và Phát triển Trí tuệ Nhân tạo Quốc gia”[58] ban hành bởi Ủy ban Công nghệ NSTC không trực tiếp đề xuất công nhận tư cách pháp lý của AI. Tuy nhiên, báo cáo đề cập đến khả năng tuân theo các quy tắc đạo đức, pháp lý của máy móc tự trị: chúng có khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ đạo đức, pháp lý[59] - một trong những tiêu chí quan trọng trong quá trình xem xét xác định tư cách pháp lý của AI. Tương tự, pháp luật EU dù chưa có văn bản pháp luật chính thức quy định về tư cách pháp lý của AI nhưng đã có tài liệu chính thức đề cập đến khả năng trao cho AI một số quyền, trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực dân sự. Cụ thể, trong Kế hoạch Chiến lược 2016-2020, Ủy ban Châu Âu tuyên bố rằng “họ sẽ khám phá các khung pháp lý cho các hệ thống tự trị, đặc biệt là các quy tắc an toàn, trách nhiệm pháp lý và các điều kiện pháp lý…”. [60] Kế hoạch này đã đề cập đến việc thiết lập khung pháp lý cho hệ thống tự trị, ngụ ý đến việc xác định tư cách pháp lý của AI. Năm 2017, Quốc hội Châu Âu trong Nghị quyết “Quy tắc luật dân sự về Robot” đã đề cập tại điều 59F: “...những robot tự trị tinh vi nhất có thể được thiết lập là có tư cách pháp nhân điện tử, chịu trách nhiệm bồi thường mọi thiệt hại mà chúng có thể gây ra…”. [61] Như vậy, EU không phủ nhận khả năng AI có thể trở thành một chủ thể độc lập của luật dân sự. Năm 2018, Ủy ban EU đã công bố “Trí tuệ nhân tạo: một cách tiếp cận của Châu Âu để thúc đẩy đầu tư và thiết lập các hướng dẫn đạo đức” (Tài liệu IP /18/3362). Tài liệu này đã đề cập: “AI có thể đặt ra những câu hỏi đạo đức và pháp lý mới, liên quan đến trách nhiệm pháp lý…”. [62] Như vậy vấn đề xác định tư cách pháp lý của AI là cần thiết trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan. Hoa Kỳ, EU và các nước trên thế giới đều đang tích cực nghiên cứu về việc xác định tư cách pháp lý cho AI.[63] Việt Nam, với tư cách là một quốc gia đang hội nhập sâu rộng, không nên nằm ngoài quá trình này. 4. Một số giá trị tham khảo cho Việt Nam Để giải quyết những thách thức từ AI, bảo vệ quyền đối với DLCN, Việt Nam cần có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ với các chuẩn mực quốc tế. Việc tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia đi đầu trong lĩnh vực này sẽ giúp xây dựng một khung pháp lý hiệu quả, bảo vệ tối đa quyền lợi của chủ thể. Thứ nhất,  Việt Nam cần hoàn thiện các quy định liên quan đến cơ sở của quyền đồng ý, đặc biệt lưu ý đến tiêu chí “được cung cấp thông tin” (chủ thể phải được cung cấp đầy đủ các thông tin có thể ảnh hưởng đến quyết định đồng ý hay không đồng ý). Thứ hai,  Việt Nam cần học tập các quốc gia khác trên thế giới sớm nghiên cứu, xây dựng và ban hành khung pháp lý riêng biệt quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến quyền đối với DLCN và công nhận quyền đối với DLCN là quyền cơ bản trong kỷ nguyên AI. Tại Việt Nam, quyền đối với DLCN và bảo vệ DLCN mới được quy định trong Nghị định số 13/2023/NĐ-CP, ngoài ra chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể về vấn đề này, cũng như chưa công nhận các quyền của chủ thể DLCN là quyền cơ bản trong kỷ nguyên AI.[64]  Thứ ba, Việt Nam cần có sự phân biệt giữa thuật ngữ “DLCN” với “thông tin cá nhân”, “xóa” với “hủy bỏ”.[65] Điều này nhằm tránh nhầm lẫn trong áp dụng pháp luật, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả thực thi. Thứ tư,  Việt Nam cần thiết lập cơ quan giám sát nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ DLCN. Hiện, cơ quan chuyên trách bảo vệ DLCN là Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an.[66] Tuy nhiên, hoạt động của cơ quan này vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông và Ngân hàng Nhà nước.[67] Do đó, cần đề xuất thành lập một cơ quan chuyên trách độc lập về bảo vệ DLCN, được tích hợp trong bộ máy nhà nước để đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả trong công tác thực thi pháp luật. Thứ năm , cần nghiên cứu và ban hành các quy định về phân loại AI và hệ thống AI dựa trên mức độ nguy hiểm theo tham khảo từ các điều khoản về phân loại AI của AIA như đã đề cập ở phần 2 để có những biện pháp phù hợp trước những hành vi xâm phạm DLCN từ chúng. Việc phân loại này không chỉ giúp đảm bảo an toàn thông tin mà còn thúc đẩy ứng dụng AI một cách có trách nhiệm, tuân thủ nguyên tắc tương xứng giữa rủi ro và biện pháp phòng ngừa.[68] Thứ sáu,  cần xúc tiến quá trình xác định tư cách pháp lý của AI. Sự thừa nhận này một mặt tạo ra cơ chế rõ ràng để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến AI, một mặt bảo vệ quyền lợi của con người nói chung, của chủ thể DLCN nói riêng trong kỷ nguyên AI. 4. Kết luận DLCN được xem là một thứ tài sản vô hình thuộc sở hữu của chủ thể nhất định, nhưng trong kỷ nguyên bùng nổ AI, những vấn đề liên quan đến AI xâm phạm quyền của chủ thể đối với DLCN đang diễn ra ngày càng nhức nhối, ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của chủ thể đó. Thực trạng đó đang diễn ra phức tạp không chỉ trên thế giới mà còn ngay tại Việt Nam; do đó, Việt Nam cần phải thực hiện các hành động cần thiết, bắt đầu từ việc hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ quyền đối với DLCN liên quan đến AI đến các biện pháp cấp thiết nhằm trực tiếp, quyết liệt và toàn diện bảo vệ quyền của chủ thể DLCN. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vương Thị Bảo Ngọc - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao; Đỗ Thu Trang - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao; và Lương Khánh Ngọc - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2] Phạm Thị Thoa, ‘Quyền đối với DLCN theo quy định của pháp luật Việt Nam’ (Apolat Legal, 2023) < https://apolatlegal.com/vi/blog/quyen-doi-voi-du-lieu-ca-nhan-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-viet-nam/ > truy cập ngày 17/11/2024. [3] ‘Data Protection’ (European Data Protection Supervisor, 2024) < https://www.edps.europa.eu/data-protection/data-protection_en > truy cập ngày 21/11/2024. [4] ‘Personal Data Protection’ (ScienceDirect Topics) < https://www.sciencedirect.com/topics/computer-science/personal-data-protection > truy cập ngày 21/11/2024. [5] ‘Personal Data Protection’ (European Environment Agency’s home page, 26/5/2023) < https://www.eea.europa.eu/en/about/working-practices/personal-data-protection > truy cập ngày 21/11/2024. [6] A. M. Turing, Computing Machinery and Intelligence, Vol. 59, No. 236 (Oxford University Press, 10/1950) trang 433-460. [7] Stuart Russell, Peter Norvig, Artificial Intelligence: A Modern Approach, (Prentice Hall, 1994), trang 7. [8] Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13902:2023 (ISO/IEC 22989:2022), tiểu mục 3.1 Mục 3. [9] Đạo luật AI 2024, mục 5.2 [10] ‘U.S. Artificial Intelligence Policy: Legislative and Regulatory Developments’ (Covington & Burling LLP, 20/10/2023) < https://www.cov.com/en/news-and-insights/insights/2023/10/us-artificial-intelligence-policy-legislative-and-regulatory-developments > truy cập ngày 21/11/2024. [11] Xiao-Ling Jin và các tác giả khác, ‘Application of a Blockchain Platform to Manage and Secure Personal Genomic Data: A Case Study of LifeCODE.ai China’ (2019) < https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/31507268/ > truy cập ngày 21/11/2024. [12] Lưu Minh Sang, Trần Đức Thành, ‘Trí tuệ nhân tạo và những thách thức pháp lý’ (2020) Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam < https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3303/tri-tue-nhan-tao-va-nhung-thach-thuc-phap-ly.aspx > truy cập ngày 21/11/2024. [13] Hạnh H, ‘Hà Lan Phạt Công Ty AI Mỹ 30,5 Triệu Euro’ (ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI, 04/9/2024) < https://hanoionline.vn/ha-lan-phat-cong-ty-ai-my-30-5-trieu-euro-263110.htm > truy cập ngày 21/11/2024. [14][15] ‘Những Con Số về Digital Tại Việt Nam 2024 Mà Bạn Phải Biết’ (HIỆP HỘI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VIỆT NAM, 29/5/2024) < https://vecom.vn/nhung-con-so-ve-digital-tai-viet-nam-2024-ma-ban-phai-biet > truy cập ngày 21/11/2024. [16] Đạo luật Quyền riêng tư 1974, mục b Điều 552a. [17] ‘Data Privacy Laws in the United States (Updated October 2024)’ (Didomi, 10/2024) < https://www.didomi.io/blog/us-data-privacy-laws > truy cập ngày 21/11/2024. [18][22][23] ‘What Is Data Subject Consent Management?’ (PrivacyEngine Data Protection Software and Consultancy, 22/4/2024) < https://www.privacyengine.io/resources/glossary/data-subject-consent-management/ > truy cập ngày 21/11/2024. [19] ‘IoT Là Gì? - Giải Thích về Internet Vạn Vật - AWS’ (Amazon Web Services, Inc.) < https://aws.amazon.com/vi/what-is/iot/ > truy cập ngày 21/11/2024. [20] ‘Artificial Intelligence in IoT: Enhancing Connectivity and Efficiency’ (Device Authority, 29/8/2023) < https://deviceauthority.com/artificial-intelligence-in-iot-enhancing-connectivity-and-efficiency/ > truy cập ngày 21/11/2024. [21] Khatiwada P và các tác giả khác, ‘A Reference Design Model to Manage Consent in Data Subjects-Centered Internet of Things Devices’ (2024) 5 IoT 100 < https://doi.org/10.3390/iot5010006 > truy cập ngày 21/11/2024. [24] ‘Opinion 15/2011 on the definition of consent’ (European Commission, 13/07/2011) < https://ec.europa.eu/justice/article-29/documentation/opinion-recommendation/files/2011/wp187_en.pdf > truy cập ngày 21/11/2024. [25] ‘Apple Security Feature Reboots Phones After 72 Hours of Inactivity’ (PYMNTS, 15/11/2024) < https://www.pymnts.com/apple/2024/apple-security-feature-reboots-phones-after-72-hours-of-inactivity/ > truy cập ngày 21/11/2024. [26] Zhang D. và các tác giả khác, ‘Right to Be Forgotten in the Era of Large Language Models: Implications, Challenges, and Solutions’ (2024) AI and Ethics. [27] ‘LinkedIn’s 930 Million Users Unknowingly Train AI, Sparking Data Privacy Concerns’ (PYMNTS, 24/9/2024) < https://www.pymnts.com/artificial-intelligence-2/2024/linkedins-930-million-users-unknowingly-train-ai-sparking-data-privacy-concerns/ > truy cập ngày 21/11/2024. [28] Cécile De Terwangne, ‘Internet Privacy and the Right to Be Forgotten/Right to Oblivion’ (2012) 13 Revista de Internet derecho y politica 31 < https://researchportal.unamur.be/en/publications/internet-privacy-and-the-right-to-be-forgottenright-to-oblivion > truy cập ngày 17/11/2024. [29][30][42] Huỳnh Thị Nam Hải và Huỳnh Thị Minh Hải, ‘Quyền được lãng quên trên không gian mạng và vấn đề đảm bảo sự cân bằng với quyền tự do ngôn luận’ (2023) Tạp chí Tòa án nhân dân < https://tapchitoaan.vn/quyen-duoc-lang-quen-tren-khong-gian-mang-va-van-de-dam-bao-su-can-bang-voi-quyen-tu-do-ngon-luan8770.html > truy cập ngày 17/11/2023. [31] Phan Thảo Đan và Đoàn Đức Thắng, ‘Thách thức của trí tuệ nhân tạo với ‘quyền được lãng quên’ và một số khuyến nghị cho pháp luật Việt Nam’ (2023) Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam < https://lsvn.vn/thach-thuc-cua-tri-tue-nhan-tao-voi-quyen-duoc-lang-quen-va-mot-so-khuyen-nghi-cho-phap-luat-viet-nam-1690300752-a133297.html > truy cập ngày 21/11/2024. [32] Bộ luật Dân sự 2015, Điều 221. [33] Bộ luật Dân sự 2015, Điều 32, 34, 38. [34] Luật an toàn thông tin mạng 2015, Điều 18. [35] Nghị định số 13/2023/NĐ-CP 2023, khoản 5 Điều 16. [36] Nguyễn Văn Phúc, ‘Bảo vệ DLCN: Quá khó để doanh nghiệp tuân thủ quy định’ (2024) Tạp chí Kinh tế Sài Gòn < https://thesaigontimes.vn/bao-ve-du-lieu-ca-nhan-qua-kho-de-doanh-nghiep-tuan-thu-quy-dinh/ > truy cập ngày 21/11/2024. [37] Lê Xuân Tùng và Đào Bá Minh, ‘Kinh nghiệm của châu Âu và Hoa Kỳ về bảo vệ quyền nhân thân dưới tác động của Cách mạng 4.0 và một số bài học cho Việt Nam’ (2020) Tạp chí Dân chủ & Pháp luật < https://danchuphapluat.vn/kinh-nghiem-cua-chau-au-va-hoa-ky-ve-bao-ve-quyen-nhan-than-duoi-tac-dong-cua-cach-mang-4-0-va-mot-so-bai-hoc-cho-viet-nam > truy cập ngày 21/11/2024. [38] Đạo luật báo cáo tín dụng công bằng (Fair Credit Reporting Act - FCRA) 1970, 15 U.S.C. § 1681i(a)(5). [39] Đạo luật Bảo vệ quyền riêng tư trực tuyến của trẻ em (Children’s Online Privacy Protection Act - COPPA) 1998, 16 CFR § 312.6. [40][45] Đạo luật Bảo vệ quyền riêng tư video (Video Privacy Protection Act - VPPA) 1988, 18 U.S.C. § 2710(e). [42] ‘Laws & Regulations’ ( HHS.gov , 31/3/2021) < https://www.hhs.gov/regulations/index.html > truy cập ngày 21/11/2024. [43] ‘Consumer Financial Protection Bureau’ (Consumer Financial Protection Bureau) < https://www.consumerfinance.gov/ > truy cập ngày 21/11/2024. [44] ‘What does AI need? A comprehensive federal data privacy and security law’ (IAPP, 12/7/2023) < https://iapp.org/news/a/what-does-ai-need-a-comprehensive-federal-data-privacy-and-security-law/ > truy cập ngày 21/11/2024. [46] Ngô Thị Minh Hương, Phạm Hải Chung, ‘QUYỀN ĐƯỢC LÃNG QUÊN TRONG KỶ NGUYÊN SỐ: THÁCH THỨC CỦA ỨNG DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO’ < https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/94766/1/KY-1034.pdf > truy cập ngày 21/11/2024. [47] Đạo luật AI 2024, điểm f khoản 1 Điều 54. [48] Đạo luật AI 2024, điểm i khoản 4 Điều 60. [49] Điều 51 GDPR, Điều 63 AIA. [50] ‘Cases Studies 2018-2023’ (Data Protection Commission) < https://www.dataprotection.ie/sites/default/files/uploads/2023-09/DPC_CS_2023_EN_Final.pdf?fbclid=IwY2xjawGhOA9leHRuA2FlbQIxMAABHfIV_Yi4AeDEkE87z4t4j_8uS8d9yYY0ddpa_lj0mAYpFoFqRBqIgippYw_aem_BbfvBX7WMs7br8OvMOw-2A > truy cập ngày 21/11/2024. [51] ‘Công nghệ trí tuệ nhân tạo – Một số vấn đề ảnh hưởng tới xã hội’ (Cục sở hữu trí tuệ, 24/04/2020) < https://ipvietnam.gov.vn/sach-tap-chi/-/asset_publisher/sLWyfypSNz0a/content/cong-nghe-tri-tue-nhan-tao-mot-so-van-e-anh-huong-toi-xa-hoi?inheritRedirect=false > truy cập ngày 21/11/2024. [52][53][55] Lưu Minh Sang, Trần Đức Thành, ‘Trí tuệ nhân tạo và những thách thức pháp lý’ (2020)  Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam < https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3303/tri-tue-nhan-tao-va-nhung-thach-thuc-phap-ly.aspx > truy cập ngày 21/11/2024. [54] Matjaž Perc, Mahmut Ozer, Janja Hojnik, ‘Social and juristic challenges of artificial intelligence’ (2019) Humanities & Social Sciences Communications < https://doi.org/10.1057/s41599-019-0278-x > truy cập ngày 21/11/2024. [56] Roman Dremliuga,  Pavel Kuznetcov, Alexey Mamychev, ‘Criteria for Recognition of AI as a Legal Person’ (2019) Journal of Politics and Law  < https://www.ccsenet.org/journal/index.php/jpl/article/view/0/40443 > truy cập ngày 21/11/2024. [57] Giovanni De Gregorio, ‘The rise of digital constitutionalism in the European Union’ (2021) Oxford academic < https://academic.oup.com/icon/article/19/1/41/6224442 > truy cập ngày 21/11/2024. [58] Kế hoạch được xuất bản bởi Văn phòng Điều hành của Tổng thống xác định các biện pháp chính để tối đa hóa lợi ích của công nghệ AI. [59] ‘Artificial intelligence: Commission outlines a European approach to boost investment and set ethical guidelines’ (European Commission, 25/04/2018) < https://ec.europa.eu/commission/presscorner/detail/en/ip_18_3362 > truy cập ngày 21/11/2024. [60][62] ‘Content and Technology – strategic plan 2016-2020’ (European Commission, 2020)  < https://ec.europa.eu/info/sites/info/files/strategic-plan-2016-2020-dg-cnect_may2016_en.pdf > truy cập ngày 21/11/2024. [61] ‘European Parliament resolution of 16 February 2017 with recommendations to the Commission on Civil Law Rules on Robotics’ (European Parliament, 2015) < https://www.europarl.europa.eu/doceo/document/TA-8-2017-0051_EN.html?redirect#BKMD-12 > truy cập ngày 21/11/2024. [63] A. Atabekov, O. Yastrebov, ‘Legal Status of Artificial Intelligence Across Countries: Legislation on the Move’ (2018) European Research Studies Journal < https://ersj.eu/journal/1245 > truy cập ngày 21/11/2024. [64] ‘Dữ liệu cá nhân không được mua, bán dưới mọi hình thức’ (Báo Điện tử Chính phủ, 01/10/2024) < https://baochinhphu.vn/du-lieu-ca-nhan-khong-duoc-mua-ban-duoi-moi-hinh-thuc-102241001151734842.htm > truy cập ngày 08/12/2024.  [65] Lê Anh, ‘HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ DLCN’ (Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam, 2024) < https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=85067&CategoryId=0 > truy cập ngày 21/11/2024. [66] Trần Thị Việt Hà, ‘Pháp luật quốc tế về bảo vệ dữ liệu cá nhân và gợi mở cho Việt Nam’ (2024) Tạp chí nghiên cứu, hướng dẫn công tác tổ chức Xây dựng Đảng của Ban tổ chức Trung Ương < https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/phap-luat-quoc-te-ve-bao-ve-du-lieu-ca-nhan-va-goi-mo-cho-viet-nam-21130 > truy cập ngày 08/12/2024. [67] ‘Xây dựng thế trận toàn dân phòng, chống lừa đảo trên không gian mạng’ (Tạp chí An toàn Thông tin, 30/08/2024) < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/xay-dung-the-tran-toan-dan-phong-chong-lua-dao-tren-khong-gian-mang-110469 > truy cập ngày 08/12/2024. [68] Mahler T. 2022. Giữa quản lý rủi ro và tính tương xứng: cách tiếp cận dựa trên rủi ro trong đề xuất luật trí tuệ nhân tạo của EU. Swedish Law Informatics Res Inst . 2021:246–267.

  • [67] THÁCH THỨC CỦA TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TRONG CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI NHẰM BẢO VỆ DÂN THƯỜNG VÀ MỤC TIÊU DÂN SỰ

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Vũ Nguyễn Lan Phương [1] Tóm tắt: Lĩnh vực quân sự đang chứng kiến những thay đổi với sự xuất hiện của vũ khí chiến đấu kết hợp trí tuệ nhân tạo (AI). Vấn đề này được thế giới đặc biệt quan tâm kể từ khi công nghệ AI mang đến những kết quả bất ngờ tại xung đột Nga - Ukraine.[2] Bất chấp các hiểm họa và sự thiếu hụt các biện pháp kiểm soát, vũ khí quân sự tích hợp AI vẫn đang không ngừng phát triển với khả năng tấn công chính xác và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức tác chiến và ra quyết định trong chiến tranh hiện đại. Cho đến nay, vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng cho thấy AI có thể đảm bảo tuân thủ các quy định của Luật Nhân đạo Quốc tế (LNĐQT). Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc bảo vệ dân thường và các mục tiêu dân sự trong các cuộc xung đột vũ trang có sự tham gia của AI. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu và đánh giá một số thách thức của việc sử dụng AI trong chiến tranh hiện đại, đặc biệt trong vấn đề bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự, qua đó góp phần xác định những lỗ hổng pháp lý khi ứng dụng AI vào chiến tranh hiện đại. Từ khóa: chiến tranh hiện đại, AI trong quân sự, UAV, bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự, Luật Nhân đạo Quốc tế. 1. Dẫn nhập Với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, AI đã được triển khai để tham gia hỗ trợ các quá trình tác chiến quân sự phức tạp như: “đánh giá tình hình, xử lý thông tin, chỉ huy điều hành, hỗ trợ quyết sách, tăng cường hệ thống tác chiến tự động”.[3] Mặc dù vũ khí trang bị AI được dự đoán có thể trở nên bão hòa trong tương lai, song những thách thức tiềm ẩn từ xu hướng này là không thể phủ nhận,[4] đặc biệt trong việc đảm bảo thực thi các nguyên tắc bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự của LNĐQT. Một khi AI tự động có khả năng lựa chọn và tấn công mục tiêu, tính nhân đạo khi ứng dụng vào lĩnh vực quân sự sẽ trở thành một vấn đề cần lưu ý, do sự xuất hiện của những loại vũ khí này sẽ làm gia tăng mối lo ngại về an ninh toàn cầu và cảnh báo “một hình thức chiến tranh mới sau súng, đạn, và bom nguyên tử”[5]- chiến tranh công nghệ cao. Dựa trên bối cảnh thực tiễn từ các cuộc xung đột gần đây như xung đột dải Gaza, chiến dịch quân sự đặc biệt Nga – Ukraine và một số cuộc tấn công khác, bài viết sẽ tập trung phân tích hai nội dung chính: thứ nhất, tìm hiểu các nguyên tắc cơ bản của LNĐQT về bảo vệ dân thường và các mục tiêu dân sự; thứ hai, đánh giá những thách thức mà AI sẽ gặp phải trong việc đảm bảo các nguyên tắc của LNĐQT luôn được thực thi. 2. Các nguyên tắc cơ bản của LNĐQT về bảo vệ dân thường và các mục tiêu dân sự 2.1. Nguyên tắc phân biệt: Bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự từ chiến tranh cổ đại đến chiến tranh hiện đại Trước khi được pháp điển hóa, nguyên tắc phân biệt đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước như một tập quán trong chiến tranh. Ví dụ, sử thi Mahabharata kể về chiến tranh Kurukshetra của Ấn Độ giáo thời cổ đại đã nêu: “Con trai của tộc Vishnu sẽ không giết chết một người phụ nữ, một cậu bé, hay một ông già (...)”.[6] Năm 632, Caliph Hồi giáo đầu tiên - Abu Bakr tuyên bố: “Một chiến thắng thanh sạch sẽ không nhuốm máu phụ nữ, người già, và trẻ em. Đừng hủy hoại những cây cọ, đốt cháy nhà cửa hay ruộng ngô. Chớ chặt phá cây trái, cũng như giết hại gia súc, bầy đàn (...)”.[7] Ngày nay, nguyên tắc phân biệt là một nguyên tắc cơ bản của LNĐQT, được ghi nhận theo Điều 48 Nghị định thư bổ sung về Bảo vệ Nạn nhân của các xung đột vũ trang (Nghị định thư bổ sung I),[8] trong đó quy định rằng các bên trong xung đột vũ trang phải “luôn phân biệt giữa dân thường và người tham chiến, giữa các mục tiêu dân sự và mục tiêu quân sự và theo đó sẽ chỉ đạo các hoạt động của họ chống lại các mục tiêu quân sự”.[9] Với mục đích lớn nhất là hướng đến con người trong mọi hoàn cảnh và xung đột,[10] việc đảm bảo nguyên tắc phân biệt nhằm bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự trước các hành động thù địch đóng một vai trò then chốt quan trọng trong luật quốc tế. Hiện nay, với tần suất ngày càng gia tăng của các cuộc tấn công được tiến hành thông qua công nghệ AI tiên tiến, khả năng đảm bảo tuân thủ các quy định của LNĐQT trong chiến tranh và xung đột đang trở thành một vấn đề gây tranh cãi. Trong lĩnh vực quân sự, phương tiện bay không người lái - Unmanned Aerial Vehicle (UAV) có sử dụng AI là một ví dụ nổi bật của cuộc đua tích hợp công nghệ này vào vũ khí chiến đấu. Năm 2020, UAV “Kagu-2” của Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất và sử dụng trong cuộc xung đột quân sự ở Libya được ghi nhận là lần đầu tiên vũ khí có thể tấn công mà không cần chỉ huy từ con người.[11] Nếu Nga và Ukraine đang nỗ lực sử dụng AI nhằm ngăn chặn UAV từ đối phương,[12] chiến lược quân sự của Mỹ và Trung Quốc đang hướng tới phát triển lực lượng UAV để dự phòng các cuộc xung đột trong tương lai. Có thể nói, cục diện chiến tranh sẽ thay đổi với sự tham gia của máy bay không người lái được điều khiển bởi AI.[13] Mặc dù ngày càng được ứng dụng rộng rãi, song công nghệ AI vẫn đang phải đối diện với những khó khăn trong việc phân biệt chính xác giữa mục tiêu dân sự và quân sự. Hơn nữa, việc đảm bảo tuân thủ nguyên tắc phân biệt trên chiến trường còn gặp nhiều thách thức, đặc biệt nếu xảy ra các trường hợp dân thường tự nguyện tham gia hỗ trợ quá trình chiến đấu hoặc tự nguyện trở thành lá chắn người, gây khó khăn trong việc xác định mục tiêu hợp pháp, từ đó đặt ra vấn đề cấp thiết về tính chính xác trong việc triển khai AI vào các hoạt động quân sự. 1.2. Nguyên tắc tương xứng, nguyên tắc cẩn trọng, và sự phức tạp trong việc áp dụng hai nguyên tắc này nhằm bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự trong bối cảnh xung đột vũ trang Về nguyên tắc tương xứng, Điều 51(5)(b) Nghị định thư bổ sung I cấm các cuộc tấn công “gây thiệt hại ngẫu nhiên đến tính mạng dân thường hoặc phá hủy tài sản dân sự vượt quá lợi thế quân sự cụ thể và trực tiếp mà cuộc tấn công đó dự kiến đạt được”.[14] Bắt nguồn từ các tư tưởng pháp quyền sơ khai[15] và được phản ánh trong các văn bản cổ đại như Bộ luật Hammurabi hay Phúc âm thánh Mátthêu qua nguyên tắc lex talionis (“mắt đền mắt, răng đền răng”).[16] nguyên tắc tương xứng dần được áp dụng như một tiêu chuẩn nhằm nhấn mạnh sự phân chia công lý theo mức độ xứng đáng của từng đối tượng.[17] Trong xung đột, để đảm bảo nguyên tắc này, cần xác định những yếu tố khách quan như cân nhắc mục tiêu, lựa chọn vũ khí, cùng với những yếu tố kỹ thuật khác. Các yếu tố chủ quan sẽ khó xác định hơn do liên quan đến lợi ích quân sự dự đoán từ cuộc tấn công.[18] LNĐQT không quy định rõ ràng về các tiêu chí định lượng giữa thiệt hại và lợi thế, do đó việc xác định tính tương xứng trên thực tế vẫn còn gặp nhiều thách thức khi “người tấn công phải đánh giá được tính tương xứng trước khi thực hiện tấn công, trong khi thiệt hại của tấn công chỉ được biết sau khi tấn công xảy ra”.[19] Nguyên tắc tương xứng có mối liên hệ chặt chẽ với nguyên tắc cẩn trọng, do sự cẩn trọng để giảm thiểu thiệt hại cho dân thường và các mục tiêu dân sự là tiền đề để đảm bảo mức độ tấn công tương xứng với lợi thế quân sự dự kiến. Theo Điều 57 Nghị định thư bổ sung I, khi tiến hành các hoạt động quân sự, “kể cả khi một cuộc tấn công đã tuân thủ được nguyên tắc phân biệt và nguyên tắc tương xứng, các bên vẫn có nghĩa vụ cẩn trọng và phải thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự”.[20] Tương tự như nguyên tắc tương xứng, một số phương pháp để đảm bảo tính cẩn trọng bao gồm: “lựa chọn vũ khí phù hợp và điều chỉnh các yếu tố tác chiến như chiến thuật, thời gian, góc độ, và độ cao tấn công nhằm giảm thiểu tác động lên khu vực chiến tranh”.[21] Ngoài ra, bên tấn công và bên bị tấn công đều phải phân tích và lựa chọn các mục tiêu khác nhau để giảm thiểu tối đa nguy cơ thiệt hại. Tuy nhiên trên thực tế, con người dù có thiện chí tuân thủ các nguyên tắc của LNĐQT, cũng khó đảm bảo cẩn trọng trong tấn công hoặc bị tấn công, điển hình như các lực lượng vũ trang phi nhà nước thiếu điều kiện thu thập, xác minh thông tin, và không có nhiều lựa chọn trong việc sử dụng vũ khí và phương tiện chiến tranh.[22] Trong xung đột vũ trang có sử dụng AI, nhằm bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự, ưu tiên hàng đầu là giới hạn phạm vi hoạt động của vũ khí tự động để đảm bảo hai nguyên tắc này.[23] Cùng với đó, các quy định liên quan đến nguyên tắc tấn công tương xứng và cẩn trọng cần sớm được làm rõ nhằm hỗ trợ giảm thiểu thiệt hại cho dân thường và mục tiêu dân sự. 3. Thách thức của AI trong việc bảo vệ dân thường và các mục tiêu dân sự theo quy định của LNĐQT 3.1. Thách thức của AI trong khả năng phân biệt dân thường, chiến binh, mục tiêu dân sự và mục tiêu quân sự Một trong những thách nhằm bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự đến từ những lỗ hổng trong khả năng phân biệt của trí tuệ nhân tạo (AI). Nguyên nhân dẫn đến sự cố tấn công sai mục tiêu bắt nguồn từ cơ chế tấn công của AI khi chỉ dựa trên dấu hiệu nhất định mà không có khả năng về mặt đạo đức hay nhân tính, dẫn đến hạn chế trong việc phân biệt chính xác giữa người tham chiến và người không tham chiến. Theo các nhà sản xuất vũ khí quân sự, công nghệ AI kết hợp trong UAV sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại dân sự do khả nhận diện mục tiêu vượt trội,[24] nhưng trái ngược với thông tin này, không ít nghiên cứu đã chỉ ra và phân tích những bằng chứng về mối đe dọa lớn mà vũ khí tích hợp AI mang lại. Khác với chiến tranh truyền thống, giờ đây AI sẽ thay thế con người thông qua quá trình được huấn luyện để nhận diện mục tiêu dựa trên dữ liệu và hình ảnh. Do đó, viễn cảnh về vấn nạn “máy móc giết người” và các hệ thống nhận dạng khuôn mặt gắn nhãn nhầm người dân vô tội là tội phạm hoặc khủng bố đang là mối quan tâm hàng đầu trong các cuộc tranh luận trên quốc tế về công nghệ này.[25] Những lỗi nhận diện của AI đặc biệt gia tăng khi khoảng cách đến mục tiêu càng lớn, khiến hình ảnh được ghi lại không rõ ràng, làm nhiễu mục tiêu nhận diện, dẫn tới tấn công sai đối tượng.[26] Ngay cả khi AI chưa được ứng dụng để điều khiển vũ khí, thế giới đã từng chứng kiến những thảm họa UAV tấn công vào dân thường và mục tiêu dân sự từ khu vực Tây Á, Trung Á, Trung Đông đến khu vực chiến sự Nga - Ukraine, ví dụ như các vụ tấn công nhầm vào nhóm nông dân Afghanistan,[27] tấn công vào một đám cưới tại Yemen mà tình báo Mỹ cho biết họ chỉ “nhắm mục tiêu theo điện thoại di động”,[28] hay vụ tấn công vào Điện Kremlin tại Nga – một mục tiêu được cho là “bất khả xâm phạm đối với vũ khí thông thường”.[29] Xét những trường hợp trên, hành vi vi phạm LNĐQT dù vô tình hay cố ý vẫn đã xảy ra ngay dưới tầm kiểm soát của con người. Như vậy, một khi AI được triển khai để hoàn toàn chi phối vũ khí, sẽ càng có nhiều hiểm họa đến từ cách thức tấn công theo các quy tắc nhận diện dấu hiệu hoặc tấn công liên tục vào khu vực mục tiêu.[30] Nếu UAV do con người điều khiển còn mắc phải những sai lầm gây hậu quả nặng nề, thì vũ khí kết hợp AI với khả năng phân biệt còn hạn chế, sẽ không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho dân thường mà còn làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nhân đạo trong các khu vực xung đột. Thách thức trong khả năng phân biệt mục tiêu còn xuất phát từ những lỗ hổng của hệ thống AI khi nhận diện sai hoặc không thể nhận diện kịp thời các mối đe dọa. Trong xung đột Israel - Palestine, hệ thống AI “Lavender” đã được Israel sử dụng để hỗ trợ xác định danh tính các chiến binh Hamas trong cuộc tấn công tại dải Gaza.[31] Dù sở hữu thiết bị cảm biến tinh vi cùng mạng lưới tín hiệu tân tiến, tình báo Israel vẫn bỏ lỡ các dấu hiệu cảnh báo, dẫn tới sự cố ngày 7 tháng 10 năm 2023, khi hàng trăm chiến binh Hamas đã xâm nhập vào Israel từ Gaza để tấn công các mục tiêu dân sự và quân sự, khiến khoảng 1200 người Israel thiệt mạng, hơn 200 người bị bắt cóc.[32] Mạng lưới cơ sở hạ tầng và cư dân đông đúc cùng với khả năng che dấu giữ liệu tốt từ Hamas[33] đã khiến AI gặp khó khăn trong việc phát hiện, phân tích, cảnh báo trước, và ngăn chặn vụ tấn công bất ngờ, dẫn đến thiệt hại nặng nề. Ngoài ra, do chỉ hoạt động dựa trên dấu hiệu được cung cấp, rủi ro tấn công nhầm vào dân thường và các mục tiêu dân sự của vũ khí có sử dụng AI có thể trở nên nghiêm trọng hơn nếu các hệ thống AI bị tin tặc xâm nhập và tráo đổi dữ liệu mục tiêu, tín hiệu tình báo để phát động các cuộc tấn công giả mạo.[34] Sự thất bại của AI trong việc đảm bảo nguyên tắc phân biệt sẽ dẫn đến những vi phạm nghiêm trọng đối với LNĐQT. Các bên sử dụng AI trong tình báo và tấn công vũ trang cần kiểm soát hệ thống để không nhắm vào những mục tiêu bất hợp pháp hay tấn công bừa bãi, và cần xem xét các biện pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng công nghệ này không làm tổn hại đến quyền lợi và sự an toàn của các cá nhân không tham gia vào xung đột. 3.2. Thách thức của AI trong khả năng đảm bảo tính tương xứng và cẩn trọng trong các cuộc tấn công Thứ nhất, khó khăn của AI trong việc phân biệt chính xác giữa các mục tiêu dân sự và quân sự như đã phân tích[35] không chỉ là một hạn chế trong việc thực thi nguyên tắc phân biệt, mà còn liên quan mật thiết đến nguyên tắc tương xứng và cẩn trọng. Các quyết định tấn công thiếu chính xác, gây ra thiệt hại ngoài ý muốn đồng nghĩa với việc không thể đảm bảo AI đã đánh giá đúng lợi thế quân sự hay đã thực hiện “mọi biện pháp cần thiết” để phân loại các mục tiêu hợp pháp và mục tiêu bất hợp pháp[36] nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại. Thứ hai, nếu ngay cả con người vẫn gặp khó khăn trong việc đánh giá thiệt hại và lợi ích, xác minh thông tin, giảm thiểu thiệt hại ngoài ý muốn, đặc biệt trong những tình huống không đủ phương tiện và dữ liệu, thì đối với các hệ thống AI, thách thức nhằm đạt được độ chính xác trong tấn công sẽ càng lớn, và rủi ro nguy cơ vi phạm quy tắc nhân đạo càng cao. Ví dụ, trong Báo cáo của Ủy ban Điều tra về vụ tấn công vào Salah Shehadeh - chỉ huy quân sự của Hamas tại Gaza năm 2002, Israel đã bị chỉ trích vì cuộc tấn công gây ra thiệt hại lớn về tài sản dân sự và quá nhiều thương vong: 14 dân thường thiệt mạng, trong đó có con gái 15 tuổi của Shehadeh. Báo cáo kết luận lực lượng Israel đã vi phạm nguyên tắc tương xứng do không thu thập đủ thông tin để đánh giá chính xác các thiệt hại trước khi thực hiện cuộc tấn công.[37] Điều này đặt ra một tình huống tương tự đối với các hệ thống vũ khí hoàn toàn sử dụng AI, khi việc đảm bảo thu thập đầy đủ thông tin và ra quyết định chính xác để hạn chế thiệt hại ngoài ý muốn có thể vượt quá khả năng của AI hiện nay. Ngoài ra, việc AI thiếu khả năng tự đưa ra những quyết định dựa trên yếu tố tình cảm và đạo đức sẽ tạo thêm nhiều thách thức trong việc đảm bảo các nguyên tắc tương xứng và cẩn trọng trong các tình huống xung đột phức tạp. Khi trực tiếp tham gia tấn công, binh lính có khả năng thay đổi quyết định hoặc dừng lại trong khoảng thời gian ngắn dựa trên hoàn cảnh thực tế để bảo vệ dân thường hoặc phát hiện mối nguy hại không dự tính trước. Ngược lại, nếu vũ khí được vận hành hoàn toàn bởi AI, quyết định tấn công có thể được đưa ra với tốc độ vượt trội nhưng lại thiếu linh hoạt do công nghệ này chỉ hoạt động dựa trên dữ liệu và thuật toán cố định, không kịp thích ứng với sự phức tạp khó lường của chiến tranh hoặc các mối đe dọa bất thường dẫn tới hậu quả nhân đạo thảm khốc.[38] Sự hiện diện của dân thường và tài sản dân sự ở các khu vực chiến đấu không thể loại trừ hoàn toàn, nên ngay cả khi vũ khí tấn công được trang bị công nghệ cảm biến với khả năng phân biệt vượt trội giúp giảm thiểu các sai sót, việc AI đạt tới mức độ quyết định có độ chính xác và đạo đức cao như con người vẫn là một thách thức trong ngành công nghệ quân sự ở hiện tại và tương lai. 3.3. Thách thức trong việc xác định trách nhiệm pháp lý đối với sai phạm của AI trong các cuộc tấn công và hệ quả của những lỗ hổng pháp lý liên quan đến bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự Do những lỗ hổng pháp lý trong khung luật hiện hành, thách thức xác định trách nhiệm pháp lý đối với AI liên quan mật thiết đến việc bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự, và cũng là một trong những thách thức lớn nhất. Mặc dù LNĐQT đã đặt ra các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc phân biệt, nguyên tắc tương xứng và nguyên tắc cẩn trọng nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại cũng như căn cứ xác định mức độ vi phạm của các bên trong xung đột, câu hỏi về trách nhiệm khi có thiệt hại xảy ra nếu AI gây thương vong cho dân thường hoặc phá hủy tài sản dân sự dựa trên khả năng tự động ra quyết định của công nghệ này vẫn chưa có lời giải đáp, do thiếu các quy định rõ ràng về trách nhiệm đối với hệ thống vũ khí tự động trong luật quốc tế hiện hành. Một hướng đi trong giải pháp nhằm xác định trách nhiệm pháp lý đối với sai phạm của AI đó là cấp tư cách pháp nhân cho trí tuệ nhân tạo. Khi thiệt hại xảy ra “không có sự tác động của con người mà do sự sai lệch bản năng thuật toán về công nghệ thì trên phương diện logic, lỗi và trách nhiệm sẽ thuộc về các thực thể AI”.[39] Tuy nhiên, việc cung cấp tư cách pháp nhân cho AI cũng không giải quyết được hoàn toàn việc giải trình trách nhiệm của các bên liên quan như nhà nước, lập trình viên, chỉ huy quân đội, và người điều khiển, vì mỗi bên đều có vai trò nhất định trong quyết định triển khai và vận hành AI trong chiến tranh. Hiện nay trên thế giới, điểm chung mà các nghiên cứu chỉ ra là AI không có trách nhiệm pháp lý, bất kể khả năng nhận thức của phần mềm công nghệ này tiên tiến đến đâu, do đó việc xác định trách nhiệm pháp lý trong các trường hợp sử dụng hệ thống vũ khí tự động có sử dụng công nghệ AI đặt ra nhiều khó khăn. Một số tài liệu cho rằng thay vì đổ lỗi cho máy móc và công nghệ, cần chú ý tới trách nhiệm của các công ty, tập đoàn sản xuất vũ khí có sử dụng AI.[40] Nhưng câu hỏi đặt ra là kể cả khi đã được lập trình chi tiết, liệu AI có thực sự đảm bảo được khả năng phân biệt, tính tương xứng và cẩn trọng khi thay con người ra quyết định về các cuộc tấn công quân sự? Đối với lập trình viên, việc yêu cầu phải thiết lập AI tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc của LNĐQT, tránh tấn công vào dân thường và các mục tiêu dân sự là điều khó thực hiện, do đôi khi tình huống thực tế quá phức tạp để AI tự đưa ra quyết định phù hợp. Đáng lưu ý là đến nay công nghệ này chưa có khả năng nhận thức đạo đức và luôn phụ thuộc vào thuật toán, do đó hoạt động của AI có thể hoàn toàn trái ngược hoặc thậm chí tách rời khỏi chủ ý của con người,[41] đặc biệt là binh lính – những người trực tiếp tham gia tấn công trên chiến trường cùng vũ khí tích hợp AI. Giả sử, một binh lính được giao nhiệm vụ kích hoạt vũ khí tự động, nhưng dữ liệu cảm biến xác định nhầm cử động của một nhóm dân thường là mục tiêu và tấn công ngay sau khi phân tích. Nếu AI đảm nhiệm toàn bộ quá trình tấn công, thì việc gán trách nhiệm pháp lý cho duy nhất binh lính là không hợp lý, vì vận hành vũ khí còn liên quan đến sự chỉ đạo và cho phép tấn công từ chỉ huy quân đội và quốc gia, nên nhiều nghiên cứu cho rằng việc xác định trách nhiệm cũng phải được quy cho các chủ thể này,[42] và đây cũng là quan điểm được đề cập nhiều nhất từ các bài nghiên cứu đi trước. Liên quan đến xác định trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của nhà nước, năm 2001, Uỷ ban Luật Quốc tế (ILC) đã dự thảo và thông qua văn bản Các điều khoản về trách nhiệm quốc tế của quốc gia cho hành vi sai phạm quốc tế năm 2001 (Articles on International Responsibility of States for Internationally Wrongful Acts - ARSIWA), đính kèm theo một nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc.[43] Điều 1 ARSIWA quy định: “Mọi hành vi sai trái quốc tế của một quốc gia đều kéo theo trách nhiệm quốc tế của quốc gia đó”.[44] Thực tiễn đã ghi nhận các vụ việc tranh chấp quốc tế dẫn chiếu và sử dụng các điều khoản của ARSIWA,[45] do đó việc quy trách nhiệm pháp lý cho nhà nước khi hành vi tấn công bằng vũ khí công nghệ cao của quốc gia đó vi phạm LNĐQT là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, việc giải trình trách nhiệm của các bên trong chiến tranh hiện đại vẫn chưa đạt được sự thống nhất, nên nếu luật quốc tế không sớm có những quy định cụ thể để thắt chặt việc ứng dụng và xác định trách nhiệm pháp lý liên quan đến vũ khí công nghệ cao, tương lai dân thường và mục tiêu dân sự sẽ bị tổn hại bởi những hành vi sai trái mà không một tổ chức hay cá nhân nào phải chịu trách nhiệm. Nếu xảy ra tình huống impunity - những trường hợp “không có biện pháp thực sự nào được áp dụng để xử phạt các hành vi vi phạm, hoặc khi các biện pháp đó không được thi hành”[46]- các hành vi vi phạm nhân đạo sẽ có điều kiện tiếp diễn mà không có sự kiểm soát. Một khi để xảy ra các sai phạm thường xuyên đồng nghĩa rằng khả năng bảo vệ dân thường và các mục tiêu dân sự của LNĐQT đang trở nên suy yếu, dẫn đến những mối lo ngại về hiệu quả của luật quốc tế. Sự bất an này không chỉ dẫn đến những hậu quả về tâm lý đối với người dân sống trong khu vực xung đột, mà còn tác động mạnh mẽ đến tâm trạng và cảm xúc của các binh lính tham gia vào các cuộc chiến sử dụng vũ khí AI - những đối tượng được cho là có thể “giảm cảm giác tội lỗi” nhờ vũ khí công nghệ cao khi “buộc phải có những hành động giết chóc và tàn phá trên chiến trường”.[47] Tách biệt về mặt vật lý giữa binh lính và các hành động tấn công được thực hiện qua vũ khí công nghệ không làm mất kết nối giữa tinh thần của binh lính và hậu quả tàn khốc mà họ phải đối diện. Vì vậy, việc xác định trách nhiệm không chỉ nên dừng lại ở những thiệt hại vật chất mà còn cần xem xét những tổn thương tinh thần mà các nạn nhân phải gánh chịu do những sai lầm của hệ thống vũ khí trang bị AI. Cuối cùng, việc thiếu hụt các quy định nhằm xác định trách nhiệm pháp lý đối với việc sử dụng vũ khí tích hợp AI còn ảnh hưởng đến vấn đề an ninh trên phạm vi toàn cầu, vì hậu quả của những cuộc khủng hoảng nhân đạo là những làn sóng di cư và các vấn đề về tị nạn, buộc các quốc gia trên thế giới đều phải đối diện với những nguy cơ, thách thức mới về an ninh và ổn định. 4. Kết luận và kiến nghị Trong quá trình phát triển công nghệ, AI có tiềm năng mang lại những lợi ích to lớn, nhưng việc ứng dụng AI vào các hệ thống vũ khí tự động và các quyết định trong chiến tranh đã làm dấy lên những lo ngại nghiêm trọng về nhân đạo, đặc biệt trong việc bảo vệ dân thường và mục tiêu dân sự. Một khi AI được tích hợp, tất cả các bước trong quy trình tác chiến có thể diễn ra đồng thời mà không cần sự can thiệp của con người. Mặc dù công nghệ có thể tiến xa trong tương lai, hiện tại AI vẫn không có khả năng phát triển tình cảm hay đạo đức. Nếu không có sự giám sát chặt chẽ từ con người, có thể dẫn đến những tổn thất không mong muốn cho dân thường và các mục tiêu dân sự, làm suy yếu quyền con người và có nguy cơ vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của LNĐQT. Trước tình hình đó, thế giới cần đặt ra các quy định và tiêu chuẩn quốc tế rõ ràng để điều chỉnh AI trong lĩnh vực quân sự, đảm bảo rằng AI được sử dụng một cách có trách nhiệm và phù hợp với các nguyên tắc nhân đạo. Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng, cho đến hiện tại, con người vẫn là đối tượng duy nhất phải chịu trách nhiệm cho những hành động của mình. Để đảm bảo việc sử dụng AI trong chiến tranh tuân thủ các nguyên tắc nhân đạo, cần có một số kiến nghị cấp thiết. Trước hết, các quy định hiện hành của LNĐQT chưa đủ chi tiết để bao quát các AI trong xung đột vũ trang, do đó luật quốc tế cần nhanh chóng có các quy định cụ thể để điều chỉnh hành vi của AI trong các hoạt động quân sự, với những yêu cầu cụ thể về chỉ số kỹ thuật của AI và xác định trách nhiệm của con người trong toàn bộ quy trình tác chiến. Thứ hai, do khả năng phân biệt của AI hiện nay chỉ dựa trên dữ liệu, việc nghiên cứu và phát triển các công nghệ AI cần được đẩy mạnh nhằm sớm có những giải pháp hiệu quả giúp giảm thiểu các thách thức cũng như những tác động tiềm tàng của công nghệ này đối với an ninh quốc tế. Cùng với đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế để kiểm soát AI trong quân sự nhằm đảm bảo vũ khí AI được phù hợp với luật quốc tế, hướng tới an ninh toàn cầu. Trước tốc độ phát triển không ngừng của công nghệ, việc làm này không chỉ góp phần bảo vệ tính mạng và quyền lợi của dân thường mà còn giúp xây dựng một khuôn khổ pháp lý vững chắc, tạo điều kiện cho AI được triển khai trong chiến tranh một cách có trách nhiệm và an toàn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vũ Nguyễn Lan Phương – Khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao. [2] Duy Hưng. ‘Cuộc đua tích hợp công nghệ AI cho UAV giữa Nga và phương Tây’ Nghiên cứu chiến lược (29/01/2024). < https://nghiencuuchienluoc.org/cuoc-dua-tich-hop-cong-nghe-ai-cho-uav-giua-nga-va-phuong-tay/ > truy cập ngày 17/11/2024. [3] Huỳnh Minh Chiến. ‘Chiến tranh trí tuệ nhân tạo - những vấn đề cần quan tâm nghiên cứu’ Tạp chí Quốc phòng Toàn dân (22/01/2022). < http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/chien-tranh-tri-tue-nhan-tao-nhung-van-de-can-quan-tam-nghien-cu u/18244.html> truy cập ngày 02/10/2024. [4] Peter Svenmarck và Linus Luotsinen, Mattias Nilsson, và Johan Schubert, ‘Possibilities and challenges for artificial intelligence in military applications’ (Proceedings of the NATO Big Data and Artificial Intelligence for Military Decision Making Specialists’ Meeting Vol 1, Sweden, 2018). [5] Hùng Mạnh, ‘Cảnh báo về phát triển AI trong quân sự’, Báo Nhân dân Điện tử (28/08/2019). < https://nhandan.vn/canh-bao-ve-phat-trien-ai-trong-quan-su-post369068.html > truy cập ngày 03/10/2024. [6] Kisari Mohan Ganguli, The Complete Mahabharata in English (biên tập bởi Juliet Sutherland và J. B. Hare 2003), trang 308. [7] Christopher Greenwood, ‘ Historical Development and Legal Basis ’ trong The Handbook Of Humanitarian Law In Armed Conflicts (biên tập bởi Dieter Fleck, tái bản lần thứ 2, nhà xuất bản Đại học Oxford 1995), trang 14. [8] Phạm Lan Dung (Chủ biên), Giáo trình Công pháp Quốc tế , Tập 1 (Nhà xuất bản Thế giới 2022), trang 340. [9] Nghị định thư bổ sung I, Điều 48; Luật Tập quán Nhân đạo Quốc tế, Quy tắc 1,7; ‘Distinction’ How Does Law Protect in War? Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế (ICRC). < https://casebook.icrc.org/a_to_z/glossary/distinction > truy cập ngày 24/10/2024. [10] ‘International norms and standards relating to disability’, United Nations. < https://www.un.org/esa/socdev/enable/comp210.htm >  truy cập ngày 28/10/2024. [11] Tường Vy, ‘Trí tuệ nhân tạo và quá trình tự chủ vũ khí trên thế giới’, Báo Quân đội nhân dân (22/9/2024). < https://www.qdnd.vn/quan-su-the-gioi/vu-khi-trang-bi/tri-tue-nhan-tao-va-qua-trinh-tu-chu-vu-khi-tren-the-gioi -795497> truy cập ngày 16/11/2024. [12] Đức Hoàng, ‘Nga tuyên bố có vũ khí diệt UAV bằng trí tuệ nhân tạo’, Báo Dân trí (01/5/2024). < https://dantri.com.vn/the-gioi/nga-tuyen-bo-co-vu-khi-diet-uav-bang-tri-tue-nhan-tao-20240501055832805.htm > truy cập ngày 16/11/2024. [13] Michael J. Boyle, The Drone Age: How Drone Technology Will Change War and Peace (Nhà xuất bản Đại học Oxford 2020), trang 10. [14] Luật Tập quán Nhân đạo Quốc tế, Quy tắc 14 < https://ihl-databases.icrc.org/en/customary-ihl > truy cập ngày 28/10/2024. [15] Eric Engle, ‘The history of the general priciple of proportionality: an overview’ (2009), Dartmouth Law Journal 1-11 (2012), 2-4 < https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1431179 > truy cập ngày 08/12/2024. [16] Xem thêm: Nguyễn Anh Tuấn, Khảo lược Bộ luật Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2008) [17] Đậu Công Hiệp, ‘Nguyên tắc tương xứng trong hạn chế quyền con người và vận dụng trong tình trạng khẩn cấp’ (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020) p. 162-170 < https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/142044 > truy cập ngày 07/12/2024. [18] Edvin Andersson, ‘The protection of civilians in war - assessing the proportionality principle in armed conflict’ (LLB thesis, Örebro University 2022). [19] Phạm Lan Dung, xem chú thích số 8, trang 341; Marco Sassòli, International Humanitarian Law: Rules, controversies, and solutions to problem arising in warfare (Edward Elgar Publishing Limited 2019), trang 362. 20 Nghị định thư bổ sung I, Điều 57(2)(a)(i). [21] JS Thurnher, Feasible Precautions in Attack and Autonomous Weapons trong Dehumanization of Warfare: Legal Implications of New Weapon Technologies’ (biên tập bởi R Frau and T Singer, W Heintschel von Heinegg 2018), trang 108. [22] Marco Sassòli, xem chú thích số 19, trang 343. [23] Eliot Winter, ‘The Compatibility of the Use of Autonomous Weapons with the Principle of Precaution in the Law of Armed Conflict’ (2020), The Military Law and the Law of War Review < https://www.elgaronline.com/view/journals/mllwr/58-2/mllwr.2020.02.18.xml?tab_body=fulltext#ref_fn_063 > truy cập ngày 3/11/2024. [24] Amos Chapple, ‘Swarm Wars: The Shaky Rise Of AI Drones In Ukraine’, FRE/RL (14/8/2024) < https://www.rferl.org/a/drone-ai-technology-russia-ukraine-war/33078798.html > truy cập ngày 16/11/2024. [25] Forrest E. Morgan, Benjamin Boudreaux, Andrew J. Lohn, Mark Ashby, Christian Curriden, Kelly Klima, và Derek Grossman, ‘Military Applications of Artificial Intelligence: Ethical Concerns in an Uncertain World’ (2020), RAND Corporation. < https://www.rand.org/pubs/research_reports/RR3139-1.html > truy cập ngày 25/10/2024. [26] Aleksandar Petrovski, Marko Radovanović, và Aner Behlic, ‘Application Of Drones With Artificial Intelligence For Military Purposes’(10th International Scientific Conference on Defensive Technologies, Belgrade, Serbia, 13-14 October 2022). < https://www.researchgate.net/profile/Marko-Radovanovic-2/publication/364324778_APPLICATION_OF_DR ONES_WITH_ARTIFICIAL_INTELLIGENCE_FOR_MILITARY_PURPOSES/links/649cab9a8de7ed28ba618 890/APPLICATION-OF-DRONES-WITH-ARTIFICIAL-INTELLIGENCE-FOR-MILITARY-PURPOSES.pdf> truy cập ngày 10/9/2024. [27] Nguyễn Hoàng (Theo Reuters), ‘Mỹ không kích nhầm 30 dân thường’ VnExpress (20/9/2019). < https://vnexpress.net/my-khong-kich-nham-30-dan-thuong-3984766.html > truy cập ngày 31/10/2024. [28] ‘Vì sao UAV của Mỹ chuyên không kích nhầm đám cưới, đám ma?’, Báo điện tử Tiền phong (10/11/2015). < https://tienphong.vn/vi-sao-uav-cua-my-chuyen-khong-kich-nham-dam-cuoi-dam-ma-post825105.tpo > truy cập ngày 25/10/2024. [29] Thế giới & Việt Nam/ Australia Financial Review, ‘Trí tuệ nhân tạo và mối nguy chiến tranh hiện đại’ Báo Pháp luật Việt Nam Điện tử (13/5/2023). < https://baophapluat.vn/tri-tue-nhan-tao-va-moi-nguy-chien-tranh-hien-dai-post475236.html > truy cập ngày 27/9/2024. [30] Minh Trí, ‘Mặt trái của chương trình UAV Mỹ’ Báo Quân đội nhân dân (10/02/2020). < https://www.qdnd.vn/quan-su-the-gioi/vu-khi-trang-bi/mat-trai-cua-chuong-trinh-uav-my-609741 > truy cập ngày 25/10/2024. [31] Tường Vy, xem chú thích số 11. [32] Anthony King, ‘Digital Targeting: Artificial Intelligence, Data, and Military Intelligence’ (2024), Journal of Global Security Studies, 9(2) ogae009, < https://doi.org/10.1093/jogss/ogae009 > truy cập ngày 24/9/2024. 33 Hoàng Bách, ‘Cuộc tấn công bất ngờ của Hamas đả kích niềm kiêu hãnh về trí tuệ nhân tạo của Israel’ Báo Nghệ An điện tử (10/10/2023). < https://baonghean.vn/cuoc-tan-cong-bat-ngo-cua-hamas-da-kich-niem-kieu-hanh-ve-tri-tue-nhan-tao-cua-israel 10262002.html#google_vignette> truy cập ngày 25/10/2024. [34] Michael J. Boyle, xem chú thích số 13. [35] Xem phần 3.1. [36] Eliot Winter, xem chú thích số 23. [37] Amichai Cohen, David Zlotogorski, Proportionality in International Humanitarian Law: Consequences, Precautions and Procedures (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2021) trang 96. [38] Forrest E. Morgan, Benjamin Boudreaux, Andrew J. Lohn, Mark Ashby, Christian Curriden, Kelly Klima, và Derek Grossman, xem chú thích số 25. [39] Đặng Lê Phương Uyên, ‘Vấn đề về xác định trí tuệ nhân tạo là chủ thể mới của quan hệ pháp luật’, Tạp chí điện tử Kiểm Sát (30/8/2023). < https://kiemsat.vn/van-de-ve-xac-dinh-tri-tue-nhan-tao-la-chu-the-moi-cua-quan-he-phap-luat-66017.html > truy cập ngày 03/11/2024. [40] Robin Geiß, State Control Over the Use of Autonomous Weapon Systems: Risk Management and State Responsibility ’ trong Military Operations and the Notion of Control under International Law (biên tập bởi Rogier Bartels và nhóm biên tập, TMC Asser Press 2021) trang 439, 448. [41] Paulius Čerka, Jurgita Grigienė, và Gintarė Sirbikytė, ‘Is it possible to grant legal personality to artificial intelligence software systems?’ (2017) ISSN: 0267-3649, Computer Law & Security Review, 33(5), 685-699 < https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0267364916301777#preview-section-abstract > truy cập ngày 03/11/2024. [42] Rebecca Crootof, ‘War Torts: Accountability for Autonomous Weapons’ (2016) 164 University of Pennsylvania Law Review, Google Scholar < https://heinonline.org/HOL/LandingPage?handle=hein.journals/pnlr164&div=40&id=&page= > truy cập ngày 20/11/2024, trang 1347, 1389–93; JM Beard, ‘Autonomous Weapons and Human Responsibilities’ (2014) 45 Georgetown Journal of International Law, Google Scholar < https://core.ac.uk/download/pdf/77934296.pdf > truy cập ngày 20/11/2024, trang 617, 663-78; Robin Geiß, xem chú thích số 40, trang 448; ‘Future Unmanned System Technologies: Legal and Ethical Implications of Increasing Automation’ NATO JAPCC (2016). < https://www.japcc.org/wp-content/uploads/Future_Unmanned_System_Technologies_Web.pdf >, truy cập ngày 20/11/2024, trang 30. [43] Trần Hữu Duy Minh. ‘Trách nhiệm pháp lý quốc tế của Quốc gia’ iuscogens . < https://iuscogens-vie.org/2018/03/18/66/ > truy cập ngày 08/12/2024. [44] ARSIWA, Điều 1. [45] Trần Anh Tuấn, ‘Các yếu tố cấu thành hành vi trái pháp luật quốc tế của nhà nước’, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp. < https://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/Attachments/58/C%C3%A1c%20y%E1%BA%BFu%20t %E1%BB%91%20c%E1%BA%A5u%20th%C3%A0nh%20h%C3%A0nh%20vi%20tr%C3%A1i%20ph%C3% A1p%20lu%E1%BA%ADt%20qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20c%E1%BB%A7a%20Nh%C3%A0 %20n%C6%B0%E1%BB%9Bc.docx> truy cập ngày 20/11/2024. [46] Cherif Bassiouni (biên tập), ‘The Practical Guide to Humanitarian Law’ (Post Conflict Justice 2002), trang 3. [47] Vũ Công Giao, Nguyễn Anh Đức, ‘Sự phát triển và những vấn đề đang đặt ra với Luật Nhân đạo Quốc tế’ (Hội thảo quốc tế Những đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực luật nhân đạo quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2022) 9 < https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/167942 >  truy cập ngày 28/10/2024.

  • [66] MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI LIÊN QUAN ĐẾN TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Nông Ngọc Diệp[1] Tóm tắt : Trong bối cảnh các sáng kiến công nghệ ngày càng được phát triển một cách mạnh mẽ, cùng với sự ra đời của vô vàn các phát minh tiên tiến, trí tuệ nhân tạo trở nên ngày càng phổ biến và được ứng dụng trong rất nhiều trong các sản phẩm công nghệ phục vụ đa dạng mục đích với nhiều lĩnh vực. Trí tuệ nhân tạo đã cho thấy vai trò vô cùng quan trọng đối với nhiều khía cạnh của đời sống của con người trong đó có kinh tế, văn hoá, giáo dục,… Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích tích cực mà trí tuệ nhân tạo đã đem lại cũng tồn tại không ít những vấn đề phức tạp cần được chú trọng nghiên cứu, đánh giá và đưa ra giải pháp. Trí tuệ nhân tạo luôn tiềm ẩn những nguy cơ làm phát sinh rất nhiều những tranh chấp liên quan đến mối quan hệ giữa trí tuệ nhân tạo và xã hội loài người. Trong số đó, những vấn đề về tư cách pháp lý cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo hiện vẫn chưa có một cơ chế thực sự hiệu quả điều chỉnh vấn đề này. Bài viết này tập trung phân tích các khía cạnh pháp lý có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo, phân tích cách tiếp cận về tư cách pháp lý của các thực thể ứng dụng trí tuệ nhân tạo, từ đó, đưa ra những đề xuất mang tính định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các vấn đề pháp lý có liên quan đến trí tuệ nhân tạo.   Từ khóa:   Trí tuệ nhân tạo, AI, tư cách pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại.   Dẫn nhập Sự phát triển ngày một mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo (AI) đã đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của nhân loại, có thể xem là bước chuyển giao giữa thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 và kỷ nguyên mới của cách mạng công nghiệp 5.0. Trong bối cảnh sự tương tác giữa con người và các thực thể ứng dụng AI ngày càng trở nên phổ biến, đồng nghĩa với sự phát sinh các quan hệ xã hội giữa con người và các thực thể này cũng ngày càng gia tăng. Trong trường hợp phát sinh những xung đột hay xuất hiện các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của con người do các thực thể ứng dụng AI gây ra hoàn toàn có khả năng làm phát sinh các vấn đề pháp lý liên quan đến năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH). Trên thực tế, những hành vi gây thiệt hại được thực hiện bởi các thực thể ứng dụng AI đã liên tục được ghi nhận, tiêu biểu trong thời gian gần đây tại Việt Nam đã ghi nhận trường hợp một người tử vong do va chạm với máy bay không người lái (Drone) phun thuốc bảo vệ thực vật tại Kiên Giang.[2] Khi xảy ra các trường hợp như vậy, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp phải BTTH sẽ không dễ dàng nếu thiếu vắng khung pháp lý điều chỉnh vấn đề này do tính chất của các thực thể này có nhiều điểm khác biệt so với các thực thể truyền thống. Vì vậy, bài viết lựa chọn tập trung nghiên cứu về đề tài “Một số vấn đề pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo” nhằm mục đích làm rõ cách xác định trách nhiệm BTTH liên quan đến trí tuệ nhân tạo trong đó chủ yếu phân tích trên những thực thể ứng dụng AI.   1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại Sự xuất hiện của AI ngày càng phổ biến trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề liên quan tư cách pháp lý của AI. Việc đưa ra câu trả lời cho vấn đề này sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm BTTH. Bởi, nếu có khả năng các thực thể ứng dụng AI được coi là có tư cách pháp lý điều này sẽ là cơ sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ, bao gồm cả nghĩa vụ BTTH.[3] Đối với vấn đề BTTH, quy định trong luật La Mã và cả pháp luật dân sự của nhiều quốc gia theo dòng họ pháp luật dân luật[4] đều ghi nhận quy định việc BTTH phải được thực hiện bởi chủ thể có hành vi gây thiệt hại hoặc người chịu trách nhiệm về hành vi (người đại diện) của chủ thể đó.[5] Thông thường, quy định của pháp luật hiện hành ở một số quốc gia chỉ dừng ở việc ghi nhận các chủ thể này là các cá nhân và pháp nhân[6] là những chủ thể có tư cách pháp lý và có khả năng thực hiện nghĩa vụ BTTH.[7] Bởi quyền và nghĩa vụ chỉ được ghi nhận cho các chủ thể là con người và pháp nhân.[8] Song các hành vi làm phát sinh nghĩa vụ BTTH dù được gán cho cá nhân hay pháp nhân đều được thực hiện bởi các cá nhân trên thực tế. Điều này đồng nghĩa với việc, để xác định khả năng BTTH của các thực thể có ứng dụng AI cần xác định chính xác tư cách pháp lý và xác định liệu các thực thể này có được coi là một cá nhân có tư cách pháp lý với các quyền và nghĩa vụ như con người hay không.   2. Một số quy định của pháp luật và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo 2.1. Thực tiễn về bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo Hiện nay, AI đang ngày càng phát triển và không ngừng đạt được những bước tiến mới về độ hoàn thiện của các thực thể ứng dụng AI trong đa dạng các lĩnh vực khác nhau. Trong đó, một số AI được trang bị công nghệ deep learning và machine learning đã được phát triển đến mức có khả năng tự học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và có thể tự đưa ra quyết định và vận hành một cách hoàn toàn độc lập với con người[9] và có khả năng gây ra thiệt hại một cách độc lập. Đồng thời, những công nghệ vượt trội như vậy lại đã và đang được phổ cập với tốc độ vô cùng nhanh chóng trong bối cảnh hiện nay, dẫn đến sự tiếp xúc giữa con người và các thực thể ứng dụng AI ngày càng trở nên phổ biến.[10] Mặc dù, với sự phát triển vô cùng vượt bậc của công nghệ, các nhà nghiên cứu và các đơn vị sản xuất AI ngày càng hướng đến mức độ hoàn thiện gần như tuyệt đối với tỷ lệ sai sót ngày càng thấp.[11] Song, khả năng xảy ra các vấn đề liên quan đến sự mất an toàn khi các thực thể ứng dụng AI được đưa vào sử dụng là hoàn toàn có thể dù xác suất có thể là không cao.[12] Thực tế cũng đã cho thấy không ít những trường hợp các sản phẩm, thiết bị được vận hành tự động bởi AI đã gây ra những thiệt hại không chỉ về vật chất thậm chí là ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của con người. Ví dụ, trong nhiều trường hợp, các phương tiện giao thông được vận hành bởi AI có khả năng gây tai nạn do phát sinh lỗi về phần mềm hoặc các thuật toán, hoặc AI có thể thực hiện những hành vi gây thiệt hại một cách có chủ đích và bỏ qua sự an toàn của người khác để đạt được mục tiêu đã được thiết lập sẵn cho chính nó.[13] Trên thực tế, các trường hợp phương tiện giao thông được điều khiển tự động bởi AI gây tai nạn đã xảy ra thậm chí có xu hướng gia tăng.[14]  Tiêu biểu dòng xe điện tự lái của Tesla được xác định gây ra ít nhất 13 vụ tai nạn gây tử vong và nhiều vụ việc khác gây thương tích nghiêm trọng, đặc biệt việc lạm dụng hệ thống lái tự động được cho là nguyên nhân hàng đầu.[15] Ngoài ra, theo báo cáo năm 2024 của AI Incident Database (AIID) – cơ sở dữ liệu sự cố AI, số lượng các trường hợp ứng dụng AI gây ra sự cố có xu hướng gia tăng hàng năm.[16] Trong đó, năm 2023 có 123 vụ việc được báo cáo, tăng 32,3% so với năm 2022 và tăng gấp 20 lần so với năm 2013.[17] Với xu hướng ngày càng gia tăng các trường hợp sự cố gây ra bởi AI, thiệt hại chắc chắn sẽ phát sinh ngày càng gia tăng về số lượng điều này sẽ dẫn đến những tình huống pháp lý liên quan đến trách nhiệm BTTH. Trên thực tế, đã có không ít những vụ án đã được khởi kiện liên quan đến vấn đề yêu cầu BTTH gây ra bởi các thực thể ứng dụng AI đặc biệt là phương tiện tự vận hành bởi AI.[18] Nhìn chung, thực tiễn cho thấy sự phát triển của AI luôn đặt ra nhiều thách thức với xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng các vụ việc gây thiệt hại bởi AI. Trong khi đó, vấn đề xác định trách nhiệm BTTH liên quan đến AI còn tồn tại rất nhiều hạn chế và tồn tại nhiều quan điểm chưa được thống nhất để điều chỉnh và giải quyết những tình huống pháp lý như vậy.   2.2. Những quan điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo Hiện nay, có hai quan điểm không thống nhất liên quan đến vấn đề xác định tư cách pháp lý của AI và xác định trách nhiệm BTTH liên quan đến AI. Quan điểm thứ nhất cho rằng các thực thể ứng dụng AI là “tài sản” và không có tư cách pháp lý độc lập và do đó không thể tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.[19] Quan điểm này nhận được nhiều sự ủng hộ và có nhiều điểm tương đồng hơn các quy định hiện hành của hệ thống pháp luật các quốc gia, trong đó tập trung vào học thuyết trách nhiệm nghiêm ngặt (Strict liability),  học thuyết trách nhiệm sản phẩm (Product liability)  và học thuyết trách nhiệm pháp lý gián tiếp (Vicarious liability).  Theo đó, đa số các quốc gia căn cứ vào pháp luật hiện hành để quy trách nhiệm về một chủ thể xác định bao gồm chủ sở hữu, người sử dụng, đơn vị vận hành,… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật châu Âu “hành vi sử dụng sản phẩm chịu trách nhiệm về những thiệt hại xảy ra” do đó chủ thể sử dụng AI sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH.[20] Ngoài ra, cũng có quy định quy trách nhiệm BTTH cho nhà sản xuất trước những hành vi gây thiệt hại được thực hiện bởi các sản phẩm ứng dụng AI.[21] Theo quan điểm này, bất kể chủ sở hữu, nhà sản xuất,.. có lỗi hay không việc các thực thể ứng dụng AI thực hiện các hành vi gây thiệt hại phải thuộc về trách nhiệm quản lý của các chủ thể này. Trong các trường hợp như vậy, yếu tố lỗi không được coi là một điều kiện để xác định trách nhiệm BTTH. Bởi vì, nếu coi các thực thể ứng dụng AI là tài sản thì sự tồn tại và hoạt động của   tài sản phải luôn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu hoặc một chủ thể nhất định.   Mặc dù, người quản lý tài sản không có lỗi trong hành vi gây ra thiệt hại, nhưng việc tài sản thuộc sự quản lý của họ gây ra thiệt hại thì mặc nhiên xác định là họ có lỗi. Đồng thời, mặc dù lỗi không phải là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH theo học thuyết này, nhưng việc xác định lỗi của các bên cũng có những vai trò nhất định trong việc giải quyết vấn đề BTTH do tài sản gây ra trên thực tế.[22] Trong đó, nhấn mạnh đến tính chất và nguyên nhân cụ thể của thiệt hại để xác định những chủ thể liên quan có được loại trừ trách nhiệm BTTH hay không, hoặc có được giảm mức bồi thường phù hợp với tính chất và mức độ lỗi trong hành vi gây thiệt hại hay không. Ví dụ, nếu chứng minh được chủ sở hữu đã nỗ lực trong việc giành lại quyền điều khiển để hạn chế thiệt hại xảy ra khi các thực thể ứng dụng AI mất kiểm soát, chủ sở hữu có khả năng được giảm mức BTTH. Thực tế, ưu điểm của cách tiếp cận nghiêm ngặt như vậy giúp hạn chế việc lơ là và thiếu cẩn trọng trong khâu sản xuất hoặc quá trình vận hành và sử dụng các thực thể ứng dụng AI để thúc đẩy trách nhiệm quản lý của các chủ thể cũng như nhấn mạnh trách nhiệm của các chủ thể này đối với vấn đề đảm bảo an toàn xã hội.[23] Đồng thời, đảm bảo tính công bằng cho người chịu thiệt hại bởi nếu không công nhận AI là một chủ thể có tư cách pháp lý và không công nhận học thuyết nghiêm ngặt, coi lỗi là một điều kiện để xác định trách nhiệm BTTH sẽ đồng nghĩa với việc gián tiếp bác bỏ khả năng đòi bồi thường của nạn nhân.[24] Bởi chủ sở hữu, nhà sản xuất, lập trình viên,… đều không có lỗi trong việc gây thiệt hại mà lỗi hoàn toàn do bản thân AI – trong khi AI không được trao tư cách pháp lý dẫn đến việc nạn nhân không thể đòi BTTH từ một chủ thể như vậy.[25] Mặt khác, cách tiếp cận như vậy có khả năng gây hạn chế sự phát triển của ngành công nghiệp AI bởi nỗi lo về khủng hoảng pháp lý khi chủ sở hữu, nhà sản xuất, vận hành đứng trước nguy cơ đối mặt với những thách thức pháp lý trong lĩnh vực này. Đồng thời, những quan điểm phản đối cách tiếp cận này cũng cho rằng, không thể áp đặt trách nhiệm BTTH lên các chủ thể không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại và coi yếu tố lỗi phải được đặt lên hàng đầu để xác định chủ thể chịu trách nhiệm.[26] Ngoài ra, cũng tồn tại quan điểm gần tương tự cho rằng việc xác định trách nhiệm BTTH liên quan đến AI có thể được tiếp cận giống như các quy định về BTTH gây ra bởi vật nuôi,[27] các nguồn nguy hiểm cao độ như thú dữ,[28] hoặc BTTH gây ra bởi người chưa thành niên,[29] hoặc quy định về trách nhiệm gián tiếp trong trường hợp quy trách nhiệm BTTH cho pháp nhân do hành vi của người của pháp nhân, người làm công, học nghề gây ra.[30] Mặc dù, những cách tiếp cận dựa trên cơ sở pháp luật hiện hành có thể giúp giải quyết một số tình huống pháp lý nhất định có liên quan đến AI, giúp tiết kiệm thời gian và công sức, chi phí trong việc phải thiết lập một hệ thống pháp lý hoàn toàn mới để điều chỉnh AI.[31] Song, mỗi cách tiếp cận như vậy đều vướng phải hạn chế do tính chất hoàn toàn mới và có nhiều điểm khác biệt của AI so với các thực thể truyền thống khác.[32] Quan điểm thứ hai coi AI là một chủ thể có tư cách pháp lý và có khả năng chịu trách nhiệm cho hành vi của chính mình như con người.[33] Tuy nhiên quan điểm thứ hai phần lớn chỉ mang tính học thuyết vì đa số các quốc gia trên thế giới và các tổ chức quốc tế đều chưa ghi nhận AI là một chủ thể của pháp luật và không thể tự chịu trách nhiệm BTTH.[34] Nguyên nhân chủ yếu là bởi mặc dù AI đã và đang phát triển ngày càng đạt tới mức độ hoàn thiện rất cao nhưng nhiều ý kiến vẫn nhận định rằng AI không thể hoàn toàn tách rời với con người[35] và việc trao tư cách pháp lý cho các thực thể ứng dụng AI có thể gây ra xung đột pháp luật và đặc biệt có thể tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ xã hội của con người đặc biệt là khía cạnh đạo đức.[36] Cũng theo quan điểm này, căn cứ xác định chủ thể chịu trách nhiệm BTTH phải được xác định bởi yếu tố lỗi và việc các thực thể ứng dụng AI gây ra các thiệt hại thực tế cần quy trách nhiệm cho chính AI - chủ thể thực hiện hành vi.[37] Trên thực tế, các thực thể ứng dụng AI được hình thành rất phức tạp không chỉ tồn tại một quan hệ sở hữu duy nhất giữa người dùng và thực thể mà còn có cả nhà sản xuất, lập trình viên,… và thậm chí các thực thể này được vận hành bởi AI hoàn toàn có khả năng bị can thiệp của bên thứ ba khác như các hackers, tội phạm mạng dẫn đến những sai sót trong quá trình vận hành hoặc gặp các lỗi về mặt phần mềm, kỹ thuật và gây ra thiệt hại trên thực tế.[38] Điều này dẫn đến việc xác định yếu tố lỗi cũng gặp nhiều khó khăn đặc biệt khi lỗi phát sinh từ hành vi can thiệp của bên thứ ba bởi các hành vi này không dễ để truy vết khi tất cả đều được thực hiện trên không gian mạng.  Song, không thể phủ nhận rằng sự phát triển của AI hoàn toàn có thể đạt đến mức độ vận hành độc lập mà không có sự can thiệp của con người sau khi hoàn thành quá trình sản xuất, lập trình. Với mức độ tinh vi và hoàn thiện cao như vậy khác biệt với các thực thể truyền thống, việc dự đoán trước những hành động của AI là gần như không thể đạt được độ chính xác tuyệt đối và hoàn toàn nằm ngoài khả năng kiểm soát và quản lý của chủ sở hữu, lập trình viên hoặc đơn vị vận hành và lỗi hoàn toàn đến từ quyết định độc lập của các thực thể ứng dụng AI do đó các thực thể này thực chất không thể coi là tài sản đơn thuần. Vì vậy mà tồn tại các ý kiến phản đối quan điểm thứ nhất, và ủng hộ quan điểm thứ hai theo học thuyết cổ điển, theo đó, người chịu thiệt hại phải có trách nhiệm chứng minh lỗi của người gây thiệt hại đồng nghĩa với việc chủ thể không có lỗi sẽ không phải chịu trách nhiệm BTTH.[39] Bên cạnh đó, việc áp dụng quan điểm thứ nhất cũng gặp phải một số vấn đề khi một số hệ thống pháp lý của các nước có quy định cụ thể rằng các nhà sản xuất chỉ phải chịu trách nhiệm về các lỗi phát sinh khi có nguy cơ gây hại có thể dự đoán trước do sản phẩm gây ra[40] trong khi sự vận hành của AI trong nhiều trường hợp vượt quá khả năng dự đoán của con người.   2.3. Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo Pháp luật Việt Nam hiện chưa ghi nhận bất kỳ quy định nào liên quan đến vấn đề trao quyền công dân cho các thực thể ứng dụng AI trên thực tế. Trong đó, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 chỉ trao quyền công dân cho các chủ thể là con người. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chưa ghi nhận AI là một thực thể có tư cách pháp lý riêng biệt, mà chủ yếu coi các thực thể ứng dụng AI dưới dạng hàng hoá, sản phẩm, tài sản.[41] Đối với vấn đề BTTH, đây là một chế định quan trọng của pháp luật dân sự các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho những người chịu thiệt hại từ hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của chủ thể khác. Tương tự như nhiều quy định của các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam quy định chủ thể gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm BTTH.[42] Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định về trách nhiệm BTTH liên quan đến AI. Cụ thể, trong quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, ghi nhận trách nhiệm BTTH đối với cá nhân[43] và pháp nhân[44] và chưa có quy định cụ thể về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH là các thực thể ứng dụng AI. Tuy nhiên, xét trên nền tảng những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm BTTH có thể nhận thấy nhiều điểm tương đồng với cách tiếp cận của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế trên thế giới. Thứ nhất, pháp luật Việt Nam có quy định về trách nhiệm BTTH của nhà sản xuất theo Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá năm 2007,[45] sửa đổi bổ sung 2018 và quy định về BTTH ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015.[46] Thứ hai, nếu như xác định các thực thể ứng dụng AI là tài sản như quan điểm thứ nhất được nêu ở trên, theo quy định tại Khoản 3 Điều 584 BLDS năm 2015: “Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm BTTH…”. Ngoài ra, BLDS năm 2015 cũng ghi nhận các quy định về trách nhiệm BTTH do người của pháp nhân gây ra,[47] do người làm công, người học nghề gây ra,[48] do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.[49] Qua các quy định của BLDS năm 2015 có thể nhận thấy, đối với trường hợp tài sản gây thiệt hại, cơ bản pháp luật Việt Nam coi yếu tố lỗi chỉ là một trong các điều kiện để có thể xem xét giảm mức bồi thường chứ không phải là điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH.[50] Tuy vậy, các quy định nêu trên chỉ chủ yếu áp dụng đối với các chủ thể truyền thống và chưa từng được áp dụng đối với các chủ thể phi truyền thống như AI.   3. Đánh giá về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến trí tuệ nhân tạo và đề xuất định hướng Nhìn chung vấn đề tư cách pháp lý liên quan đến các thực thể ứng dụng AI còn tồn tại nhiều quan điểm và học thuyết trái chiều. Để nhận định đúng về tư cách pháp lý của AI cần thiết phải xem xét dựa trên nhiều tố bao gồm cả các yếu tố về mặt pháp lý và đạo đức. Nếu ghi nhận các thực thể ứng dụng AI có tư cách pháp lý một mặt có thể đưa AI trở thành một chủ thể mới trong hệ thống pháp luật và gắn trách nhiệm BTTH cho chính các thực thể này. Mặt khác, điều này cũng sẽ đặt ra nhiều vấn đề về mặt đạo đức khi coi các thực thể này có quyền và nghĩa vụ ngang với con người trong khi bản thân các thực thể này vẫn thiếu vắng những đặc điểm rất quan trọng của con người.[51] Ngược lại, nếu tiếp cận theo hướng không coi các thực thể ứng dụng AI không có tư cách pháp lý riêng biệt, vấn đề xác định trách nhiệm BTTH sẽ khá phức tạp khi thực tế cho thấy bản thân các thực thể này không chỉ được quản lý vận hành bởi chủ sở hữu mà còn có trách nhiệm từ nhiều bên liên quan khác như nhà sản xuất, bộ phận lập trình,…Khi đó, việc xác định yếu tố lỗi sẽ phải được đặt ra và điều tra, đánh giá một cách vô cùng cẩn trọng bời tính chất phức tạp của các thực thể này.[52] Việc xác định trách nhiệm BTTH có liên quan đến AI là vấn đề còn nhiều khó khăn bởi tính chất mới và chưa từng có tiền lệ của loại chủ thể này trong lịch sử pháp lý nhân loại. Đồng thời, tính chất phức tạp của loại chủ thể này khiến việc áp dụng các chế định pháp lý về xác định trách nhiệm BTTH cũng không dễ dàng. Trong khi đó, sự ứng dụng của AI đang ngày càng trở nên phổ biến đòi hỏi cần thiết phải có khung pháp lý để điều chỉnh hành vi của chủ thể này nhằm quản lý và hạn chế những tranh chấp pháp lý không cần thiết. Việc xác định trách nhiệm BTTH dù được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau song việc hài hoà và vận dụng linh hoạt các nền tảng lý luận từ các học thuyết nêu trên đóng vai trò cốt lõi. Trong đó, với sự phát triển tiên tiến của công nghệ hiện đại, việc xác định nguyên nhân dẫn đến các lỗi phát sinh trong quá trình vận hành của các thực thể ứng dụng AI không phải là bất khả thi. Để định hướng pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện hơn, khuyến khích việc áp dụng các công cụ để kiểm tra đánh giá năng lực của các thực thể ứng dụng AI sẽ giúp định hình tư cách pháp lý của các thực thể này một cách rõ ràng hơn trước khi các thực thể này được sử dụng trên thực tế. Ý tưởng này thực tế đã được các chuyên gia, học giả và một số quốc gia nghiên cứu.[53] Dựa trên việc thiết kết và áp dụng cách kiểm tra đánh giá năng lực sẽ có thể giúp phân loại các thực thể ứng dụng AI theo từng mức độ từ đó có thể xác định tư cách pháp lý phù hợp cho từng thực thể. Ví dụ, nếu được phân loại ở mức thấp (Weak AI) đồng nghĩa với việc các thực thể chỉ có khả năng thực hiện một số tác vụ nhất định mà không có khả năng vận hành và hoạt động hoàn toàn độc lập với con người[54] sẽ có thể được coi là các “tài sản” thuộc quyền sở hữu của con người, không có tư cách pháp lý riêng biệt và trách nhiệm BTTH khi xảy ra thiệt hại sẽ được xác định cụ thể dựa vào mức độ và tính chất trong xác định yếu tố lỗi của các chủ thể có liên quan. Cụ thể, trong trường hợp các thực thể ứng dụng AI này phát sinh lỗi trong quá trình vận hành, trách nhiệm BTTH sẽ được quy cho chủ sở hữu nếu xác định rằng chủ sở hữu có khả năng điều khiển (một phần hoặc toàn bộ) để ngăn cản, hạn chế thiệt hại xảy ra, hoặc quy cho đơn vị lập trình nếu phát hiện lỗi đến từ các thuật toán trong quá trình sản xuất, hoặc quy cho đơn vị kiểm định vì đã bỏ qua các sai sót về mặt kỹ thuật dẫn đến thiếu an toàn trong quá trình vận hành,… Trong trường hợp khác, khi các thực thể ứng dụng AI đạt ngưỡng yêu cầu về khả năng vận hành hoàn toàn độc lập với con người sau khi tách rời khỏi giai đoạn sản xuất, các thực thể này có thể được coi là có khả năng vượt bậc (Artificial superintelligence) [55] là một chủ thể độc lập có tư cách pháp lý đặc biệt có khả năng tự chịu trách nhiệm BTTH cho những hành vi tự mình gây ra.[56] Khi đó, quy định pháp luật của các quốc gia cần ghi nhận thêm một chủ thể đặc biệt mới xác định các quyền và nghĩa vụ nhất định và công nhận khả năng sở hữu tài sản của các chủ thể này để có khả năng tham gia vào một số quan hệ xã hội nhất định bao gồm cả quan hệ hợp đồng và có khả năng bồi thường các khoản thiệt hại. Việc thiết kế và áp dụng một công cụ kiểm tra đánh giá năng lực sẽ giúp đánh giá khách quan về tư cách chủ thể của các thực thể ứng dụng AI, qua đó đảm bảo yếu tố công bằng trong việc xác định trách nhiệm BTTH. Đối với Việt Nam, như đã phân tích, hiện nay chưa có bất kỳ quy định nào của pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề liên quan đến trách nhiệm BTTH liên quan đến AI. Trong tương lai gần, Việt Nam cũng sẽ không thể tránh khỏi làn sóng phát triển mạnh mẽ của các thực thể ứng dụng AI, vì vậy, việc đưa ra những quy định điều chỉnh vấn đề này là cấp thiết. Để vừa khuyến khích sự phát triển của lĩnh vực đổi mới khoa học công nghệ và vừa để đảm bảo sự công bằng và quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, việc đưa ra chế định theo đó, dựa trên cơ bản cách tiếp cận của BLDS năm 2015 về BTTH, xác định rõ tư cách chủ thể của các thực thể ứng dụng AI là cấp thiết. Đối với việc trao cho AI một tư cách pháp lý như một chủ thể đặc biệt đòi hỏi cần có sự cân nhắc và nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trong tương lai dựa trên tiềm lực công nghệ của quốc gia và cân nhắc các yếu tố kinh tế, xã hội khác bao gồm cả yếu tố về mặt đạo đức.   4. Kết luận Nhìn chung, vấn đề xác định trách nhiệm BTTH liên quan đến AI còn tồn tại nhiều quan điểm đối lập và chưa đạt được sự thống nhất cũng như chưa được ghi nhận một cách cụ thể và toàn diện trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Song, qua nghiên cứu và phân tích các học thuyết có liên quan, nhận thấy rằng việc đưa ra một khung pháp lý điều chỉnh vấn đề là cấp thiết trên cơ sở hài hoà và vận dụng linh hoạt những học thuyết được cộng đồng quốc tế ủng hộ đảm bảo tạo ra cơ sở pháp lý vừa đảm bảo tính công bằng có cân nhắc kỹ lưỡng về yếu tố đạo đức và vừa đảm bảo khuyến khích sự phát triển của khoa học công nghệ trong tương lai. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nông Ngọc Diệp – Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2] Quốc Trinh, ‘Kiên Giang: Bị máy bay không người lái va chạm, người đi đường tử vong’ ( Báo Nhân dân điện tử , 26/11/2024) < https://nhandan.vn/kien-giang-bi-may-bay-khong-nguoi-lai-va-cham-nguoi-di-duong-tu-vong-post846996.html > truy cập ngày 05/12/2024. [3] Karolina Ziemianin,  ‘ Civil legal personality of artificial intelligence. Future or utopia?’ [2021] 10(2) Internet Policy Review, trang 18. [4] BLDS Cộng hòa Lithuania, Điều 6.263; BLDS Pháp, Điều 1383; BLDS Đức, Điều 823; BLDS Quebec, Điều 1457. [5] Cerka P, Jurgita Grigiene, Gintare Sirbikyte, ‘Liability for damages caused by artificial intelligence’ [2015],  Computer Law & Security Review, trang 8. [6] Judson A. Crane, ‘The Uniform Partnership Act and Legal Persons’ [1916] 29(8) Harvard Law Review, trang 839: “…A legal person (Pháp nhân) is an entity treated by the law as the subject of rights and obligations. Human beings constitute the numerically largest class of legal persons and have a wider range of interests and powers than other legal persons, such as the state, the city, the university, the business corporation…” ; Bryant Smith, ‘Legal Personality' [1928] Vol. XXXVII No. 3, Yale Law Journal, trang 233: “To be a legal person is to be the subject of rights and duties…” . [7] Bộ luật Dân sự năm 2015 Điều 587, 584; Bộ luật Dân sự Pháp 2013, Điều 1384; Bộ luật Dân sự Ba Lan 2012, Điều 427,429,430. [8] Cerka P, Jurgita Grigiene, Gintare Sirbikyte, ‘Liability for damages caused by artificial intelligence’ [2015],  Computer Law & Security Review, trang 8. [9] Enrico Bonadio, Luke McDonagh and Christopher Arvidsson, ‘Intellectual Property Aspects of Robotics’ [2018], 9(4), European Journal of Risk Regulation, trang 655-676;  Eduardo Magrani, ‘New perspectives on ethics and the laws of artificial intelligence’ [2019] 8 Internet Policy Review, trang 9.  [10] Mohsen Sooria, Behrooz Arezoob, Roza Dastresc, ‘Artificial intelligence, machine learning and deep learning in advanced robotics, a review’ [2023], Volume 3 Cognitive Robotics, trang 65. [11] Keith Kirkpatrick, ‘Legal issues with robots’ [2013], Vol. 56, No. 11 Communications of the ACM, trang 17. [12] Stephen M. Omohundro, ‘The Basic AI Drives. - Self-Aware Systems.’ (Proceedings of the 2008 conference on Artificial General Intelligence, June 2008), trang 483. [13] Cerka P, Jurgita Grigiene, Gintare Sirbikyte, ‘Liability for damages caused by artificial intelligence’ [2015],  Computer Law & Security Review, trang 7. [14] Chuyển động 24/TTXVN, ‘Tai nạn ô tô Tesla "không người lái" khiến 2 người thiệt mạng’ ( VTV online, ngày 19/04/2021) < https://vtv.vn/the-gioi/tai-nan-o-to-tesla-khong-nguoi-lai-khien-2-nguoi-thiet-mang-20210419190946197.htm >   truy cập ngày 05/12/2024. [15] ‘Tesla Autopilot feature was involved in 13 fatal crashes, US regulator says’ ( The Guardian , ngày26/4/2024) < https://www.theguardian.com/technology/2024/apr/26/tesla-autopilot-fatal-crash > truy cập ngày 05/12/2024. [16] Artificial Intelligence Index Report 2024, Chương 3, trang 7. [17] Như trên. [18] GW Law, ‘Database of AI Litigation’, < https://blogs.gwu.edu/law-eti/ai-litigation-database/ > truy cập ngày 10/11/2024. [19] Bertolini, A, ‘Robots as Products: The Case for a Realistic Analysis of Robotic Applications and Liability Rules.’ [2013] 5(2) Law Innovation and Technology, trang 214. [20] Lưu Minh Sang, Trần Đức Thành, ‘Trí tuệ nhân tạo và những thách thức pháp lý’ [2020], 8 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam 20, trang 22. [21] European Parliament resolution of 16 February 2017 with recommendations to the Commission on Civil Law Rules on Robotics (2015/2103(INL)). [22] Dr. Sarah Zein, ‘The Civil Liability for Artificial Intelligence’ [2023] Vol. 2022 , Article 14, BAU Journal - Journal of Legal Studies - مجلة الدراسات القانونية, trang 5.  [23] Wendehorst Christiane, ‘Strict Liability for AI and other Emerging Technologies’ [2020] 11 Journal of European Tort Law, trang 174. [24] Nguyễn Mạnh Bách, Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam , (Tái bản lần thứ nhất, NXB Chính trị Quốc gia 1998), trang 242. [25] D'Agostino, Giuseppina; Gaon, Aviv; Piovesan, Carole (Biên tập), Leading Legal Disruption : Artificial Intelligence and a Toolkit for Lawyers and the Law (Nhà xuất bản Éditions Yvon Blais 2021), trang 173-174. [26] European Commission, ‘Report on the safety and liability implications of Artificial Intelligence, the Internet of Things and Robotics’, < https://commission.europa.eu/publications/commission-report-safety-and-liability-implications-ai-internet-things-and-robotics-0_en > truy cập ngày 10/11/2024. [27] Kārkliņš, Jānis, ‘Artificial Intelligence and Civil Liability’ [2020], 13 Journal of the University of Latvia. Law, trang 174. [28] Artificial Intelligence and the Law in Canada, Florian Martin-Bariteau & Teresa Scassa (LexisNexis, 2021 trang 13; Animals Act 1971, Chapter 22; Dangerous Wild Animals Act 1976, Chapter 38; Chessman, Christian,  ‘Not Quite Human: Artificial Intelligence, Animals, and the Regulation of Sentient Property’ SSRN Electronic Journal, ( California, January 2018), < https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3200802 > truy cập ngày 11/11/2024. [29] Patrick Lin, George Bekey, Keith Abney, and Ryan Jenkins (Biên tập) , Robot Ethics 2.0 (Nhà xuất bản Oxford University Press 2017), trang 72. [30] Florian Martin-Bariteau, Teresa Scassa, Artificial Intelligence and the Law in Canada , (Nhà xuất bản LexisNexis 2021),   trang 13. [31] Frits Willem Hondius, Emerging Data Protection in Europe (Nhà xuất bản North-Holland Publishing Company 1975), trang 88. [32] D'Agostino, Giuseppina; Gaon, Aviv; Piovesan, Carole (Biên tập), Leading Legal Disruption : Artificial Intelligence and a Toolkit for Lawyers and the Law (Nhà xuất bản Éditions Yvon Blais 2021), trang 170-176. [33] Paulius  Cerka,  Jurgita  Grigiene,  Gintare Sirbikyt, ‘Liability  for  damages caused by artificial intelligence’, [2015] 31 Computer Law & Security Review, trang 376-389. [34] Paulius  Cerka,  Jurgita  Grigiene,  Gintare Sirbikyt, ‘Liability  for  damages caused by artificial intelligence’, [2015] 31 Computer Law & Security Review, trang 376-389. [35] Andrea Bertolini, ‘Artificial Intelligence and Civil Liability’ [2020], Policy Department for Citizens' Rights and Constitutional Affairs European Parliament, trang 36. [36] John Stewart Gordon, ‘Artificial moral and legal personhood’ [2021] Volume 36, Issue 2, AI & SOCIETY, trang 457–471. [37] Karolina Ziemianin,  ‘ Civil legal personality of artificial intelligence. Future or utopia?’ [2021] 10(2) Internet Policy Review, trang 18. [38] A. Austin, ’Product Liability in the AI age’ < https://www.freshfields.com/en-gb/our-thinking/campaigns/technolo- gy-quotient/regulation-and-platforms/artificial-intelligence/product-liability-in-the-ai-age/?> truy cập ngày 15/11/2024. [39] Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo (quyển II - Nghĩa vụ và khế ước), Nxb Sài Gòn, Sài Gòn, trang 481. [40] United States Restatement (Third) Of Torts: Product Liability §2(b) (1998) [Restatement] (which states that the manufacturer is liable for design defects ‘‘when the foreseeable risk of harm posed by the product could have been reduced or avoided by the adoption of a reasonable alternative design by the seller or other distributor, or a predecessor in the commercial chain of distribution, and the omission, of the alternative design renders the product not reasonably safe” as well as for its ‘‘inadequate instructions or warnings when the foreseeable risks of harm posed by the product could have been reduced or avoided by the provision of reasonable instructions or warnings by the seller or other distributor, or a predecessor in the commercial chain of distribution, and the omission of the instructions or warnings renders the product not reasonably safe”. A similar rule exists under EC, Product Liability Directive, supra note 15, art 7(b) and under the Swiss Product Liability Act (RS 221.112.944), art 5(b), amongst others, establishing the ‘‘development risk” defense that manufacturers are likely to raise in cases of AI’s unforeseeable actions. Under this defense, producers can escape liability if they can establish that, at the time the AI was put into circulation, they were not aware and could not have been aware of the risk which materialized. [41] Lê Minh Hùng, Nguyễn Thiện Tâm, ‘Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do trí tuệ nhân tạo gây ra’ [2023] Số 08 (168) Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, trang 16 – 19. [42] Bộ Luật Dân sự năm 2015, Khoản 1 Điều 584. [43] Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 586. [44] Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 597. [45] Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá năm 2007, Điều 59 – 63. [46] Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 584 – Điều 608. [47] Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 597. [48] Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 600. [49] Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 601. [50] Nguyễn Văn Hợi, ‘Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam’ (Luận văn Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội 2017),  trang 17. [51] Heng Gao (2021). Analysis of Citizenship for AlI (Artificial Intelligence). Advances in Economics, Business and Management Research, vol 185: Proceedings of the 1st International Symposium on Innovative Management and Economics (ISIME 2021), Atlantis Press, trang 622-626; European Parliamentary Research Services (2020). The ethnics of Artificial Intelligence: Issues and nitiatives, European Union, Brussels, trang 18. [52] D'Agostino, Giuseppina; Gaon, Aviv; Piovesan, Carole (Biên tập), Leading Legal Disruption : Artificial Intelligence and a Toolkit for Lawyers and the Law (Nhà xuất bản Éditions Yvon Blais 2021), trang 170-171. [53] Hernández-Orallo, J. ‘Identifying Artificial Intelligence capabilities: What and how to test’ [2021], Volume 1:  Capabilities and Assessments, AI and the Future of Skills, OECD Publishing; Goertzel, Ben. ‘Artificial General Intelligence: Concept, State of the Art, and Future Prospects’ [2014] 5(1)  Journal of Artificial General Intelligence, Journal of Artificial General Intelligence, trang 1-46; Riedl, Mark. (2014). The Lovelace 2.0 Test of Artificial Creativity and Intelligence; Eagleman, David. (2023). A proposed test for human-level intelligence in AI; Rapaport, W. (2006). Turing Test. Encyclopedia of Language & Linguistics. [54] Maydanyk, Roman & Maidanyk, Nataliia & Velykanova, Maryna, ‘Liability for damage caused using artificial intelligence technologies’ [2021]  28(2) Journal of the National Academy of Legal Sciences of Ukraine, trang 152. [55] Maydanyk, Roman & Maidanyk, Nataliia & Velykanova, Maryna, ‘Liability for damage caused using artificial intelligence technologies’ [2021]  28(2) Journal of the National Academy of Legal Sciences of Ukraine, trang 152. [56] Velykanova, Maryna. ‘Artificial Intelligence: Legal Problems and Risks’ [2020], 27 Journal of the National Academy of Legal Sciences of Ukraine, trang 185-198.

  • [65] PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU) VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TRÍ TUỆ NHÂN TẠO GÂY RA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH LUẬT VIỆT NAM

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Nguyễn Ngọc Tâm[1], Nguyễn Diệu Linh[2], Trần Hiếu Minh[3] Tóm tắt:  Trong những năm gần đây, Trí tuệ Nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) đã có những bước phát triển vượt bậc, đóng góp tích cực cho nhiều lĩnh vực của xã hội. Vì AI là sản phẩm do con người tạo ra và vận hành, nó không thể tránh khỏi các sai sót kỹ thuật, từ đó tạo ra những thách thức pháp lý mới, đặc biệt là trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc ứng dụng công nghệ này. Liên minh châu Âu, với tư cách là một trong những khu vực đi đầu trong việc nghiên cứu và phát triển AI, đã có những nỗ lực ban hành các quy định pháp lý nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm pháp lý liên quan đến AI. Trên cơ sở phân tích một số vấn đề cơ bản liên quan đến AI và chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý, bài viết sẽ tập trung nghiên cứu khung pháp lý của Liên minh châu Âu về việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do AI gây ra, từ đó đề xuất một số kiến nghị pháp lý phù hợp cho Việt Nam.  Từ khóa: Trí tuệ nhân tạo, thiệt hại do trí tuệ nhân tạo gây ra, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, bồi thường thiệt hại, pháp luật Liên minh châu Âu.  1. Dẫn nhập  Sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) đã đặt ra nhiều thách thức pháp lý, đặc biệt trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) do AI gây ra. Tại Liên minh châu Âu (EU), vấn đề này đã và đang được chú trọng để đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại và tạo hành lang pháp lý rõ ràng để AI phát triển an toàn, hiệu quả. Điển hình nhất là Nghị quyết của Nghị viện châu Âu ngày 16 tháng 2 năm 2017 với các khuyến nghị gửi đến Ủy ban về Quy tắc Luật Dân sự liên quan đến rô-bốt, hai dự thảo Chỉ thị vào năm 2022 về trách nhiệm dân sự ngoài Hợp đồng đối với AI (AI Liability Directive - AILD) và Chỉ thị về trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm bị lỗi (Product Liability Directive - PLD). Gần đây nhất, vào ngày 10 tháng 10 năm 2024, EU cũng vừa thông qua Chỉ thị mới về trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm bị lỗi, cụ thể hóa về vấn đề trách nhiệm bồi thường khi AI gây ra thiệt hại. Việt Nam cũng đang đối mặt với vấn đề này, song pháp luật hiện vẫn chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm BTTH do AI gây ra. Vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật từ EU để định hướng điều chỉnh phù hợp cho Việt Nam là một nhiệm vụ cấp thiết, góp phần đảm bảo công bằng xã hội và khuyến khích sáng tạo công nghệ. 2. Một số vấn đề cơ bản về Trí tuệ nhân tạo (AI) và chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) gây ra bởi AI  2.1. Khái niệm về Trí tuệ nhân tạo (AI) Sự phát triển nhanh chóng AI   đã dẫn đến sự xuất hiện của nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ này, được đưa ra bởi các tổ chức và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực.[4] Một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm xác định khả năng tư duy của máy móc là Turing Test do Alan Turing đề xuất vào năm 1950, với câu hỏi cơ bản: “Liệu máy móc có thể suy nghĩ không?”.[5] Từ nền tảng đó, định nghĩa AI lần đầu được sử dụng bởi John McCarthy vào năm 1956, khi ông tổ chức Hội nghị Dartmouth – được coi là nơi khai sinh của lĩnh vực AI,[6] cụ thể: “Trí tuệ nhân tạo là khoa học và kỹ thuật về việc tạo ra các máy móc thông minh.”[7] Dựa trên các định nghĩa trước đó, vào năm 1991, định nghĩa AI được đưa ra như sau: “Nghiên cứu cách làm cho máy tính thực hiện những việc mà hiện tại con người làm tốt hơn.”[8] Định nghĩa này nhấn mạnh việc mô phỏng các hành vi tương đồng với con người của máy móc. Bên cạnh đó, một trong những định nghĩa AI gần đây nhất được đề cập bởi Ủy ban châu Âu vào năm 2019, theo đó AI nhìn chung là các hệ thống do con người thiết kế, có khả năng thực hiện nhiệm vụ phức tạp thông qua nhận biết môi trường, phân tích dữ liệu, lập luận, quyết định hành động để đạt mục tiêu, đồng thời có thể tự học hỏi và điều chỉnh hành vi, với phạm vi bao gồm các lĩnh vực như học máy, lập luận máy, và rô-bốt học.[9] Như vậy, sau hơn nửa thế kỷ, định nghĩa của AI đã được phát triển mở rộng và chi tiết hơn, từ một khái niệm đơn giản về “máy móc thông minh”, AI đã phát triển thành một hệ thống phức tạp và đa dạng hơn nhiều, với khả năng tự học hỏi, thích nghi trong nhiều môi trường và ra quyết định. 2.2. Vấn đề pháp lý về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do AI gây ra  Với sự phát triển mạnh mẽ của AI và mức độ tự chủ của AI ngày càng tăng cao, vấn đề xác định chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do AI gây ra đang trở thành thách thức pháp lý phức tạp. Những sản phẩm của AI với khả năng “học máy” (machine learning[10]) và “học sâu” (deep learning[11]) có thể giúp AI học từ dữ liệu mới và tự cải thiện hiệu suất theo thời gian, nhưng điều này cũng làm tăng nguy cơ AI có thể tự đưa ra các quyết định gây thiệt hại ngoài ý muốn mà không có sự giám sát hoặc trách nhiệm rõ ràng.[12] Một ví dụ là vào năm 2017, một rô-bốt đã được thông qua chốt kiểm soát an toàn, tiến vào khu vực trái phép và nghiền nát đầu của một nhân viên.[13] Hay mới đây, vụ tai nạn chết người thứ hai tại Mỹ liên quan đến công nghệ xe tự lái của Tesla lại xảy ra.[14] Khi AI gây ra thiệt hại, câu hỏi về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH trở nên phức tạp vì vấn đề liệu có nên coi AI như chủ thể của pháp luật không còn đặt ra nhiều tranh cãi, trong đó có 3 cách tiếp cận chính: (1) xem AI như một đối tượng của quan hệ dân sự, phải chịu chế độ pháp lý đối với vật; (2) xem AI như một chủ thể của quan hệ dân sự, có quyền, nghĩa vụ và khả năng hành động độc lập; (3) vừa có thể là chủ thể, vừa là đối tượng trong quan hệ dân sự.[15] Quan điểm phổ biến theo các chuyên gia hiện nay là không cần thiết để công nhận AI như một chủ thể pháp lý,[16] thay vào đó, họ cho rằng nên chọn coi AI là đối tượng của quan hệ dân sự và quy trách nhiệm pháp lý cho nhà sản xuất, người sở hữu và các bên liên quan khác.[17] Với cách tiếp cận này, chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do AI gây ra sẽ thuộc về nhà sản xuất, người sở hữu AI và các bên thứ ba khác.[18] Tuy nhiên, hệ thống AI được đặc trưng bởi chuỗi giá trị phức tạp với nhiều bên liên quan khác nhau, khiến việc xác định ai trong chuỗi giá trị này phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại do AI gây ra và trong các trường hợp cụ thể nào trở nên khó khăn.[19] Tai nạn có thể xảy ra do lỗi từ người cung cấp hoặc huấn luyện dữ liệu cho AI, và trong những trường hợp này, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có thể được xem xét.[20] Dù vậy, việc đạt được bồi thường đầy đủ là rất khó, vì nạn nhân khó chứng minh thiệt hại do lỗi dữ liệu, nhất là khi họ là người dùng cuối hoặc bên thứ ba.[21] 3. Khung pháp lý điều chỉnh chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do AI gây ra ở Liên minh châu Âu   3.1. Nghị quyết của Nghị viện châu Âu ngày 16 tháng 2 năm 2017 với các khuyến nghị gửi đến Ủy ban về Quy tắc Luật Dân sự liên quan đến rô-bốt. Nghị quyết của Nghị viện châu Âu ngày 16 tháng 2 năm 2017 với các khuyến nghị gửi đến Ủy ban về Quy tắc Luật Dân sự liên quan đến rô-bốt đã mở ra một hướng đi mới trong việc xác định trách nhiệm BTTH do AI gây ra.[22] Nghị quyết này đã lần đầu tiên đưa ra một trạng thái pháp lý (“legal status”) cho AI. Căn cứ theo khoản f Điều 59 của Nghị quyết, về lâu dài, Nghị viện châu Âu đã khuyến nghị tạo ra một trạng thái pháp lý cụ thể cho các rô-bốt tự động phức tạp như là các “cá nhân điện tử” (“electronic person”) với các quyền và nghĩa vụ cụ thể.[23] Tình trạng pháp lý này sẽ được áp dụng cho các trường hợp rô-bốt có năng lực đưa ra quyết định tự chủ và có khả năng tương tác với bên thứ ba một cách độc lập.[24]  Nghị quyết cũng quy định rằng, trong trường hợp có thiệt hại do AI gây ra, hành vi của AI sẽ được truy ngược lại đến một chủ thể con người cụ thể, có thể là nhà sản xuất, chủ sở hữu hoặc người sử dụng, nếu những chủ thể đó có thể đã dự đoán và có thể đã tránh được hành vi gây thiệt hại của AI.[25] Đặc biệt, chỉ có những thực thể AI hoạt động hoàn toàn tự chủ mới có thể được xem xét cho tư cách pháp lý này.[26] Đây là giải pháp hợp lý nhằm đối phó với sự phát triển vượt bậc của công nghệ AI, đồng thời giải quyết các vấn đề về sở hữu trí tuệ do AI gây ra.[27]  Đối với trách nhiệm pháp lý khi AI gây ra thiệt hại, Nghị quyết cũng lưu ý rằng pháp luật trong tương lai “cần phải dựa trên một đánh giá toàn diện để xác định xem liệu có nên áp dụng chế độ trách nhiệm tuyệt đối (Strict Liability[28]) hay phương pháp quản lý rủi ro (Risk Management Approach[29]). Ngoài ra, Nghị quyết còn đề xuất giải pháp bảo hiểm bắt buộc và quỹ bồi thường bắt buộc, áp đặt lên chủ sở hữu và nhà sản xuất để phân bổ trách nhiệm BTTH do rô-bốt gây ra.[30] Tuy nhiên, việc cấp trạng thái pháp lý này cũng gây nên nhiều tranh cãi. Thứ nhất, việc xem xét AI như một thực thể pháp lý độc lập đặt ra thách thức lớn về trách nhiệm pháp lý trong trường hợp AI gây thiệt hại mà không thể truy ngược nguyên nhân về một tác nhân con người cụ thể.[31] Thứ hai, tư cách "cá nhân điện tử" không chỉ tạo ra rủi ro làm mờ ranh giới trách nhiệm giữa con người và máy móc mà còn có thể dẫn đến tình trạng lạm dụng tư cách pháp lý của AI để né tránh trách nhiệm bồi thường.[32] Thứ ba, từ góc độ pháp lý, việc công nhận robot thông minh là một chủ thể không phù hợp với cấu trúc và nguyên tắc của hệ thống pháp luật hiện tại, vốn chỉ ghi nhận cá nhân và pháp nhân.[33] Thay vào đó, pháp luật nên tập trung cải thiện hệ thống pháp luật, bao gồm các cơ chế bồi thường và bảo hiểm để giải quyết vấn đề thiệt hại do AI gây ra.[34] 3.2.  Sự ra đời của Đạo luật AI 2024 và hai Dự thảo chỉ thị ngày 28/09/2022 về trách nhiệm dân sự ngoài Hợp đồng đối với Trí tuệ Nhân tạo (AI Liability Directive - AILD) và Chỉ thị về trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm bị lỗi (Product Liability Directive - PLD)  Đạo luật AI được Nghị viện châu Âu thông qua vào tháng 3 năm 2024 và được Hội đồng phê duyệt vào tháng 5 năm 2024, là luật toàn diện đầu tiên điều chỉnh AI trên thế giới. Tuy không trực tiếp điều chỉnh vấn đề xác định trách nhiệm pháp lý đối với các thiệt hại do AI gây ra, Đạo luật AI đã đưa ra các yêu cầu và nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo an toàn và ngăn ngừa thiệt hại liên quan đến hệ thống AI.[35] Để bổ sung thêm những quy định cụ thể hơn cho dự thảo Đạo luật AI[36] cũng như khắc phục những hạn chế của chỉ thị 85/374/EEC[37],  EU đã chính thức trình bày hai dự thảo C hỉ thị vào năm 2022, đó là Chỉ thị về trách nhiệm dân sự ngoài Hợp đồng đối với Trí tuệ Nhân tạo ( Dự thảo AILD 2022[38]) và Chỉ thị về trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm bị lỗi ( Dự thảo PLD 2022[39]). Tuy nhiên, với bản chất phức tạp và khó tiếp cận (hiệu ứng “hộp đen[40]”) các hệ thống AI rủi ro cao gây ra nhiều trở ngại trong việc yêu cầu BTTH. Cả hai Dự thảo đều nhằm giải quyết vấn đề này, nhưng theo cách tiếp cận khác nhau: Dự thảo AILD 2022 dựa trên trách nhiệm do lỗi,[41] trong khi Dự thảo PLD 2022 áp dụng trách nhiệm nghiêm ngặt đối với sản phẩm lỗi.[42] Thứ nhất, Điều 3(1) của Dự thảo AILD 2022 quy định rằng các Tòa án quốc gia thành viên có quyền yêu cầu nhà cung cấp hoặc người sử dụng AI có rủi ro cao cung cấp thông tin về đặc điểm kỹ thuật của hệ thống khi nguyên đơn khiếu nại thiệt hại. Đặc biệt, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng sẽ được phát sinh nếu nguyên đơn chứng minh được “giả định về mối quan hệ nhân quả” khi đáp ứng đủ các yếu tố (i) lỗi vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, (ii) tính hợp lý cho thấy lỗi ảnh hưởng đến kết quả, (iii)   thiệt hại.[43] Sự đổi mới này giúp cho việc chứng minh vi phạm pháp lý (burden of proof) trở nên dễ dàng hơn, khi nghĩa vụ chứng minh rơi vào phía nhà sáng lập (hoặc công ty chủ quản) của sản phẩm công nghệ tích hợp AI.[44] Thứ hai, Dự thảo PLD 2022 sửa đổi mở rộng phạm vi trách nhiệm của các sản phẩm lỗi sang cả phần mềm và hệ thống AI. Căn cứ theo Điều 1(1) Dự thảo PLD 2022, chỉ thị quy định về trách nhiệm nghiêm ngặt ngoài hợp đồng, cho phép người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường mà không cần chứng minh lỗi hay quan hệ hợp đồng trước đó với nhà sản xuất. Chỉ thị cũng yêu cầu các nhà sản xuất cung cấp chứng cứ khi có yêu cầu bồi thường, giúp giảm bớt gánh nặng chứng minh cho người tiêu dùng cho người tiêu dùng.[45] Phiên bản sửa đổi này đã mở rộng phạm vi trách nhiệm sang phần mềm và hệ thống AI, trong khi chỉ thị số 85/374/EEC chủ yếu tập trung vào hàng hóa vật lý.[46] Như vậy, Đạo luật AI tập trung vào an toàn và ngăn ngừa rủi ro liên quan đến các hệ thống AI. Trong khi đó, PLD và AILD cung cấp các cơ chế bồi thường khác nhau nhưng có phần chồng lấn khi xảy ra thiệt hại do AI gây ra. Cả ba luật này được thiết kế để kết hợp thành một mô hình ba bên thống nhất, bổ trợ giữa ba văn bản này không chỉ làm rõ vai trò và nghĩa vụ của các chủ thể trong chuỗi cung ứng mà còn bảo vệ quyền lợi cho người bị thiệt hại trong bối cảnh công nghệ AI ngày càng phức tạp.[47] 3.3. Chỉ thị về Trách nhiệm sản phẩm của Hội đồng châu Âu ngày 10/10/2024[48] Hội đồng châu Âu mới đây đã thông qua Chỉ thị mới về Trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm vào ngày 10 tháng 10 năm 2024.[49] Chỉ thị này thay thế khung pháp lý về Trách nhiệm Sản phẩm của EU được thiết lập vào năm 1985 (PLD 1985),[50]  khung pháp lý trước đây nhằm bảo vệ người tiêu dùng bằng cách đưa ra khái niệm về Trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt (Strict Liability), theo đó nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về khuyết tật của sản phẩm, bất kể họ có lỗi hay không.[51] Sau gần 40 năm tồn tại, PLD 1985 sẽ bị thay thế bởi PLD 2024 để phù hợp với sự phát triển liên quan đến công nghệ mới, bao gồm AI, các mô hình kinh doanh kinh tế tuần hoàn mới và chuỗi cung ứng toàn cầu mới.[52] Về vấn đề chủ thể, Điều 8 của PLD 2024 đã mở rộng phạm vi chủ thể chịu trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm, các tổ chức kinh tế (Economic operators) chịu trách nhiệm, bao gồm:  Thứ nhất,  nhà sản xuất sẽ chịu trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm, bao gồm cả nhà sản xuất của một linh kiện bị lỗi (khi linh kiện đó đã được tích hợp hoặc kết nối với sản phẩm).[53] Bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào có sự thay đổi đáng kể đối với một sản phẩm đã được đưa ra thị trường hoặc đưa vào sử dụng giờ đây cũng được coi là nhà sản xuất.[54] Thứ hai , nhà nhập khẩu của sản phẩm hoặc linh kiện bị lỗi và đại diện ủy quyền của nhà sản xuất[55] cũng có thể bị quy trách nhiệm trong trường hợp nhà sản xuất thành lập ngoài EU.[56] Nếu cả nhà nhập khẩu lẫn đại diện ủy quyền của nhà sản xuất không đặt tại EU, thì nhà cung cấp dịch vụ hoàn thiện[57] cũng có thể bị chịu trách nhiệm BTTH.[58] Ngoài ra, các nhà cung cấp dịch vụ của nền tảng trực tuyến cũng có thể chịu trách nhiệm trong một số điều kiện nhất.[59] Như vậy, trong khi trách nhiệm sản phẩm trước đây chỉ áp dụng cho nhà sản xuất, nhà nhập khẩu sản phẩm vào EU và trong một số điều kiện nhất định đối với nhà cung cấp sản phẩm,[60] phạm vi trách nhiệm của PLD mới đã mở rộng đáng kể tới các thành phần khác trong chuỗi cung ứng.[61] Ngoài ra, PLD mới của EU giữ nguyên quy định miễn trừ trách nhiệm nếu lỗi không tồn tại khi sản phẩm được lưu thông, đồng thời bổ sung ngoại lệ khi lỗi liên quan đến dịch vụ, phần mềm, hoặc cập nhật cần thiết do nhà sản xuất kiểm soát,[62] làm tăng trách nhiệm cho nhà sản xuất ngay cả khi lỗi phát sinh sau khi sản phẩm đã ra thị trường. Chỉ thị cũng đưa ra những quy định mới cho phép áp dụng giả định về khuyết tật của sản phẩm.[63] Quy định này giúp giảm bớt nghĩa vụ chứng minh trước kia thường đặt lên người tiêu dùng,[64] chuyển một phần gánh nặng chứng minh sang nhà sản xuất và các bên chịu trách nhiệm khác,[65] qua đó giúp người tiêu dùng dễ dàng hơn trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại hợp lý. Có thể thấy, EU đã có hướng đi tiến bộ khi quy trách nhiệm pháp lý cho con người, cơ sở lý luận vẫn dựa trên chế độ trách nhiệm đối với sản phẩm tuy nhiên đã có những dự thảo nhằm giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh lỗi cho người bị thiệt hại. Đây là một cách tiếp cận vừa thể hiện sự thận trọng phù hợp với các cấp độ phát triển của trí tuệ nhân tạo trong giai đoạn hiện nay nhưng cũng vừa thể hiện yếu tố tiến bộ và cởi mở, tích hợp được những tiến bộ khoa học công nghệ vào vấn đề hoạch định chính sách.[66] 4. Quy định của pháp luật Việt Nam về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do AI gây ra 4.1. Pháp luật Việt Nam về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH gây ra bởi trí tuệ nhân tạo  Cho đến thời điểm hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa có một bộ luật riêng điều chỉnh các vấn đề pháp lý phát sinh từ AI. Tuy nhiên, các quy định hiện hành có thể áp dụng để xác định chủ thể chịu trách nhiệm BTTH từ sản phẩm AI bằng các quy định về trách nhiệm sản phẩm. Trách nhiệm sản phẩm là một dạng trách nhiệm dân sự, theo đó thiệt hại xảy ra phải được bù đắp dựa trên căn cứ pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng hoặc do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.[67] Đối với thiệt hại trong hợp đồng, việc BTTH sẽ được tiến hành theo quy định của hợp đồng. Chế định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được ghi nhận tại Bộ Luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 (Luật BVQLNTD 2023). Tại BLDS 2015, khoản 3 Điều 584 quy định chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm BTTH đối với thiệt hại gây ra bởi tài sản. Nếu tài sản có độ nguy hiểm cao thì chủ sở hữu của các tài sản phải có trách nhiệm BTTH ngay cả khi không có lỗi, chẳng hạn như quy định từ Điều 601 đến Điều 605 BLDS về nguồn nguy hiểm cao độ và các trường hợp đặc biệt (ô nhiễm môi trường, do nhà cửa, súc vật gây ra).[68]  Cũng liên quan đến trách nhiệm sản phẩm, Luật BVQLNTD là văn bản quy định trực tiếp về cơ chế bảo vệ quyền lợi người bị thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra.[69] Điều 608 BLDS 2015 nêu rõ: “Cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.” Luật BVQLNTD quy định rằng tổ chức, cá nhân có trách nhiệm BTTH do khuyết tật của sản phẩm, hàng hóa bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, đơn vị trung gian, nhà cung cấp trực tiếp và các bên khác có trách nhiệm theo quy định pháp luật.[70] 4.2. Khó khăn trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do AI gây ra Nhìn chung, có thể thấy các quy định của BLDS năm 2015 cùng các văn bản pháp lý khác về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và về chất lượng sản phẩm hàng hóa đều có những quy định bước đầu về chủ thể BTTH. Tuy nhiên, những quy định này chỉ đưa ra những nguyên tắc chung về BTTH, dù có thể áp dụng một phần, vẫn còn nhiều hạn chế trong việc xác định chủ thể đối với thiệt hại do AI gây ra. Thứ nhất , các quy định về trách nhiệm BTTH theo BLDS chỉ đề cập đến hành vi của con người, pháp nhân và một số trường hợp nhất định mà chưa áp dụng được cho hệ thống AI, vốn không phải là một chủ thể pháp lý. Các quy định này cũng chưa đề cập rõ ràng đến các tình huống phức tạp mà AI gây ra. Thứ hai , về khó khăn trong việc xác định chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản đối với sản phẩm AI. Nếu sản phẩm mang AI được xem là một loại tài sản, ví dụ như rô-bốt[71] thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng sẽ được giải quyết theo hướng chủ sở hữu của AI sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra.[72] Tuy nhiên, quy định này chưa thực sự phù hợp vì có khả năng sẽ bỏ sót các chủ thể khác liên quan đến AI nhưng không phải chủ sở hữu và cũng không phải người chiếm hữu chúng trên thực đó, đó chính là người sử dụng AI.[73] Đồng thời, không chỉ chủ sở hữu, các doanh nghiệp Việt Nam, được coi là những người sử dụng AI, cũng đang dần tiếp nhận tư duy vì cộng động và sẵn sàng bồi thường nếu có thiệt hại. Ngoài ra, khi xem xét kỹ yếu tố thứ tư về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng,[74] rằng phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây thiệt hại, có thể thấy rằng bên chủ thể sử dụng AI trong từng trường hợp cụ thể phát sinh lỗi dù cố ý hay vô ý đều phải chịu trách nhiệm liên đới với các bên liên quan như chủ sở hữu, nhà sản xuất. Do đó, dù trách nhiệm có thể nói là thuộc về con người, song khó có thể xác định chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật là thuộc về bên sử dụng hay đó là lỗi thuộc về nhà sản xuất, chủ sở hữu hay bất kể là bên thứ ba nào khác.[75] Thứ ba , về chủ thể sử dụng AI không vì mục đích thương mại. Do đối tượng điều chỉnh của Luật BVQLNTD chỉ bao gồm tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh,[76] vì thế, nếu một chủ thể sử dụng AI gây thiệt hại cho người khác mà không thực hiện hành vi kinh doanh hoặc không vì mục đích thương mại, thì họ có thể không phải bồi thường.[77] 5. Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam  Bên cạnh việc tập trung vào phát triển công nghệ AI, Việt Nam cần ban hành các quy định pháp luật cụ thể hơn để xác định rõ trách nhiệm BTTH liên quan đến AI để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng. Từ việc phân tích các quy định pháp luật của EU về vấn đề này, nhóm tác giả đã rút ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do AI gây ra như sau:  Thứ nhất , khi xây dựng các quy định liên quan đến chủ thể chịu trách nhiệm BTTH, có thể tham khảo quan điểm từ Nghị quyết ngày 16/02/2017 của Nghị viện châu Âu,[78] rằng, “ít nhất ở thời điểm hiện tại, trách nhiệm pháp lý vẫn nên thuộc về con người”. Các chủ thể này bao gồm nhà sản xuất, chủ sở hữu AI, người chiếm hữu hợp pháp hoặc trái phép hệ thống AI, và các thực thể mang AI. Quy định này phải xét đến trách nhiệm liên đới và không liên đới giữa các chủ thể để đảm bảo tính toàn diện, minh bạch và công bằng.[79] Bên cạnh đó, cũng cần nhận thức rằng người dân và doanh nghiệp Việt Nam sẽ cần một khoảng thời gian nhất định để thích nghi với khái niệm trách nhiệm liên đới này.  Thứ hai , Việt Nam cần xem xét sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm BTTH theo hướng giảm bớt gánh nặng chứng minh lỗi cho người dùng với tư cách người bị thiệt hại.  Có thể tham khảo áp dụng “trách nhiệm nghiêm ngặt” (Strict Liability) đối với các công nghệ có nguy cơ cao, trong đó không yêu cầu người bị thiệt hại phải chứng minh lỗi của nhà sản xuất hay chủ sở hữu AI.  Thứ ba , khi AI gây ra thiệt hại, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể yêu cầu các nhà sản xuất và các chủ thể liên quan phải cung cấp thông tin minh bạch về hoạt động của hệ thống AI,[80] bằng cách tham khảo Đạo luật AI của EU[81], bao gồm các yếu tố liên quan đến cách thức vận hành, quy trình ra quyết định của AI, cũng như các tiêu chuẩn an toàn mà hệ thống AI đã được kiểm tra. Việc yêu cầu cung cấp thông tin này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong việc đánh giá và xử lý các khiếu nại, giúp giảm bớt khó khăn cho người tiêu dùng trong việc thu thập chứng cứ khi xảy ra thiệt hại. Thứ tư , Việt Nam có thể cân nhắc tham khảo việc cấp tư cách pháp lý "cá nhân điện tử" cho AI, coi nó là một chủ thể độc lập và xây dựng khung pháp lý riêng để điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan. Mặc dù quy định này của châu Âu không hoàn toàn được ủng hộ, ý kiến của nhóm tác giả cho rằng việc trao tư cách pháp lý độc lập cho AI là hợp lý do viễn cảnh AI tự mình tham gia vào các quan hệ xã hội là có thể xảy ra. Tuy nhiên, tư cách chủ thể này chỉ nên trao cho các AI có khả năng độc lập với tính tự chủ cao. Điều này dẫn đến sự cần thiết để Nhà nước xây dựng tiêu chuẩn đánh giá năng lực riêng, qua quá trình quan sát và tham khảo ý kiến chuyên gia. Khi được công nhận, AI sẽ là chủ thể pháp lý, nhưng quyền và nghĩa vụ của nó sẽ bị giới hạn theo khả năng tham gia độc lập vào quan hệ xã hội, do thiếu nhận thức và tư duy như con người hoặc pháp nhân.[82] Kết luận  Với vai trò tiên phong trong lĩnh vực công nghệ và pháp lý, EU đã triển khai các quy định pháp lý tiên tiến để quản lý vấn đề trách nhiệm BTTH do AI gây ra. Các quy định của EU, trong đó trách nhiệm chủ yếu thuộc về con người, không chỉ bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại mà còn thúc đẩy các nhà phát triển, nhà cung cấp và người sử dụng AI tuân thủ các tiêu chuẩn minh bạch, an toàn và có trách nhiệm. Trong bối cảnh AI ngày càng phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa bảo vệ quyền lợi của các cá nhân và tổ chức. Đây là bước đi quan trọng để hội nhập quốc tế và phát triển bền vững trong thời đại số hóa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Ngọc Tâm, Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2] Nguyễn Diệu Linh, Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [3] Trần Hiếu Minh, Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [4] Finocchiaro, G., ‘The Regulation of Artificial Intelligence’ [2024] 39 AI & SOCIETY 1961, trang 1961. [5] Stuart Russell and Peter Norvig, Artificial Intelligence: A Modern Approach (Tái bản lần thứ 4, Nhà xuất bản Pearson 2021), trang 2. [6] OECD, ‘Artificial Intelligence in Society’ (Nhà xuất bản OECD Publishing 2019) < https://doi.org/10.1787/eedfee77-en > truy cập ngày 02/11/2024, trang 20. [7] S L Andresen, ‘John McCarthy: Father of AI’ [2002] 17 IEEE Intell SSyst 84, trang 84. [8] Rich E and Knight K, Artificial Intelligence (Tái bản lần thứ 2, Nhà xuất bản McGraw-Hill 1991), trang 1. [9] AI được định nghĩa như sau: “Trí tuệ nhân tạo (AI) đề cập đến các hệ thống được con người thiết kế, có khả năng thực hiện các nhiệm vụ trong thế giới vật lý hoặc kỹ thuật số nhằm đạt được một mục tiêu phức tạp nhất định. AI hoạt động bằng cách nhận biết môi trường xung quanh, diễn giải các dữ liệu có cấu trúc hoặc phi cấu trúc thu thập được, lập luận dựa trên tri thức từ các dữ liệu này và quyết định hành động tốt nhất cần thực hiện (theo các thông số được xác định trước) để đạt được mục tiêu đã đề ra. Các hệ thống AI cũng có thể được thiết kế để học hỏi và điều chỉnh hành vi của chúng bằng cách phân tích tác động của các hành động trước đó lên môi trường.  Là một lĩnh vực khoa học, AI bao gồm nhiều phương pháp và kỹ thuật khác nhau như học máy (với các ví dụ cụ thể là học sâu và học củng cố), lập luận máy (bao gồm lập kế hoạch, lập lịch, biểu diễn tri thức và lập luận, tìm kiếm và tối ưu hóa), và robot học (bao gồm kiểm soát, nhận thức, cảm biến và cơ cấu chấp hành, cũng như tích hợp tất cả các kỹ thuật khác vào các hệ thống không gian mạng vật lý).” Xem thêm tại: High-Level Expert Group on Artificial Intelligence, ‘A definition of AI: Main capabilities and scientific disciplines’, (European Commission, 7 May 2018) < https://ec.europa.eu/newsroom/dae/document.cfm?doc_idz > truy cập ngày 01/11/2024, trang 7.  [10] “Học máy là một nhánh của trí tuệ nhân tạo (AI) giúp máy tính có khả năng học hỏi mà không cần được lập trình một cách rõ ràng. Học máy tập trung vào việc phát triển các chương trình máy tính có khả năng tự dạy mình, phát triển và thay đổi khi tiếp xúc với dữ liệu mới.” Xem thêm tại: ‘Machine learning’ (TechTarget) < http://whatis.techtarget.com/definition/machine-learning > truy cập ngày 10/11/2024.  [11] “Học sâu là một phương thức trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), được sử dụng để dạy máy tính xử lý dữ liệu theo cách được lấy cảm hứng từ bộ não con người” Xem thêm tại: AWS, What is Deep Learning? < https://aws.amazon.com/what-is/deep-learning/ > truy cập ngày 10/11/2024. [12] Ahmad, S.F., Han, H., Alam, M.M. et al. ‘Impact of artificial intelligence on human loss in decision making, laziness and safety in education.’ Humanit Soc Sci Commun 10, 311 [2023] < https://doi.org/10.1057/s41599-023-01787-8 > truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2024. [13] Conner Forrest, ‘Robot kills worker on assembly line, raising concerns about human-ro- bot collaboration’, Tech Republic, (2017) < https://www.techrepublic.com/article/robot-kills-worker-on-assembly-line-raising-concerns-about-human-robot-collaboration/ > truy cập ngày 14/11/2024. [14] Reuters, ‘Tesla car that killed Settle motorcyclist was in ‘Full Self-Driving’ mode, police say’, (CNN Business, 2024) < https://edition.cnn.com/2024/07/31/tech/tesla-full-self-driving-mode-seattle-motorcyclist-killed/index.html > truy cập ngày 10/11//2024. [15] Roman A. Maydanyk, Nataliia I. Maydanyk, Maryna M. Velykanova, ‘Liability for damage caused using Artificial intelligence technologies’, [2022], 150-159, trang 151, < https://www.researchgate.net/publication/353488165_Liability_for_damage_caused_using_artificial_intelligence_technologies >  \truy cập ngày 15/11/2024. [16][17][18][19] Antonia Rapti, ‘Liability Issues regarding Artificial Intelligence in a European and International context’, (Master’s thesis, Transnational ana European Commercial Law, Banking Law, Arbitration/Mediation). [20][21][30] EU Commission, ‘Safety and Liability Implications of Artificial Intelligence, the Internet of Things and Robotics’ (Report) COM (2020) 64 final < https://eur-lex.europa.eu/legal-content/en/TXT/?uri=CELEX%3A52020DC0064 > truy cập ngày 15/11/2024. [22][23][77] Nghị quyết của Nghị viện châu Âu ngày 16/02/2017 với các khuyến nghị gửi đến Ủy ban về Quy tắc Luật Dân sự liên quan đến rô-bốt (2015/2103(INL) (OJ C 252, 18/07/2018, p. 239) CELEX < https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CELEX:52017IP0051 > truy cập ngày 10/11/2024. [24][26] Giedrius Nemeiksis, ‘Artificial Intelligence as Legal Entity in the Civil Liability Context’ [2021] Journal of Turiba University 89-102, trang 95. [25] Xem thêm tại Chú thích số 21, phần “Liability”, đoạn AD; Xem thêm tại: Stanford University, Artificial Intelligence and Life in 2030 – One Hundred Year Study on Artificial Intelligence [2016] 46 < https://ai100.stanford.edu/2016-report > truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2024 (“Các tòa án có thể gán trách nhiệm pháp lý một cách tùy ý cho một cá nhân con người ngay cả khi trách nhiệm đó nên được đặt ở nơi khác vì lý do công bằng hoặc hiệu quả. Ngoài ra, các tòa án cũng có thể từ chối xác định trách nhiệm vì bị đơn trước tòa không dự đoán được và cũng không thể dự đoán được thiệt hại do AI gây ra.”).  [27] European Trade Union Institute, Artificial Intelligence: A Game Changer for Workers and Trade Unions (ETUI Foresight Brief 02, 2020) < https://www.etui.org/sites/default/files/Foresight_Brief_02_EN.pdf > truy cập ngày 01/11/2024. [28] ‘Trách nhiệm tuyệt đối chỉ yêu cầu chứng minh rằng thiệt hại đã xảy ra và xác định mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây hại của rô-bốt và thiệt hại mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu’. Xem thêm tại: Nghị quyết của Nghị viện châu Âu ngày 16/02/2017 với các khuyến nghị gửi đến Ủy ban về Quy tắc Luật Dân sự liên quan đến rô-bốt, phần Liability, đoạn 54.  [29] ‘Phương pháp quản lý rủi ro không nhấn mạnh vào việc xác định người "hành động thiếu cẩn trọng" để truy cứu trách nhiệm cá nhân, mà tập trung vào người có khả năng, trong những tình huống nhất định, giảm thiểu rủi ro và xử lý các tác động tiêu cực’ Xem thêm tại: Nghị quyết của Nghị viện châu Âu ngày 16/02/2017 với các khuyến nghị gửi đến Ủy ban về Quy tắc Luật Dân sự liên quan đến rô-bốt, phần Liability, đoạn 55.  [31] Nikos Th. Nikolinakos, Adapting the EU Civil Liability Regime to the Digital Age: Artificial Intelligence, Robotics, and Other Emerging Technologies, (Xuất bản lần 1, Springer Cham, 2024) trang 77.   [32] Giáo sư Noel Sharkey từ Đại học Sheffield, Anh, cho rằng việc cấp tư cách pháp lý cho rô-bốt giúp các nhà sản xuất né tránh trách nhiệm. Xem thêm tại: Philippe Fauquet-Alekhine, 'Can the Robot be Considered a Person? The European Perspective' [2022] Volume 23 [Issue 6] Advances in Research 100-105 < https://doi.org/10.9734/air/2022/v23i6924 > truy cập ngày 02/11/2024. [33] Open Letter to the European Commission: Artificial Intelligence and Robotics (2018) < http://www.robotics-openletter.eu > truy cập ngày 02/11/2024.  [34] Nathalie Nevejans, European civil law rules in robotics: Study (the Policy Department for “Citizens’ Rights and Constitutional Affairs” 2016) Executive summary. [35] Đạo luật AI (2024), Điều 16, 25. Xem thêm tại: Europeon Commission, ‘AI Act enters into force’, (2024) < https://commission.europa.eu/news/ai-act-enters-force-2024-08-01_en > truy cập ngày 11/11/2024. [36] Dự thảo Quy định của Nghị viện châu Âu và của Hội đồng về quản lý an toàn và trách nhiệm đối với các sản phẩm trí tuệ nhân tạo (2021), COM(2021) 206 final < https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=celex%3A52021PC0206 > truy cập ngày 10/11/2024. [37] Chỉ thị Hội đồng 85/374/EEC ngày 25/07/1985 về việc hài hòa các luật, quy định và các quy định hành chính của các quốc gia thành viên liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm có khuyết tật (1985/374/EEC), [1985] OJ L 210/29 < https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=celex%3A31985L0374 > truy cập ngày 11/11/2024. [38][41] Dự thảo Chỉ thị của Ủy ban châu Âu về việc điều chỉnh các quy tắc trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng đối với trí tuệ nhân tạo (2022) , COM(2022) 496 final, < https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CELEX%3A52022PC0496 > truy cập ngày 10/11/2024. [39][42] Dự thảo Chỉ thị của Nghị viện châu Âu và của Hội đồng về Trách nhiệm Pháp lý đối với Sản phẩm Có Khuyết Tật, (2022) , COM(2022) 495 final < https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CELEX%3A52022PC0495 > truy cập ngày 10/11/2024. [40] “​​Vấn đề "hộp đen" đề cập đến việc quá trình ra quyết định của một hệ thống AI không thể được quan sát hoặc đánh giá, cả trong khi nó đang thực hiện quyết định lẫn sau khi quyết định đã được đưa ra.” Xem thêm tại: Boell Foundation, ‘Artificial Intelligence (AI), Tort Law, and Network Theory: Who Should Be Held Liable When AI Causes Harm?’ (Heinrich Böll Stiftung, 24 December 2021) < https://il.boell.org/en/2021/12/24/artificial-intelligence-ai-tort-law-and-network-theory-who-should-be-held-liable-when-ai > truy cập ngày 10/11/2024. [42]Dự thảo AILD 2022, Điều 4(1). [43]Guido Noto La Diega, Leonardo C T Bezerra, 'Can There Be Responsible AI Without AI Liability? Incentivizing Generative AI Safety Through Ex-Post Tort Liability Under the EU AI Liability Directive' [2024] 32 IJLIT  eaae021 15  < https://doi.org/10.1093/ijlit/eaae021 > truy cập ngày 06/12/2024. [44] Dự thảo PLD 2022, Điều 8(b). [45] PLD 1985, Điều 2. [46] Simmons & Simmons, 'What is the new EU AI Liability Regime?', (2024),  < https://www.simmons-simmons.com/en/publications/cla2fpkgw5uj20a94oaegyszn/what-is-the-new-eu-ai-liability-regime >,  truy cập ngày 11/11/2024. [47] Chỉ thị của Nghị viện châu Âu và của Hội đồng về trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm có khuyết tật và bãi bỏ Chỉ thị 85/374/EEC của Hội đồng (2024), PE-7-2024-INIT,  < https://data.consilium.europa.eu/doc/document/PE-7-2024-INIT/en/pdf > truy cập ngày 10/11/2024. [48] Council of the European Union, 'EU brings product liability rules in line with digital age and circular economy' (Press release, 10//2024) < https://www.consilium.europa.eu/en/press/press-releases/2024/10/10/eu-brings-product-liability-rules-in-line-with-digital-age-and-circular-economy/ >  truy cập ngày 15/11/2024. [49] Xem thêm tại chú thích số 35, trang 29. [50] European Commission, ‘Report from the Commission to the European Parliament, the Council and the European Economic and Social Committee on the Application of the Council Directive on the approximation of the laws, regulations, and administrative provisions of the Member States concerning liability for defective products (85/374/EEC)’ ( European Union , 7/5/2018) < http://data.europa.eu/eli/dir/1985/374/oj > truy cập ngày 10/11/2024. [51] PLD 2024, đoạn 3. [52] PLD 2024, Điều 8.1. [53] PLD 2024, Điều 8.2. [54] Đại diện ủy quyền của nhà sản xuất được định nghĩa là bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào đặt tại Liên minh châu Âu và đã nhận được ủy nhiệm bằng văn bản từ nhà sản xuất để hành động thay mặt trong các nhiệm vụ cụ thể. Xem thêm tại: PLD 2024, Điều 4(11). [55] PLD 2024, Điều 8.1(c)(i), 8.1(c)(ii) . [56] Nhà cung cấp dịch vụ hoàn thiện bao gồm các bên thực hiện dịch vụ lưu kho, đóng gói, ghi địa chỉ và gửi hàng. Xem thêm tại: PLD 2024, Điều 4(13). [57] PLD 2024, Điều 8.1(c)(iii). [58] PLD 2024, Điều 8.4. [59] PLD 1985, Điều 3. [60] Bao gồm cả nền tảng trực tuyến và nhà cung cấp dịch vụ hoàn thiện. [61] PLD 2024, Điều 11. [62] PLD 2024, Điều 10(2). [63] Theo Điều 10(4) PLD 2024, sự giả định về khuyết tật sẽ được áp dụng khi, do sự phức tạp về kỹ thuật hoặc khoa học của sản phẩm, bên bị thiệt hại gặp khó khăn quá mức trong việc chứng minh sản phẩm bị lỗi và chứng minh rằng sản phẩm có khả năng bị lỗi. [64] PLD 2024, Điều 10(5) (“Bị đơn có quyền bác bỏ bất kỳ giả định nào được đề cập trong các khoản 2, 3 và 4”). [65] Nguyễn Thị Thu Vân, ‘Trách nhiệm pháp lý của trí tuệ nhân tạo - Kiến nghị về cách tiếp cận pháp luật của Việt Nam, [2023], < https://www.misa.vn/142919/trach-nhiem-phap-ly-cua-tri-tue-nhan-tao-kien-nghi-ve-cach-tiep-can-cua-phap-luat-viet-nam/ > truy cập ngày 10/11/2024. [66] Nguyễn Thị Quế Anh, Nguyễn Bích Thảo, ‘Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm: Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam’ [2020] 3 Tạp chí Khoa học: Luật học 37, trang  41. [67] Đỗ Giang Nam, Đào Trọng Khôi, ‘Pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trước thách thức của trí tuệ nhân tạo và công nghệ số mới nổi’ [2022] 20 Nghiên cứu lập pháp 3, trang 7,8. [68] Nguyễn Hữu Phúc, ‘Legal Requirements For Product Liability Under Eu Law – Legal Lessons For Vietnam’ [2017] 3 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng 139, trang 140. [69] Luật BVQLNTD 2023, khoản 2 Điều 34. [70] BLDS 2015,  Điều 105, 107. [71] Căn cứ theo Điều 584 BLDS 2015, trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường cho thiệt hại. [72] Đỗ Ngọc Bảo, ‘Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do trí tuệ nhân tạo gây ra – đạo luật trí tuệ nhân tạo Liên minh châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam’ (Giải thưởng Nhà nghiên cứu trẻ UEH 2024, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, 2024), trang 24 < https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/72373 > truy cập ngày 10/11/2024. [73] Căn cứ theo Điều 583 BLDS 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện (i) Có thiệt hại xảy ra, (ii) hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra và (iv) có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại. [74] “ Trong thời đại công nghệ 4.0 với sự lắp đặt rộng rãi của camera giám sát thì việc chứng minh hành vi có lỗi của bên sử dụng AI không phải là một vấn đề khó. Bên sử dụng AI là bên trực tiếp quản lý, điều chỉnh AI trong thời điểm gần nhất phát sinh thiệt hại nên bên sử dụng AI sẽ trở thành một trong những đối tượng mà các bên điều tra hành vi vi phạm xem xét đầu tiên để giải quyết hành vi gây thiệt hại này. Trường hợp bên khác lợi dụng khoảng thời gian bên sử dụng AI vắng mặt cố ý thay đổi các thuật toán trong bộ máy xử lý của AI khiến AI gây   ra thiệt hại, nếu không xác định được bên khác liệu bên sử dụng AI có phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ thiệt hại gây ra không? ”. Xem thêm tại Chú thích số 72, trang 25. [75] Luật BVQLNTD 2023, khoản 1 Điều 2. [76]Xem thêm tại chú thích số 71, trang 5. [78] Lưu Minh Sang, Trần Đức Thành, ‘Trí tuệ nhân tạo và thách thức pháp lý’ [2020] 8 Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt 20, trang 23. [79] Hoạt động của hệ thống AI bao gồm các yếu tố liên quan đến cách thức vận hành, quy trình ra quyết định của AI, cũng như các tiêu chuẩn an toàn mà hệ thống AI đã được kiểm tra. [80] Đạo luật AI 2024, Điều 9-17.  [81] Bùi Thị Hằng Nga, 'Xác lập tư cách pháp lý cho trí tuệ nhân tạo' ( Lapphap.vn , 2024)  < https://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210863 >  truy cập ngày 20/11/2024.

  • [60] TỔNG QUAN VỀ BẢO TỒN VÀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG ĐA DẠNG SINH HỌC BIỂN TẠI KHU VỰC NGOÀI QUYỀN TÀI PHÁN QUỐC GIA

    Tác giả: Hoàng Hải Vân, Kiều Thu Chang Tóm tắt: Vấn đề bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia vẫn đã và đang được thảo luận sôi nổi trong hơn hai thập kỷ vừa qua. Trong bối cảnh đại dương đang đối mặt với nhiều áp lực từ khai thác quá mức, ô nhiễm và biến đổi khí hậu, việc đảm bảo rằng các nguồn tài nguyên, vốn được coi là “di sản chung của nhân loại”, được chia sẻ công bằng nhưng vẫn duy trì được tính bền vững đã trở thành một mục tiêu cấp thiết. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) từng được xem là nền tảng pháp lý toàn diện cho quản trị đại dương. Tuy nhiên, khi các thách thức mới nảy sinh và những khoảng trống trong khuôn khổ pháp lý dần bộc lộ, cộng đồng quốc tế nhận ra sự cần thiết của một công cụ pháp lý mang tính cập nhật và cụ thể hơn – đó chính là Hiệp định về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia (gọi tắt là Hiệp định BBNJ). Bài viết này tập trung làm rõ các cơ sở pháp lý của UNCLOS và BBNJ, đồng thời có những đánh giá về khuôn khổ pháp lý hiện tại (BBNJ) và tác động tới thực tiễn tại Việt Nam.  Từ khóa:  đa dạng sinh học, UNCLOS, bảo tồn, ngoài quyền tài phán, BBNJ 1. Cơ sở pháp lý về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia  1.1. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) Trong bối cảnh tài nguyên sinh vật biển ngày càng bị khai thác quá mức, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) đã thiết lập một nền tảng pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm việc bảo tồn và khai thác bền vững các nguồn lợi sinh vật biển ở Biển cả (High sea)  và trong Vùng  (the Area) ngoài quyền tài phán quốc gia.   Thứ nhất, các Điều 117 - 119 trong UNCLOS yêu cầu các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác để bảo tồn tài nguyên sinh vật biển ở Biển cả. Điều 117 và 118 nhấn mạnh nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia thông qua các tổ chức khu vực hoặc toàn cầu nhằm để thiết lập và thực hiện các biện pháp bảo tồn hiệu quả.[1] Điều 119 tiếp tục củng cố nguyên tắc khai thác bền vững với các mục tiêu chính bao gồm: xác định và áp dụng các biện pháp khai thác hợp lý nhằm duy trì hoặc phục hồi các quần thể sinh vật biển đạt mức sản lượng bền vững tối đa (maximum sustainable yield) dựa trên cơ sở dữ liệu khoa học đáng tin cậy; bảo vệ các loài có liên quan hoặc phụ thuộc vào loài khai thác chính để tránh nguy cơ suy thoái hay tuyệt chủng; thúc đẩy hợp tác và chia sẻ thông tin khoa học giữa các quốc gia thông qua các tổ chức quốc tế chuyên ngành; và đảm bảo rằng mọi biện pháp bảo tồn đều được áp dụng một cách công bằng, không phân biệt đối xử đối với ngư dân của bất kỳ quốc gia nào.[2] Những quy định này thể hiện cam kết chung trong việc bảo vệ đại dương vì lợi ích của toàn nhân loại.  Thứ hai, UNCLOS cũng quy định rõ các nguyên tắc cơ bản nhằm đảm bảo rằng hoạt động tại “Vùng” phải phục vụ lợi ích chung của nhân loại (Điều 143 - 145). Điều 143 yêu cầu mọi hoạt động nghiên cứu khoa học trong Khu vực phải phục vụ mục đích hòa bình và lợi ích chung. Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển (ISA) được giao trách nhiệm điều phối, hỗ trợ đào tạo và chia sẻ kết quả nghiên cứu, đặc biệt chú trọng tới các quốc gia đang phát triển.[3] Tiếp đó, Điều 144  thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ và kiến thức khoa học liên quan đến hoạt động trong Khu vực với mục tiêu là tạo điều kiện để các quốc gia đang phát triển nâng cao năng lực công nghệ, tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật thông qua các hình thức như hợp tác quốc tế và chương trình đào tạo và cơ chế tiếp cận một cách công bằng, hợp lý.[4] Cuối cùng, Điều 145 đặt ra yêu cầu thiết lập và thực thi các biện pháp cụ thể để ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát những tác động có hại từ các hoạt động đánh bắt, khai thác trong Vùng gây ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên sinh vật biển.[5] 1.2. Hiệp định theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển về Bảo tồn và Sử dụng bền vững Đa dạng sinh học biển ở các Khu vực ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia (Hiệp định BBNJ) 1.2.1. Nội dung chính Được xây dựng dựa trên cơ sở thực thi UNCLOS, Hiệp định BBNJ sử dụng các định nghĩa và quy tắc thẩm quyền của UNCLOS để xác định phạm vi địa lý của mình (“khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia”[6]). Điều 1(2) định nghĩa những khu vực này bao gồm cả vùng Biển cả Vùng - tức là đáy biển, nền đại dương và lớp đất bên dưới nằm ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia.[7] Hiệp định quy định bốn vấn đề quan trọng trong đảm bảo đa dạng sinh học biển là: Nguồn gen biển (Marine Genetic Resources - MGR)  là vật liệu di truyền của các sinh vật biển có giá trị sử dụng hoặc giá trị cho nhân loại, trong đó các lợi ích như kết quả nghiên cứu khoa học hoặc tiền bản quyền từ các sản phẩm chứ MRG sẽ được chia sẻ công bằng và bình đẳng giữa các quốc gia; Các công cụ quản lý theo vùng (Area-Based Management Tools - ABMT) nêu rõ rằng các khu vực này chỉ áp dụng cho vùng biển nằm ngoài quyền tài phán của các quốc gia, trong đó có các khu vực bảo tồn biển (MPA) nhằm cho phép các quốc gia kiểm soát hoạt động của con người ở các khu vực biển một cách toàn diện và tổng hợp; Đánh giá tác động môi trường (Environmental Impact Assessments - EIA) thiết lập các quy trình, ngưỡng và các yêu cầu khác để thực hiện, giám sát và báo cáo một cách nhất quán, toàn diện cho EIA để không làm ảnh hưởng đến quá trình gia quyết định của các quốc gia ;  và Xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển  (Capacity Building and Marine Technology Transfer - CB & TT), dựa trên những nghĩa vụ hiện có theo Điều 268 để phối hợp tốt hơn việc xây dựng năng lực ở các quốc gia đang phát triển . Ngoài ra, Hiệp định còn quy định về việc thành lập các thể chế, nguồn lực, cơ chế tài chính, việc thực thi và tuân thủ, việc giải quyết tranh chấp.   Sau gần hai thập kỷ đàm phán, vào tháng 6/2023 các quốc gia cuối cùng đã có thể thông qua “Thỏa thuận BBNJ”, hay thường được gọi là “Hiệp ước Biển cả”  sẽ giúp đạt được các mục tiêu và mục đích được đặt ra theo Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh- Montreal. Điều này bao gồm mục tiêu bảo vệ tối thiểu 30% diện tích đại dương vào năm 2030 và tăng cường việc chia sẻ công bằng lợi ích từ nguồn gen biển và dữ liệu trình tự gen kỹ thuật số. Trong cùng năm đã có 89 quốc gia đã ký kết[8] hiệp ước kể từ lúc Thỏa thuận BBNJ mở ký kết vào tháng 9/2023. Tính đến tháng 3 năm 2025 đã có 112 quốc gia ký kết thỏa thuận này, bao gồm tất cả 27 quốc gia của thành viên Liên minh Châu Âu, cũng như Trung Quốc, Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ, với 21 quốc gia đã ký kết phê chuẩn thỏa thuận này tính đến ngày 1/4/2025.[9] Về mặt thủ tục, Thỏa thuận BBNJ sẽ chính thức có hiệu lực 120 ngày sau khi đủ 60 quốc gia hoàn tất việc “phê chuẩn, chấp thuận hoặc gia nhập” (theo Điều 68). Trong vòng một năm kể từ thời điểm đó, Hội nghị các bên (COP) sẽ họp lần đầu tiên để đưa ra các quyết định quan trọng, như thông qua ngân sách và thành lập các cơ quan phụ trách hỗ trợ thực thi Thỏa thuận (theo Điều 47).[10] Cho đến nay khi Hội nghị Đại dương của Liên hợp quốc kết thúc vào ngày 13/6/2025, hiệp ước đã có 136 bên ký kết và 51 bên phê chuẩn và chỉ còn thiếu chín bên so với 60 bên cần thiết để hiệp ước có hiệu lực.[11] Quá trình ký kết sẽ chính thức kết thúc vào ngày 20/9/2025 và cộng đồng quốc tế đang nỗ lực thúc đẩy phê chuẩn trước thời hạn này.  1.2.2. Điểm cải thiện BBNJ so với UNCLOS. (i)   Chia sẻ công bằng và bình đẳng nguồn gen biển Hiệp định BBNJ đặt ra nguyên tắc rằng mọi hoạt động liên quan đến nguồn gen biển (MGR) đều phải phục vụ lợi ích chung của toàn nhân loại và tất cả các quốc gia. Để hiện thực hóa nguyên tắc đó, Phần II (Điều 9 - 16) quy định về việc chia sẻ công bằng và hợp lý các lợi ích, bao gồm cả phi tài chính và tài chính phát sinh từ MGR và thông tin trình tự kỹ thuật số ( digital sequence information , như dữ liệu DNA). Những lợi ích này bao gồm việc phổ biến dữ liệu khoa học, thúc đẩy hiểu biết công nghệ, và hỗ trợ nâng cao năng lực cho các bên tham gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.[12] Song song với đó, Hiệp định thiết lập một cơ chế tài chính (Điều 15) nhằm đảm bảo các bên được hưởng lợi một cách công bằng từ việc khai thác và sử dụng MGR, bao gồm cả lợi nhuận tài chính từ các hoạt động thương mại hóa thông tin di truyền. Ngoài ra, để tăng tính minh bạch và giám sát hiệu quả, các quốc gia thành viên phải thông báo trước ít nhất 6 tháng về các hoạt động dự kiến liên quan đến MGR, bao gồm cả thu thập và sử dụng thông qua Cơ chế minh bạch thông tin ( Clearing - House Mechanism ) do Ban Thư ký quản lý. Điều này giúp đảm bảo sự phối hợp, chia sẻ và giám sát toàn cầu đối với việc sử dụng tài nguyên di truyền biển.[13] (ii) Các công cụ quản lý theo vùng, trong đó có khu bảo tồn biển Phần III (Điều 17 - 26) của Hiệp định BBNJ đặt mục tiêu xây dựng một hệ thống các công cụ quản lý không gian biển (ABMT) toàn diện và có đại diện sinh thái, trong đó bao gồm việc hình thành một mạng lưới các khu bảo vệ biển (MPA) có tính kết nối chặt chẽ.[14] Hệ thống này nhằm bảo tồn và phục hồi đa dạng sinh học biển cũng như các hệ sinh thái dễ bị tổn thương ở các vùng ngoài phạm vi tài phán quốc gia (Điều 17).[15] Điểm đột phá của Hiệp định là lần đầu tiên cung cấp một cơ sở pháp lý quốc tế thống nhất cho việc thiết lập các ABMT, đặc biệt là các MPA có quy mô lớn và liên ngành, để quản lý hoạt động của con người tại các vùng biển cả và đáy biển quốc tế vì mục đích bảo tồn. Ngoài ra, Hiệp định yêu cầu các quốc gia phải thúc đẩy hợp tác và phối hợp hiệu quả giữa các bên liên quan, bao gồm các quốc gia khác, tổ chức và cơ quan toàn cầu, khu vực hoặc tiểu khu vực, cũng như các khuôn khổ pháp lý có liên quan. Trong quá trình xây dựng và đánh giá các kế hoạch ABMT, các quốc gia có nghĩa vụ tham vấn với cộng đồng khoa học, người dân bản địa, cộng đồng địa phương và khu vực tư nhân (Điều 19 và 21).[16] Các ABMT được thiết lập theo Hiệp định BBNJ sẽ bổ trợ chứ không làm suy yếu các biện pháp hiện có của các tổ chức quốc tế khác (Điều 22), chẳng hạn như các quy định liên quan đến khai thác tài nguyên đáy biển, đánh bắt hải sản, hay vận tải hàng hải.[17] Ngoài ra, Phụ lục I của Hiệp định quy định rõ các tiêu chí cần thiết để xác định các khu vực được bảo tồn.  (iii) Đánh giá tác động môi trường Phần IV (Điều 27 - 39) của Hiệp định BBNJ đề ra một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ nhằm điều chỉnh việc đánh giá tác động môi trường (EIA) đối với các hoạt động được thực hiện tại các khu vực nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia (ABNJ). Khuôn khổ này bao gồm các thủ tục, ngưỡng và yêu cầu cụ thể, nhằm bảo đảm tuân thủ các quy định liên quan trong UNCLOS, đồng thời thúc đẩy quá trình giám sát, đánh giá và báo cáo việc thực hiện.[18] Mục tiêu là phòng ngừa, giảm thiểu và kiểm soát các tác động bất lợi nghiêm trọng có thể xảy ra đối với môi trường biển, kể cả việc xem xét các tác động tích lũy cũng như tác động phát sinh từ các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia (Điều 27).[19] Theo quy định tại Điều 28, trước khi cho phép bất kỳ hoạt động nào nằm trong phạm vi quyền tài phán hoặc kiểm soát của quốc gia mình tại các vùng biển cả hoặc đáy biển - chẳng hạn như khai thác tài nguyên di truyền biển, đặt cáp ngầm hoặc thăm dò dầu khí - các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện EIA để đánh giá các nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường biển. Ngoài ra, nếu hoạt động dự kiến diễn ra trong vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia nhưng có khả năng gây ra ô nhiễm nghiêm trọng hoặc làm thay đổi đáng kể và tiêu cực đối với môi trường biển ở ABNJ, thì EIA vẫn phải được tiến hành.[20] Điểm nổi bật trong Hiệp định là quy trình EIA được xây dựng một cách hệ thống tại Điều 31, bao gồm bốn bước chính: (i) sàng lọc để xác định xem có cần EIA không; (ii) xác định phạm vi nội dung đánh giá; (iii) tiến hành đánh giá và thẩm định tác động; và (iv) đưa ra các biện pháp nhằm phòng ngừa, giảm nhẹ và kiểm soát tác động tiêu cực có thể xảy ra. Đồng thời, các quốc gia có nghĩa vụ tiếp tục giám sát, đánh giá và báo cáo định kỳ về các tác động môi trường của hoạt động đã được phê duyệt (Điều 35 - 37).[21] Đáng lưu ý, khoản 4 Điều 29 cho phép các quốc gia thực hiện EIA theo pháp luật quốc gia hoặc theo các điều ước quốc tế liên quan mà họ là thành viên, thay vì phải tuân thủ tuyệt đối quy trình được thiết lập trong Hiệp định BBNJ nhằm tạo ra sự linh hoạt nhất định trong áp dụng.[22]  (iv) Xây dựng và chuyển giao công nghệ biển Phần V (Điều 40 - 46) của Hiệp định BBNJ tập trung vào việc tăng cường hỗ trợ các quốc gia đang phát triển trong quá trình thực thi các quy định của Hiệp định, nhằm đạt được mục tiêu bảo tồn và khai thác bền vững đa dạng sinh học biển tại các khu vực nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (BBNJ), theo quy định tại Điều 40.[23] Hiệp định nhấn mạnh sự cần thiết của việc hợp tác trong xây dựng năng lực (CB) và chuyển giao công nghệ (TT) trên nhiều cấp độ và dưới nhiều hình thức khác nhau, không chỉ giữa các quốc gia mà còn có thể thông qua các mối quan hệ đối tác với khối tư nhân, cộng đồng địa phương và các dân tộc bản địa (Điều 41).[24] Khái niệm “công nghệ biển” trong Hiệp định được hiểu bao gồm cả thiết bị kỹ thuật và kiến thức chuyên môn phục vụ cho việc bảo tồn cũng như khai thác bền vững đa dạng sinh học biển, bao gồm cả các hoạt động nghiên cứu khoa học biển (được nêu rõ tại khoản 10 Điều 1).[25] Các loại hình CB & TT được mô tả chi tiết trong Phụ lục II của Hiệp định, làm rõ cách thức mà việc chuyển giao công nghệ có thể được thực hiện hiệu quả và phù hợp với nhu cầu của các nước đang phát triển. Một điểm nổi bật là Điều 52 thiết lập một quỹ đặc biệt để cung cấp hỗ trợ tài chính cho các quốc gia đang phát triển trong việc thực thi Hiệp định. Quỹ này sẽ nhận được sự đóng góp định kỳ từ các quốc gia, nguồn tài chính thu được từ khai thác tài nguyên di truyền biển (MGR), cũng như các khoản đóng góp tự nguyện từ khu vực tư nhân.[26] Việc thành lập cơ chế tài chính này phản ánh nỗ lực kiên trì của các nước đang phát triển trong quá trình đàm phán, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều quốc gia phát triển, nhằm đảm bảo có một nguồn lực hỗ trợ thiết thực và lâu dài để thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong Hiệp định.  (v) Thể chế và cơ chế kỹ thuật trong BBNJ  Hiệp định BBNJ đánh dấu một bước phát triển thể chế quan trọng khi lần đầu tiên thiết lập một loạt các cơ quan chuyên trách nhằm hỗ trợ thực thi hiệu quả các quy định liên quan đến đa dạng sinh học biển ngoài quyền tài phán quốc gia. Hệ thống này bao gồm:[27] Hội nghị các bên tham gia (COP), Cơ quan Khoa học và Kỹ thuật (STB), Ban Thư ký, Cơ chế minh bạch thông tin (Clearing - House Mechanism),  Ủy ban Tiếp cận và Chia sẻ lợi ích, Ủy ban về Xây dựng năng lực và Chuyển giao công nghệ (CB & TT), cùng với Ủy ban Thực thi và Tuân thủ. Trong đó, STB đóng vai trò là thiết chế kỹ thuật chủ chốt, trực thuộc COP, có chức năng cung cấp ý kiến tư vấn khoa học và kỹ thuật, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ được COP giao phó. Việc xác định rõ thẩm quyền và mối quan hệ giữa các cơ quan như STB và COP phản ánh định hướng quản trị rõ ràng và chuyên môn hóa cao trong Hiệp định BBNJ. Trái lại, UNCLOS dù là khuôn khổ pháp lý nền tảng về biển lại không chính thức thành lập một hội nghị các bên hay xác lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có chức năng khoa học - kỹ thuật, chẳng hạn như Ủy ban Ranh giới thềm lục địa. Ngoài ra, UNCLOS cũng thiếu vắng một cơ chế huy động chuyên gia độc lập để giải quyết các tranh chấp kỹ thuật, đặc biệt là trong những vấn đề phức tạp như phân định thềm lục địa.[28] Do vậy, việc thành lập COP và xác định thẩm quyền của COP đối với STB trong Hiệp định BBNJ là điểm tiến bộ hơn so với UNCLOS, thể hiện nhận thức của các quốc gia về sự cần thiết phải có các cơ quan chuyên môn để hỗ trợ các vấn đề về tranh chấp có “bản chất kỹ thuật”.   Hiệp định BBNJ còn đề cập đến việc bảo đảm thực thi thông qua các quy định về tài chính (Điều 52), giám sát và tuân thủ (Điều 53 - 55), cùng cơ chế giải quyết tranh chấp (Điều 56 - 61).[29] Đối với các tranh chấp có tính chất kỹ thuật, Điều 59 cho phép thành lập hội đồng chuyên gia đặc biệt tương tự cơ chế tại Điều 29 của Hiệp định về đàn cá năm 1995.[30] Trong khi đó, tranh chấp về việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định được xử lý theo cơ chế của UNCLOS, với bốn lựa chọn tài phán: (i) Tòa án Luật Biển, (ii) Tòa án Công lý Quốc tế, (iii) Trọng tài theo Phụ lục VII hoặc (iv) Trọng tài đặc biệt theo Phụ lục VIII. Cách thiết kế này phản ánh sự linh hoạt và phù hợp với từng loại tranh chấp, bảo đảm hiệu quả thực hiện Hiệp định.[31] Một điểm mới đáng chú ý trong Hiệp định BBNJ là quy định tại Điều 47 khoản 7, theo đó Hội nghị các bên (COP) có thể đề nghị Tòa án Luật Biển đưa ra ý kiến tư vấn về tính phù hợp của một đề xuất trong phạm vi thẩm quyền của COP với các quy định của Hiệp định.[32] Tuy nhiên, phạm vi áp dụng của cơ chế này được giới hạn rõ ràng, nhằm ngăn chặn việc lạm dụng ý kiến tư vấn để xử lý những vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ của Hiệp định BBNJ, điều này thể hiện sự cẩn trọng của các quốc gia trong quá trình đàm phán.[33] 2. Đánh giá về khuôn khổ pháp lý hiện tại Hiệp định BBNJ đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nỗ lực toàn cầu nhằm bảo vệ đa dạng sinh học biển và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên đại dương. Đây là minh chứng tiêu biểu cho cam kết của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý thống nhất nhằm điều chỉnh hoạt động khai thác và bảo tồn hợp lý đối với tài nguyên sinh học tại vùng biển cả và đáy biển quốc tế, nơi vốn chịu sự điều chỉnh phân tán và thiếu hiệu lực bởi các thiết chế hiện hành.[34] Một trong những điểm nổi bật quan trọng nhất của Hiệp định BBNJ là việc thiết lập nền tảng pháp lý nhằm thúc đẩy một trật tự quản trị đa trung tâm  (polycentric order)  trong lĩnh vực quản lý biển cả.[35] Đây cũng là hiệp định môi trường đa phương đầu tiên đặt trọng tâm vào việc xây dựng cơ chế phối hợp thể chế toàn diện và hệ thống giữa các tổ chức quốc tế hiện có (Intergovernmental Framework Bodies - IFBs) . Khác với xu hướng phổ biến trong các điều ước môi trường truyền thống - vốn thường nhấn mạnh hợp tác song phương giữa điều ước và từng tổ chức cụ thể - Hiệp định BBNJ đi xa hơn khi đề cao sự phối hợp đa tầng, đa chiều giữa các IFBs. Cách tiếp cận này phản ánh một nhận thức pháp lý mới, rằng các thách thức toàn cầu có tính liên ngành - như suy giảm đa dạng sinh học biển, biến đổi khí hậu, axit hóa đại dương và ô nhiễm nhựa - không thể được giải quyết hiệu quả nếu thiếu sự điều phối thể chế xuyên lĩnh vực.[36] Về mặt cấu trúc quyền lực, Hiệp định BBNJ không thiết lập một hệ thống thể chế có tính thứ bậc; thay vào đó, cơ chế quản trị trong khuôn khổ hiệp định vẫn giữ nguyên tính phân quyền. Hội nghị các Bên (COP), cơ quan hoạch định chính sách cao nhất của hiệp định, không có thẩm quyền vượt trội so với các IFBs, mà ngược lại, bị ràng buộc bởi nghĩa vụ tham vấn thường xuyên với các tổ chức liên quan trong quá trình ra quyết định (các Điều 22(1)(b), 22(3), 22(4), 22(7)).[37] Trọng tâm của BBNJ không nằm ở việc tạo ra thiết chế thay thế các IFBs hiện hành, mà ở việc thiết lập các nguyên tắc chỉ đạo có tính chuẩn mực (normative authority)  để dẫn dắt và điều phối các thể chế này cùng hướng tới các mục tiêu bảo tồn chung. Điều 5(2) quy định rõ rằng Hiệp định phải được thực thi theo cách thức “thúc đẩy sự gắn kết và phối hợp” với các IFBs. Điều 8(1) cũng nhấn mạnh việc hợp tác không chỉ với từng tổ chức riêng lẻ mà còn giữa các IFBs với nhau, qua đó mở rộng phạm vi điều chỉnh của hiệp định ở cấp độ thể chế.[38] Việc Hiệp định BBNJ lặp lại nhiều lần nghĩa vụ phối hợp và tham vấn thể chế cho thấy nỗ lực xây dựng một khuôn khổ điều phối mang tính toàn hệ thống, trong đó hiệu quả thực thi không chỉ phụ thuộc vào các quy định của chính BBNJ mà còn nằm ở mức độ nội tâm hóa và cam kết thực chất của các IFBs đối với các chuẩn mực mà hiệp định đề ra. Điều này tạo ra một tình thế như sau: một mặt, nó bảo đảm rằng quyền hạn và tính tự chủ của các thể chế hiện có không bị xung đột hay chồng lấn; mặt khác, cũng đồng nghĩa với việc thành công thực tế của Hiệp định BBNJ phụ thuộc lớn vào mức độ hợp tác và điều chỉnh chính sách tự nguyện của các tổ chức liên quan. Đây chính là thách thức pháp lý lớn nhất trong quá trình hiện thực hóa các mục tiêu bảo tồn của hiệp định trong bối cảnh thể chế quốc tế phân mảnh hiện nay. 3. Thực tiễn tại Việt Nam Việc Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định BBNJ mang ý nghĩa thực tiễn sâu rộng trong bối cảnh quốc gia này đang nỗ lực đẩy mạnh bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển, đồng thời tăng cường vai trò trong quản trị đại dương toàn cầu. Trước hết, Hiệp định BBNJ thiết lập một khuôn khổ pháp lý rõ ràng giúp Việt Nam thực hiện hiệu quả nguyên tắc chia sẻ công bằng và hợp lý các lợi ích - cả tài chính và phi tài chính - từ việc tiếp cận và khai thác nguồn gen biển tại các khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia (ABNJ). Đồng thời, hiệp định tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các công cụ quản lý biển như thiết lập khu bảo tồn biển, bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu bảo tồn và nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển.[39] Thứ hai, Hiệp định mở ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực và chuyển giao công nghệ từ các quốc gia phát triển, từ đó góp phần nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học biển, tăng cường khả năng giám sát và quản lý tài nguyên biển trong dài hạn. Thứ ba, việc thực hiện Hiệp định BBNJ cũng giúp Việt Nam bảo vệ và mở rộng lợi ích quốc gia không chỉ tại Biển Đông mà còn tại các vùng biển và đáy biển quốc tế, góp phần củng cố hiệu lực pháp lý của Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) và tăng cường tính nhất quán trong việc thực thi các nghĩa vụ quốc tế liên quan đến đại dương.[40] Ngoài ra, quá trình tham gia và thực thi Hiệp định BBNJ sẽ thúc đẩy Việt Nam phát triển nguồn nhân lực chuyên môn cao trong lĩnh vực pháp luật và khoa học biển, đồng thời mở rộng không gian hợp tác quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trong các cơ chế quản trị đại dương đa phương. Trong bối cảnh các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông vẫn còn tồn tại và chưa có giải pháp toàn diện, việc tham gia Hiệp định BBNJ không chỉ góp phần tăng cường hiệu quả quản lý tài nguyên biển phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, mà còn đóng vai trò như một công cụ ngoại giao pháp lý giúp các bên liên quan kiềm chế các hành vi đơn phương có thể làm gia tăng căng thẳng, từ đó góp phần duy trì hòa bình, ổn định và củng cố lòng tin trong khu vực.[41] 4. Kết luận Hiệp định BBNJ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý quốc tế nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại các khu vực ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia. Sự ra đời của hiệp định không chỉ khắc phục những khoảng trống thể chế còn tồn tại trong UNCLOS mà còn thiết lập một cơ chế hợp tác đa tầng, linh hoạt và mang tính điều phối cao giữa các chủ thể liên quan. Đối với Việt Nam, việc tham gia BBNJ mở ra nhiều cơ hội chiến lược cả về pháp lý, công nghệ lẫn hợp tác quốc tế, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản trị biển, củng cố vị thế quốc gia và thúc đẩy thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trong lĩnh vực đại dương. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] UNCLOS, Phần XI, Điều 117,118. [2] UNCLOS, Phần XI, Điều 119. [3] UNCLOS, Phần XI, Điều 143. [4] UNCLOS, Phần XI, Điều 144. [5] UNCLOS, Phần XI, Điều 145.  [6] Hiệp định BBNJ, Điều 1(2).  [7] UNCLOS, Điều 1(1)(1) (Định nghĩa “Vùng”). [8] European Commission, Commission takes further step to protect biodiversity in the High Seas  (Press release, 24 April 2025)   https://ec.europa.eu/commission/presscorner/detail/en/ip_25_1098  Truy cập ngày 10 tháng 7 2025. [9] Oktawian Kuc, Dispute Settlement under the BBNJ Agreement  (2025) International Journal of Marine and Coastal Law  (advance publication, 25 April 2025)   https://brill.com/view/journals/estu/aop/article-10.1163-15718085-bja10233/article-10.1163-15718085-bja10233.xml  truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2025.  [10] Robert Blasiak and Jean‑Baptiste Jouffray, ‘When will the BBNJ Agreement deliver results?’ (2024) npj Ocean Sustainability  3:21 (advance online publication 10 months ago) https://doi.org/10.1038/s44183-024-00058-6  truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2025. [11] Tom Pickerell and Amy Swift, The High Seas Treaty: A 20‑Year Journey to Transform Ocean Governance (World Resources Institute, 17 June 2025) https://www.wri.org/insights/high-seas-treaty-explainer  truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2025.  [12] Hiệp định BBNJ, Điều 9 - 16. [13] Hiệp định BBNJ, Điều 15 [14] Hiệp định BBNJ, Điều 17 - 26 [15] Hiệp định BBNJ, Điều 17  [16] Hiệp định BBNJ, Điều 19 - 21 [17] Hiệp định BBNJ, Điều 22 [18] Hiệp định BBNJ, Điều 27 - 39 [19] Hiệp định BBNJ, Điều 27 [20] Hiệp định BBNJ, Điều 28 [21] Hiệp định BBNJ, Điều 31, 35 - 37 [22] Hiệp định BBNJ, Điều 29(4) [23] Hiệp định BBNJ, Điều 40 -46 [24] Hiệp định BBNJ, Điều 41 [25] Hiệp định BBNJ, Điều 10(1) [26] Hiệp định BBNJ, Điều 52 [27] Hiệp định BBNJ, Điều 48 - 58 [28] Shani Friedman ‘The BBNJ Agreement: New Treaty, Old Challenges?’  (Centre for International Law, 18 July 2023)   https://cil.nus.edu.sg/blogs/the-bbnj-agreement-new-treaty-old-challenges/  Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2025. [29] Hiệp định BBNJ, Điều 56 - 61 [30] Hiệp định BBNJ, Điều 59 [31] Hiệp định BBNJ, Điều 59 - 60  [32] Hiệp định BBNJ, Điều 47(7) [33] W. Thomas, L. Rovinescu, A. Havaldar, and C. Verdon, “The New High Seas Treaty: Part 1 – What Does It Provide?”, Freshfields Bruckhaus Deringer, March 15, 2023. [Online]. Available: https://eur-lex.europa.eu/eli/agree/2024/1831/oj/eng   [34] Nichola A. Clark, Institutional arrangements for  the  new  BBNJ  agreement:  Moving  beyond  global,   regional,   and   hybrid,   Marine   Policy, Volume 122, December 2020 [35] Rakhyun E Kim, “The likely impact of the BBNJ Agreement on the architecture of ocean governance” (2024) 165 Marine Policy.  [36] A. Roberts, T. St John, Complex designers and emergent design: reforming the investment treaty system, Am. J. Int. Law 116 (2022) 96 -149. [37] Như chú thích 35. [38] Như chú thích 35. [39] Nguyễn Hồng Thao, “Agreement on the conservation  and sustainable use of biodiversity in waters beyond national jurisdiction (BBNJ) and opportunities for Vietnam”, Tạp chí Môi trường, Quý III, 2024.  [40] Như chú thích 39. [41] Trần Thị Ngọc Sương, “Thực thi Hiệp định bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng biển tại các vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia: những lợi ích và trở ngại”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, tập 22, số 5B, 2024.

  • [64] VẤN ĐỀ THỰC THI QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM VÀ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI SỬ DỤNG DEEPFAKE TẠO DỰNG NỘI DUNG LẠM DỤNG TÌNH DỤC TRẺ EM

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Vũ Phạm Phương Nhi, Phạm Thị Quỳnh Anh, Lưu Ngọc Minh Châu[1] Tóm tắt: Trong kỷ nguyên số hóa, Deepfake đã nhanh chóng trở thành một trong những tiến bộ công nghệ gây tranh cãi nhất, đặc biệt khi công nghệ này được áp dụng vào việc tạo lập và lan truyền nội dung lạm dụng tình dục trẻ em (children sexual abuse material - CSAM). Hành vi này không chỉ xâm hại đến quyền lợi của nạn nhân mà còn thách thức các hệ thống pháp lý trong việc truy cứu trách nhiệm và bảo vệ quyền lợi trẻ em. Bài nghiên cứu phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến quyền được bảo vệ của trẻ em trước các hành vi lạm dụng tình dục bằng công nghệ Deepfake, đồng thời chỉ ra những thách thức pháp lý trong việc phát hiện và truy tố hành vi này, qua đó đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi cho trẻ em tại Việt Nam. Từ khoá: Deepfake, CSAM, quyền được bảo vệ của trẻ em, truy cứu trách nhiệm pháp lý Dẫn nhập Với phương pháp sử dụng trí tuệ nhân tạo để tạo dựng nội dung giả lập có độ chân thực cao, công nghệ Deepfake làm dấy lên những quan ngại trong cộng đồng quốc tế về một công cụ tiện ích nhưng đầy rủi ro, đặc biệt khi tội phạm đã nhắm tới nhóm đối tượng yếu thế là trẻ em để tạo dựng CSAM. Đây là hành vi phạm pháp phổ biến tại các quốc gia phát triển về công nghệ, tiêu biểu như Hoa Kỳ, khi chỉ riêng trong năm 2023, đường dây nóng của Trung tâm Quốc gia về Trẻ em Mất tích và Bị bóc lột (“NCMEC”) tại nước này đã nhận được 35,9 triệu báo cáo về các trường hợp nghi ngờ lạm dụng tình dục trẻ em trực tuyến liên quan đến việc sở hữu, tạo dựng hoặc phân phối CSAM.[2] Để giải quyết vấn đề này, nhiều quốc gia đã xây dựng và ban hành những quy định pháp luật xoay quanh quyền được bảo vệ của trẻ em trước hình thức lạm dụng tình dục mới và truy cứu trách nhiệm với tội phạm sử dụng Deepfake, song vẫn tồn tại một số bất cập. Bài nghiên cứu sẽ tập trung trả lời những câu hỏi pháp lý liên quan tới vấn đề thực thi pháp luật để bảo vệ trẻ em trước công nghệ Deepfake, và thách thức của pháp luật hiện hành trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi sử dụng Deepfake để tạo dựng CSAM. Qua đó, bài nghiên cứu đưa ra một số đề xuất cho Việt Nam trong việc áp dụng và ban hành các điều luật bảo vệ quyền trẻ em trong bối cảnh công nghệ Deepfake được ứng dụng ngày một rộng rãi. 1. Định nghĩa và quy định pháp lý hiện hành trong quản lý công nghệ Deepfake 1.1. Định nghĩa về công nghệ Deepfake Trong thập kỷ qua, mạng Internet đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Sự phát triển của công nghệ dù mang đến nhiều lợi ích, song cũng gây ra những mối nguy hiểm cho con người trên nhiều phương diện bởi tính tự do và nhanh chóng. Trong một khảo sát từ năm 2009, đã có khoảng 02 tỷ hình ảnh và video[3] được đăng tải trên mạng xã hội dẫn đến sự phát triển của các ứng dụng cho phép con người tạo lập, chỉnh sửa hình ảnh, từ đó có thể chuyển đổi những hình ảnh hay thông tin trên ảnh từ thật thành giả chỉ qua một số thao tác cơ bản. Đến năm 2017, thuật ngữ Deepfake bắt đầu được sử dụng rộng rãi, bắt nguồn từ một tài khoản Reddit có tên “DeepFakes” đã đăng những video khiêu dâm giả mạo với độ chân thực cao, được tạo ra bởi công nghệ trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence - AI) để chèn khuôn mặt của những người nổi tiếng vào video khiêu dâm sẵn có. Về cơ bản, Deepfake là công nghệ sử dụng AI, xuất phát từ “deep learning” và “fake”, được tạo ra bằng các kỹ thuật chồng ghép hình ảnh khuôn mặt của một người vào video của một người khác để tạo ra video mới, trong đó người đó đang thực hiện hoặc nói những điều mà người trong video gốc làm.[4] Hai công nghệ chính làm nền tảng cho công nghệ Deepfake là Học sâu và Generative Adversarial Networks (“GAN”) . Thứ nhất, Học sâu là một nhánh của học máy, sử dụng mạng nơ-ron để bắt chước cách bộ não con người hoạt động nhằm nhận diện và tìm ra các mẫu trong dữ liệu.[5] Hệ thống Deepfake dựa vào các tập dữ liệu lớn để phát hiện các đặc điểm quan trọng, từ đó tạo ra hình ảnh hoặc video giả mạo giống thực.[6] Thứ hai, GAN là một lớp thuật toán học máy có nhiệm vụ cải thiện chất lượng Deepfake với hai thành phần cốt lõi đối nghịch: mô hình tạo sinh và mô hình phân biệt.[7] Mô hình tạo sinh tạo ra các mẫu giả bằng cách lấy một vectơ đầu vào ngẫu nhiên - một tập hợp các giá trị bất kỳ và sử dụng thông tin này để tạo dữ liệu đầu vào giả, sau đó mô hình phân biệt sẽ kiểm tra kết quả bằng cách lấy một mẫu làm đầu vào và xác định xem nó là thật hay do mô hình tạo sinh tạo ra.[8] Các mô hình liên tục cải thiện cho đến khi nội dung được tạo ra có khả năng đến từ mô hình tạo sinh giống như dữ liệu đào tạo.[9] Thông qua cơ chế hoạt động tinh vi này, công nghệ Deepfake cho phép người dùng thực hiện đa dạng các chức năng, từ hoạt động vô hại như tạo hiệu ứng hình ảnh, sao chép trong hài kịch và lồng tiếng; cho tới các hành vi phạm pháp là hoán đổi khuôn mặt, nhân bản giọng nói và giả mạo danh tính.[10] 1.2. Định nghĩa về CSAM và hành vi sử dụng Deepfake để tạo lập CSAM 1.2.1. Định nghĩa CSAM CSAM hay nội dung lạm dụng tình dục trẻ em đề cập đến nội dung khiêu dâm sử dụng hình ảnh, video hoặc hình ảnh do công nghệ máy tính tạo ra với trẻ vị thành niên. Luật Liên bang Hoa Kỳ định nghĩa hành vi khiêu dâm trẻ em là bất cứ hình ảnh mô tả hành vi khiêu dâm đến trẻ dưới 18 tuổi.[11] Tuy nhiên, NCMEC đã lựa chọn thuật ngữ CSAM để chỉ những hình ảnh đó một cách chính xác nhất bởi ngoài hành vi lạm dụng, bóc lột tình dục đối với nạn nhân, những tài liệu này còn được trao đổi trên không gian mạng khiến nạn nhân sẽ phải chịu cảnh tái lạm dụng với mỗi một lần hình ảnh đó tiếp cận đến người khác.[12] Thuật ngữ này cũng được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu và điều tra pháp lý. CSAM bắt buộc phải được xem xét dựa trên các yếu tố: (1) có dữ liệu hình ảnh, video; (2) bất kì ai cũng có thể truy cập và mỗi khi được lan truyền trên không gian mạng chính là khi tội ác với trẻ em đang được hình thành; và (3) trẻ em đang gặp nguy hiểm trong thời đại công nghệ phát triển.[13] 1.2.2. Sử dụng công nghệ Deepfake để tạo lập CSAM Theo Thorn - Tổ chức phi lợi nhuận xây dựng công nghệ để bảo vệ trẻ em khỏi lạm dụng tình dục, một trong những hình thức mới để sản xuất CSAM là do AI tạo ra (“AIG-CSAM”).[14] Kể từ đầu năm 2023, những loại mô hình tạo sinh[15] miễn phí như DALL-E đã được cải tiến nhằm tăng khả năng kiểm soát chất lượng hình ảnh được tạo ra sao cho chỉ những người có chuyên môn về nhiếp ảnh mới có thể phân biệt với hình ảnh thực tế.[16] Việc áp dụng công nghệ AI nhanh chóng trở thành một cơ chế lạm dụng tình dục trẻ em mới có độ chân thực cao, khiến con người không thể phân biệt đó là hình ảnh thật hay do công nghệ AI tạo ra.[17] Sự phát triển của công nghệ máy tính, trong đó có AIG-CSAM đã gây ra rất nhiều hậu quả, đặc biệt là nguy cơ đe dọa đến an toàn trẻ em. Có hai hình thức chính của AIG-CSAM, một là nội dung được tạo ra và xử lý toàn bộ bằng AI, hai là nội dung chỉnh sửa từ hình ảnh hoặc video có thật nhưng đã bị thay đổi bằng công nghệ AI (hay cũng được hiểu là CSAM sử dụng Deepfake). Trẻ em có thể đối mặt với nguy cơ liên tục trở thành nạn nhân xuất hiện trong CSAM bởi mỗi một lần tạo lập ra hình ảnh, công nghệ Deepfake sẽ theo cơ chế học thuộc lệnh và từ đó sử dụng tiếp hình ảnh đó tạo lập thêm CSAM với những hành vi tình dục khác nhau. Theo báo cáo vào tháng 07/2024 của Internet Watch Foundation (“IWF”)[18] về việc sử dụng và tạo lập CSAM bằng Deepfake, từ tháng 04/2023 đến tháng 03/2024 ghi nhận 375 báo cáo chứa nội dung do AI tạo ra (hầu như đều chỉ ra nội dung được lưu trữ trên các website công khai), trong đó 70 báo cáo liên quan đến AIG-CSAM có tính chất phạm tội.[19] Báo cáo cũng ghi nhận hai loại dịch vụ khiêu dâm trực tuyến liên quan đến AI phổ biến là dịch vụ tạo hình ảnh khiêu dâm tổng hợp và dịch vụ “làm khỏa thân” (nudified) từ hình ảnh có sẵn. IWF ghi nhận 17 trường hợp tự trình báo từ các nạn nhân có hình ảnh khiêu dâm Deepfake giả mạo và trong số đó có nhiều hình ảnh trẻ em bị chỉnh sửa thành nội dung khoả thân, sau đó phát tán rộng rãi trên mạng chủ yếu nhằm mục đích tống tiền.[20] 1.3. Những quy định pháp lý hiện hành trong việc quản lý công nghệ Deepfake Hiện nay chưa có quy định nào trong luật quốc tế nhằm điều chỉnh hành vi sử dụng công nghệ Deepfake để tạo lập, phát tán CSAM. Những hành vi này chỉ được quy định cụ thể và điều chỉnh bởi khung pháp lý của một số quốc gia nhất định. Ở Anh, hành vi sử dụng Deepfake với mục đích lạm dụng tình dục trẻ em bị nghiêm cấm, cụ thể, Đạo luật Bảo vệ Trẻ em năm 1978 quy định hình sự hóa việc tạo, phát tán và sở hữu các bức ảnh khiêu dâm hoặc “giả ảnh” của trẻ em.[21] Luật này áp dụng cho cả hình ảnh được tạo bởi AI giống như ảnh chụp thực tế. Đạo luật Điều tra Nguyên nhân Tử vong và Tư pháp năm 2009 hình sự hóa việc sở hữu “hình ảnh bị cấm của trẻ em”, bao gồm cả những mô tả không phải ảnh, chẳng hạn như tranh vẽ hoặc hoạt hình.[22] Vì vậy, AIG-CSAM ở bất kì độ chân thực nào đều nằm trong khung pháp lý này. Luật Liên bang Hoa Kỳ cũng quy định hình ảnh khiêu dâm trẻ em là bất hợp pháp, bao gồm cả ảnh, video, hình ảnh số không thể phân biệt với hình ảnh trẻ em thật, và các hình ảnh chỉnh sửa để giống như miêu tả một trẻ cụ thể.[23] Luật Liên bang cấm sản xuất, phân phối, nhận và sở hữu nội dung CSAM thông qua các phương tiện thương mại hoặc xuyên quốc gia.[24] Các vi phạm sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc, bao gồm tối thiểu 15-30 năm tù cho lần phạm tội đầu tiên liên quan đến sản xuất nội dung khiêu dâm trẻ em[25] và tối thiểu 5-20 năm tù cho tội lan truyền nội dung này.[26] Dĩ nhiên, những điều luật trên chỉ có khả năng điều chỉnh hành vi phạm tội trong chính quốc gia đó. Dù đã xác định hình ảnh CSAM Deepfake là bất hợp pháp, công nghệ được sử dụng để tạo ra hình ảnh “làm khỏa thân” vẫn chưa được liệt kê và bị cấm một cách cụ thể. Đồng thời, những hành vi tạo lập, sản xuất và phân phối CSAM bằng Deepfake trên phạm vi xuyên quốc gia cũng cần được quy định bởi các quy phạm pháp lý quốc tế mang tính ràng buộc các quốc gia, nhằm mang lại sự bảo vệ toàn diện nhất cho trẻ em trên toàn thế giới. 2. Thực tiễn áp dụng và thách thức pháp lý trong việc giải quyết Deepfake CSAM 2.1. Vấn đề thực thi quyền được bảo vệ của trẻ em trước hình thức lạm dụng tình dục sử dụng Deepfake 2.1.1. Cơ sở pháp lý về quyền được bảo vệ của trẻ em Theo từ điển luật học, thuật ngữ “quyền” dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức;[27] như vậy có thể hiểu, quyền trẻ em là những quyền lợi về kinh tế, xã hội và văn hóa mà trẻ em được hưởng để bảo đảm một cuộc sống phát triển lành mạnh, an toàn. Trong phạm vi luật quốc tế, thuật ngữ “quyền trẻ em” được đề cập tới lần đầu tiên trong Tuyên ngôn Geneva về Quyền Trẻ em năm 1924, tuy nhiên tới năm 1989 khi Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em (“UNCRC”) được thông qua, pháp luật quốc tế mới có một văn kiện quy định chi tiết và toàn diện về quyền này, mang tính ràng buộc và tạo ra khung pháp lý nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ được hưởng các quyền lợi hợp pháp mà còn trở thành chủ thể của các quyền đó.[28] Theo UNCRC, quyền trẻ em gồm bốn nhóm quyền chính là quyền được sống, quyền được bảo vệ, quyền được phát triển và quyền được tham gia.[29] Xét thấy hành vi sử dụng công nghệ Deepfake để tạo dựng CSAM tác động chủ yếu vào nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em, cụ thể là quyền được bảo vệ khỏi các hình thức lạm dụng tình dục trực tuyến, bài nghiên cứu sẽ tập trung phân tích các vấn đề xung quanh việc thực thi quyền này dựa trên các văn bản luật liên quan. Mặc dù không trực tiếp đề cập tới phương thức phạm tội sử dụng công nghệ Deepfake, nhưng một số văn kiện pháp lý có thể được áp dụng để thực hiện quyền được bảo vệ của trẻ em trước hành vi lạm dụng tình dục trực tuyến bằng công cụ này. Ở phạm vi quốc tế, UNCRC là hiệp ước quốc tế toàn diện đầu tiên thiết lập khuôn khổ pháp lý để bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức lạm dụng và bóc lột tình dục. Điều 9 của Công ước quy định trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức bạo lực, bóc lột, lạm dụng và bỏ bê, bao gồm cả lạm dụng tình dục; trong khi Điều 34 quy định cụ thể hơn về việc bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bóc lột và lạm dụng tình dục, bao gồm việc sử dụng trẻ em cho mục đích bóc lột trong các buổi biểu diễn và tài liệu khiêu dâm. Các Nghị định thư tùy chọn của UNCRC, đặc biệt là Nghị định thư về Buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em (2000), cung cấp thêm hướng dẫn quan trọng để hiện thực hóa các quyền của trẻ em liên quan đến bóc lột và lạm dụng tình dục trực tuyến. Ở phạm vi khu vực và quốc gia, Liên Minh Châu Âu (“EU”) tiên phong trong việc ban hành những chính sách bảo đảm an toàn cho trẻ em trên không gian mạng, ví dụ như điều khoản về sự đồng thuận của trẻ em đối với các dịch vụ trực tuyến[30] trong Quy định Bảo vệ Dữ liệu Chung năm 2016. Ngoài ra, một số văn bản pháp luật quốc gia cũng có thể được xem xét là cơ sở pháp lý cho quyền được bảo vệ khỏi các hình thức lạm dụng tình dục trực tuyến của trẻ em ở quốc gia đó, có thể kể đến Đạo luật PROTECT năm 2003 của Hoa Kỳ với những điều khoản quy định hướng giải quyết cho CSAM, bao gồm cả nội dung được tạo ra bằng cách mô phỏng hoặc sử dụng công nghệ máy tính.[31] 2.1.2. Hạn chế trong việc áp dụng và ban hành luật để bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức lạm dụng tình dục sử dụng Deepfake Mặc dù đã có những văn kiện làm cơ sở pháp lý cho quyền được bảo vệ của trẻ em khỏi các hình thức lạm dụng tình dục trực tuyến, nhưng vẫn tồn tại một số bất cập trong việc ban hành và áp dụng những văn bản pháp luật có quy định về quyền này. Đầu tiên là việc những đạo luật hay chiến lược về AI nói chung ở các quốc gia hầu hết đều hạn chế hoặc không đề cập cụ thể tới quy định về quyền được bảo vệ khỏi các hình thức lạm dụng tình dục trực tuyến của trẻ em nói chung và công nghệ Deepfake nói riêng. Theo một báo cáo của UNICEF, 20 chiến lược quốc gia về AI được tổ chức này nghiên cứu đa phần tập trung vào các lĩnh vực như giáo dục, y tế hoặc quyền riêng tư,[32] nhưng thiếu chú trọng vào những quyền cơ bản như quyền được bảo vệ của trẻ em khỏi sự phân biệt đối xử, lạm dụng và khai thác. Lấy ví dụ về Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của EU, mặc dù đạo luật này đã công nhận trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương và cần nhận được sự bảo vệ đặc biệt,[33] nhưng việc thiếu quy định liên quan tới tác động của công nghệ Deepfake tới trẻ em có thể gián tiếp giúp tội phạm mạng tiếp tục thực hiện hành vi tạo dựng CSAM và xâm phạm quyền được bảo vệ của trẻ em mà không bị truy tố trách nhiệm. Tuy nhiên, để ban hành một khung pháp lý toàn diện quy định về công nghệ Deepfake, các nhà lập pháp trước hết cần cân nhắc tới những quy định về CSAM. Điều này dẫn tới vấn đề thứ hai, đó là sự thiếu toàn diện của các quy định pháp luật về nội dung lạm dụng tình dục trẻ em được tạo lập hoàn toàn bởi AI tại một số quốc gia. Trên thực tế, CSAM có thể chia thành hai loại chính, tạm gọi là CSAM thật (sử dụng hình ảnh thật của trẻ em có hành động khiêu dâm) và CSAM ảo (không cần thiết phải sử dụng hình ảnh thật mà có thể là những hình ảnh giả lập hoàn toàn mới).[34] Vấn đề pháp lý được đặt ra với CSAM ảo rằng liệu hành vi tạo dựng loại nội dung này có vi phạm quyền lợi của trẻ em không khi những tài liệu này không có sự xuất hiện của trẻ em thật sự. Việc những quy định pháp luật hiện hành tại các quốc gia về AI nói chung, mặc dù có đề cập tới CSAM, nhưng thiếu sự liên hệ với CSAM ảo và hệ quả của nội dung ảo tới trẻ em khiến việc giải quyết vấn đề này còn nhiều khó khăn. Phân tích trường hợp của EU, các văn bản pháp lý quan trọng trong khu vực bao gồm Công ước về Tội phạm Mạng, Công ước Lanzarote, và Chỉ thị EU 2011/93/EU đều định nghĩa CSAM là hình ảnh hoặc tài liệu mô tả hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em, chủ yếu được hiểu là hình ảnh hoặc video thật được ghi lại từ các hành vi lạm dụng tình dục trẻ em.[35] Điều này có thể tạo ra lỗ hổng trong việc xử lý CSAM ảo do Deepfake tạo ra bởi các tài liệu này không liên quan đến việc lạm dụng thực tế trẻ em mà chỉ là sự mô phỏng hoặc giả lập. Vì vậy, mặc dù các văn bản pháp lý của EU đã đưa ra cơ sở để xử lý CSAM thực tế và CSAM do công nghệ tạo ra, nhưng định nghĩa chỉ tập trung vào trẻ em thật có thể cản trở quy trình xử lý hành vi liên quan đến CSAM ảo. Đối với UNCRC là văn kiện pháp lý quốc tế toàn diện nhất về quyền trẻ em hiện nay, nội dung khiêu dâm trẻ em trong Công ước này được xác định là “các buổi trình diễn và tài liệu khiêu dâm” (pornographic performances and materials)[36] - một khái niệm bao quát và có thể gián tiếp gây ra khó khăn trong việc xác minh hành vi xâm hại nếu tội phạm tạo dựng CSAM ảo. Trong một số trường hợp, hành vi tạo dựng CSAM ảo còn liên quan tới quyền tự do ngôn luận, gây ra sự mâu thuẫn trực tiếp giữa quyền được bảo vệ của trẻ em và các quyền con người khác. Vấn đề này đã được đề cập trong vụ kiện liên quan tới các điều khoản cấm nội dung “khiêu dâm trẻ em ảo” được tạo ra bằng cách sử dụng các phương pháp giả lập trên máy tính trong Đạo luật Phòng chống Khiêu dâm Trẻ em của Hoa Kỳ (“CPPA”) năm 1966.[37] Tòa án Tối cao Hoa Kỳ nhận định các điều khoản này quá rộng, dẫn đến việc hình sự hóa các nội dung hợp pháp bao gồm các tác phẩm nghệ thuật, phim ảnh hoặc văn học, từ đó kết luận rằng các điều khoản này vi phạm quyền tự do ngôn luận được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ.[38] Tòa cũng nhấn mạnh rằng nội dung giả lập hoặc hoạt hình không làm tổn hại trực tiếp đến bất kỳ đứa trẻ nào, do đó không cần phải bị cấm theo cách thức tương tự như CSAM sử dụng hình ảnh trẻ em thật, vì vậy các điều khoản này cần bị vô hiệu trừ khi nó liên quan đến người thật hoặc có mục đích khai thác bất hợp pháp.[39] Sau khi các điều khoản cấm trong CPPA bị loại bỏ, Đạo luật PROTECT và các quy định pháp lý khác đã phần nào thay thế và tạo cơ sở để xử lý một số trường hợp nội dung giả lập được tạo bằng công nghệ mới, nhưng không triệt để giải quyết các thách thức về CSAM ảo.[40] Điều này khiến quyền được bảo vệ của trẻ em không những không được thực thi mà còn gây bất lợi cho những quyền con người khác, ví dụ như quyền tự do ngôn luận. 2.2. Hạn chế về chế tài truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tội phạm Deepfake CSAM 2.2.1. Thách thức trong việc xác định thủ phạm Những thách thức trong việc xác định đối tượng chịu trách nhiệm pháp lý cho các hành vi sử dụng Deepfake tạo lập CSAM đang trở nên phức tạp do các luật hiện hành đối với công nghệ Deepfake không rõ ràng, một số tập trung vào việc buộc cá nhân tạo ra và đăng tải Deepfake CSAM chịu trách nhiệm, một số khác khởi kiện các nền tảng Internet nơi đăng tải nội dung này. Việc tìm hoặc xác định thủ phạm Deepfake CSAM là thách thức lớn với hai lý do: (1) nhiều trang web như Reddit, Twitter và Pornhub cho phép người dùng sử dụng chế độ ẩn danh - một trong những nguyên nhân lý giải cho việc Deepfake đã phát triển mạnh trên các nền tảng này; và (2) những người tạo Deepfake có thể sử dụng phần mềm như Tor[41] để làm cho địa chỉ giao thức Internet (Internet Protocol - IP) liên quan đến các thủ phạm đăng tải loại nội dung này không thể bị truy tìm.[42] Trong trường hợp gặp khó khăn với việc tìm kiếm thủ phạm, nạn nhân có thể cân nhắc việc khởi kiện đối với nền tảng Internet nơi video được đăng tải. Tuy nhiên, việc loại bỏ các video sau khi chúng được đăng tải lên Internet gặp nhiều khó khăn: (1) các nhà lập pháp không thể kiểm soát được những trang web mà thủ phạm dùng để đăng tải các nội dung Deepfake CSAM; (2) việc loại bỏ chúng một cách nhanh chóng rất khó khăn, và thiệt hại về danh tiếng và cảm xúc có thể xảy ra đối với nạn nhân, đặc biệt với đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em. Bên cạnh đó, nạn nhân có thể đối mặt với một số quy định liên quan đến cơ chế bảo vệ các trang web khỏi trách nhiệm dân sự và hình sự đối với nội dung của bên thứ ba. Cách khắc phục này có thể lấy dẫn chứng liên quan đến Mục 230 của đạo luật về Chuẩn mực Truyền thông. Theo Mục 230: “Không nhà cung cấp hoặc người dùng dịch vụ máy tính tương tác nào bị coi là nhà xuất bản hoặc người phát ngôn của bất kỳ thông tin nào do một nhà cung cấp nội dung thông tin khác cung cấp.” [43] Về lý thuyết, Quốc hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật này để phát triển ngành công nghiệp mới, đồng thời khuyến khích các nền tảng trực tuyến xóa bỏ nội dung có hại cho trẻ em. Tuy nhiên, sự thay đổi về công nghệ và cách giải thích mở rộng mà tòa án đưa ra cho Mục 230 đã khiến các nền tảng này được miễn trừ với việc kiểm duyệt nội dung Deepfake CSAM trên dịch vụ của họ.[44] 2.2.2. Hạn chế của pháp luật hiện hành trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý Thứ nhất,  các đạo luật hiện tại các quốc gia phần lớn dừng lại ở việc truy cứu trách nhiệm hình sự với người chia sẻ chứ không phải người tạo ra những nội dung bất hợp pháp. Ví dụ, năm 2020, Hàn Quốc đã thông qua một dự luật hình sự hóa tội mua bán, lưu trữ hoặc xem hình ảnh, video Deepfake khiêu dâm với mức án cao nhất là 03 năm tù và nộp phạt 30 triệu won.[45] Dự luật Tư pháp Hình sự của Anh, bao gồm đề xuất tạo ra tội danh mới liên quan đến việc tạo dựng hình ảnh Deepfake có nội dung khiêu dâm sẽ không tiếp tục được thông qua trong quá trình lập pháp. Tội danh hiện có về việc chia sẻ các hình ảnh Deepfake như vậy đã được đưa vào Đạo luật An toàn Trực tuyến 2023[46] và vẫn tiếp tục được áp dụng.[47] Thứ hai,  chưa có một văn bản pháp luật quốc tế chống lại Deepfake CSAM. Bản chất của Deepfake CSAM, giống như các tội phạm trên Internet khác, là một hành vi vượt ra ngoài giới hạn pháp lý của bất kỳ khu vực cụ thể nào.[48] Người tạo nội dung bằng Deepfake có thể sống ở một nơi, trong khi nạn nhân sống ở nơi khác, và nội dung Deepfake vẫn có thể được phát tán rộng rãi trên toàn cầu thông qua Internet. Thứ ba,  các cơ quan pháp lý có thể truy tố trách nhiệm tới các tội danh liên quan khác, ví dụ như giả mạo danh tính. Tuy nhiên, mỗi nạn nhân của Deepfake đều đối mặt với các trở ngại như khó khăn trong việc phân biệt những chi tiết cơ thể thuộc về họ với những chi tiết cơ thể tạo bởi CSAM ảo. Ngoài ra, việc trẻ em là nạn nhân có thể dẫn đến trường hợp nạn nhân không muốn thông tin cá nhân của mình bị tiết lộ rộng rãi, những yếu tố này có thể gây khó khăn cho các nhà lập pháp trong việc ban hành và áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, các hình thức tội phạm mạng bao gồm hành vi truy cập trái phép chỉ áp dụng trong những trường hợp khi hình ảnh được sử dụng trong việc tạo ra Deepfake CSAM được lấy từ việc truy cập trái phép vào máy tính hoặc hộp thư trực tuyến của nạn nhân. Những tội danh trên có thể là lựa chọn để truy tố Deepfake CSAM, nhưng hiện vẫn chưa phải là giải pháp lý tưởng vì chúng không tập trung vào tác hại thực sự của việc tạo nội dung Deepfake CSAM và cũng không có phạm vi áp dụng rộng. Ngay cả khi các cơ quan có thể chứng minh mức độ tổn hại, xác định danh tính nạn nhân và tìm ra thủ phạm tạo Deepfake CSAM, việc thi hành biện pháp khắc phục có thể gặp nhiều thách thức. Các nạn nhân và học giả luật đã nhanh chóng chỉ ra rằng luật hình sự hiện tại là không đủ để trừng phạt hay khắc phục những tổn hại mà nạn nhân phải chịu.[49] Việc chịu trách nhiệm dân sự của tội phạm cũng có thể bị hạn chế trong trường hợp những người này không đủ khả năng tài chính để bồi thường hoặc chịu án, do đó không đủ mức răn đe đối với hành vi trái pháp luật của họ. Thứ hai, những vụ điều tra và kiện tụng thường yêu cầu mức chi phí cao, phần nào hạn chế số người sử dụng biện pháp khởi kiện và yêu cầu bồi thường nếu không đủ nguồn lực tài chính.[50] 3. Đề xuất giải pháp cho hệ thống pháp luật liên quan đến Deepfake CSAM 3.1. Đề xuất sửa đổi, bổ sung khung pháp lý Việt Nam và luật quốc tế Trước hết, các nhà lập pháp và cơ quan liên quan cần sửa đổi pháp luật để định nghĩa rõ ràng hơn về nội dung Deepfake CSAM và hình sự hóa hành vi liên quan một cách cụ thể với mức hình phạt tương xứng với tội danh. Mặc dù Bộ luật Hình sự có quy định hình sự hóa tội danh liên quan đến nội dung khiêu dâm nói chung,[51] nhưng vẫn chưa có định nghĩa về văn hóa phẩm có nội dung Deepfake CSAM. Bên cạnh đó, không có quy định bảo vệ đặc biệt nào đối với trẻ em và hình phạt chưa tương xứng với tội danh liên quan đến văn hóa phẩm có nội dung này. Bên cạnh đó, việc thông qua một văn bản pháp luật quốc tế có quy định cụ thể về Deepfake CSAM sẽ là biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ hơn đối với việc tạo và chia sẻ nội dung này. Những nỗ lực chậm chạp và không đồng đều trong việc ban hành luật cấm Deepfake ở cấp độ quốc gia hay khu vực trong thập kỷ qua cho thấy nhiều khó khăn trong bối cảnh công nghệ ngày càng tinh vi và dễ tiếp cận hơn. Hình sự hóa Deepfake CSAM ở cấp quốc tế cho thấy đây là vấn đề mang tính quan tâm quốc gia và báo hiệu mức độ thiệt hại đối với nạn nhân, góp phần khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ Internet trong việc loại bỏ nội dung khiêu dâm trẻ em.   3.2. Các giải pháp ngoài luật Ngoài việc ban hành các đạo luật, các cơ quan liên quan cần phát triển các giải pháp hỗ trợ để chống lại Deepfake CSAM. Theo Báo cáo của Dự án Ngăn chặn hành vi gây tổn hại Việt Nam, việc chưa có thống kê cụ thể về số lượng các tội liên quan đến xâm hại tình dục trẻ em qua mạng có thể ảnh hưởng đến đánh giá tổng quan để xây dựng các chính sách bảo vệ trẻ em hiệu quả.[52] Từ hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em liên quan đến môi trường kỹ thuật số,[53] Việt Nam cần thiết lập và hoàn thiện chương trình cơ sở dữ liệu về Deepfake CSAM để các cơ quan chức năng tham gia cập nhật thông tin nhằm ngăn ngừa việc đăng tải, chia sẻ các nội dung này. Vấn đề quan trọng không kém đó là nâng cao kiến thức về Deepfake CSAM một cách đầy đủ cho tất cả các đối tượng, đặc biệt là trẻ em. Đây cũng là lời kêu gọi của Liên hợp quốc tới các quốc gia trong việc trang bị kiến thức kỹ thuật số và nhận thức về các rủi ro, nhằm hỗ trợ trẻ em thực hiện các quyền của mình, bao gồm quyền được bảo vệ, liên quan đến môi trường kỹ thuật số.[54] Kết luận Tóm lại, từ việc nghiên cứu những quy định về quyền được bảo vệ của trẻ em và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi sử dụng Deepfake tạo dựng CSAM, nhóm tác giả nhận thấy việc xây dựng và thực thi những điều khoản này còn tồn tại một số hạn chế. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cập nhật và hoàn thiện khung pháp lý hiện hành trong phạm vi quốc tế và quốc gia, đồng thời đề xuất hướng đi phù hợp cho Việt Nam trong việc cải thiện các chế tài pháp lý hiện có nhằm đảm bảo một khung pháp luật toàn diện cho trẻ em. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vũ Phạm Phương Nhi - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Phạm Thị Quỳnh Anh - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao; Lưu Ngọc Minh Châu - Sinh viên Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2] National Centre for Missing & Exploited Children (NCMEC), ‘CyberTipline 2023 Report’ < https://www.missingkids.org/content/dam/missingkids/pdfs/2023-CyberTipline-Report.pdf > truy cập ngày 10/11/2024. [3] Farid Harry, ‘A survey of image forgery detection’ (2009) 26(2) IEEE Signal Process Mag. [4] NYIT, ‘Deepfakes: How Do They Work and What Are the Risks?’ The Cyber Corner (06/12/2023) < https://blogs.nyit.edu/the_cyber_corner/deepfakes_how_do_they_work_and_what_are_the_risks > truy cập ngày 13/11/2024. [5] Trịnh Thị Thu Vân, ‘Thách thức của Deepfake và vấn đề thực thi pháp luật’  Tạp chí An toàn thông tin, < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/thach-thuc-cua-deepfake-va-van-de-thuc-thi-phap-luat-108352 > truy cập ngày 13/11/2024. [6] Trịnh Thị Thu Vân, ‘Thách thức của Deepfake và vấn đề thực thi pháp luật’ Tạp chí An toàn thông tin, < https://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/thach-thuc-cua-deepfake-va-van-de-thuc-thi-phap-luat-108352 > truy cập ngày 13/11/2024. [7] Như trên. [8] Như trên. [9] Như trên. [10] ‘Deepfakes: How Do They Work and What Are the Risks?’ (2023) New York Tech Blogs < https://blogs.nyit.edu/the_cyber_corner/deepfakes_how_do_they_work_and_what_are_the_risks > truy cập ngày 16/11/2024. [11] Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu đề 18, § 2256. [12] National Center for Missing and Exploited Children, 'Child Sexual Abuse Material (CSAM)' (2024) < https://www.missingkids.org/theissues/csam#overview > truy cập ngày 17/11/2024. [13] Thorn, ‘Child sexual abuse material (CSAM)’ (2024) < https://www.thorn.org/research/child-sexual-abuse-material-csam/ > truy cập ngày 17/11/2024. [14] Như trên. [15] Mô hình tạo sinh là loại mô hình có khả năng tạo ra dữ liệu mới, chẳng hạn như hình ảnh hoặc âm thanh, bằng cách bắt chước dữ liệu mà chúng đã được nhận. [16] David Thiel, Melissa Stroebel và Rebecca Portnoff, ‘Generative ML and CSAM: Implications and Mitigations’ (2023), trang 2. [17] Như trên. [18] IWF (Internet Watch Foundation) là tổ chức phi lợi nhuận tại Anh, chuyên phát hiện và xử lý nội dung bất hợp pháp trên không gian mạng, đặc biệt là CSAM; hợp tác với chính phủ, nhà cung cấp dịch vụ Internet và công ty công nghệ để gỡ bỏ nội dung độc hại, tạo môi trường mạng an toàn hơn, đặc biệt cho trẻ em. [19] Internet Watch Foundation (IWF), AI and CSAM Report Update: Public, July 2024 (IWF, 2024) < https://www.iwf.org.uk/media/nadlcb1z/iwf-ai-csam-report_update-public-jul24v13.pdf > truy cập ngày 17/11/2024. [20] Internet Watch Foundation (IWF), AI and CSAM Report Update: Public, July 2024 (IWF, 2024) < https://www.iwf.org.uk/media/nadlcb1z/iwf-ai-csam-report_update-public-jul24v13.pdf > truy cập ngày 17/11/2024. [21] Đạo luật Bảo vệ Trẻ em 1978, Điều 1. [22] Đạo luật Điều tra Nguyên nhân Tử vong và Tư pháp 2009, Điều 62. [23] Bộ luật Hoa Kỳ 2018, Tiêu đề 18. [24] Bộ luật Hoa Kỳ 2018, Tiêu đề 18, §§ 2251, 2252, 2252A. [25] Bộ luật Hoa Kỳ 2018, Tiêu đề 18, §§ 2251. [26] Bộ luật Hoa Kỳ 2018, Tiêu đề 18, §§ 2252. [27] Dương Đăng Huệ, ‘Bộ luật Dân sự năm 2015 và vấn đề bảo đảm quyền dân sự của doanh nghiệp’ < https://htpldn.moj.gov.vn/SMPT_Publishing_UC/TinTuc/PrintTL.aspx?idb=2&ItemID=1839&l=/noidung/tintuc/Lists/Nghiencuutraodoi >. [28] ‘History of child rights’  (UNICEF)  < https://www.unicef.org/child-rights-convention/history-child-rights > truy cập ngày 12/11/2024. [29] ‘What is the Convention on the Rights of the Child?’ (UNICEF)  < https://www.unicef.org/thailand/what-is-crc > truy cập ngày 12/11/2024. [30] Quy định Bảo vệ Dữ liệu Chung, Điều 8. [31] Jennifer Lynn Williston, ‘Congress, Ashcroft continue on their quests to craft First Amendment-friendly laws limiting online porn’ ( Reporters Committee for Freedom of the Press)  < https://www.rcfp.org/journals/the-news-media-and-the-law-summer-2002/congress-ashcroft-continue > truy cập ngày 14/11/2024. [32] UNICEF’s Office of Global Insight and Policy, ‘Policy guidance on AI for children’ (2021) 11 < https://www.unicef.org/innocenti/reports/policy-guidance-ai-children > truy cập ngày 14/11/2024. [33] Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh Châu Âu, Điều 5(1)(b). [34] Judit Szabó và Katalin Parti, ‘The Legal Challenges of Realistic and AI-Driven Child Sexual Abuse Material: Regulatory and Enforcement Perspectives in Europe’ (2024) 13(6) MDPI 1 < https://www.mdpi.com/2075-471X/13/6/67 > truy cập ngày 16/11/2024. [35] Judit Szabó và Katalin Parti, ‘The Legal Challenges of Realistic and AI-Driven Child Sexual Abuse Material: Regulatory and Enforcement Perspectives in Europe’ (2024) 13(6) MDPI 13 < https://www.mdpi.com/2075-471X/13/6/67 > truy cập ngày 16/11/2024. [36] Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em, Điều 34(c). [37] Harshita K. Ganesh, ‘Protecting Children Through Deepfake Child Pornography: A Moral, Legal, and Philosophical Discussion on the Intersection of the Evolution in Law and Technology’ (2022) 60 Georgetown Law 3 < https://www.law.georgetown.edu/american-criminal-law-review/aclr-online/volume-60/protecting-children-through-deepfake-child-pornography > truy cập ngày 16/11/2024. [38] Ashcroft v. Free Speech Coalition, 535 U.S. 234 (2002), p.248. [39] Ashcroft v. Free Speech Coalition, 535 U.S. 234 (2002), p.236. [40] Eryn Yuen, ‘Child Pornography and Revenge Pornography Laws Stand No Chance Against Deepfakes’ (2021) 3 Johns Hopkins Undergraduate Law Review 128 < https://issuu.com/jhulawreview/docs/spring_21_journal/121 > truy cập ngày 16/11/2024. [41] Tor là phần mềm máy tính có chức năng xóa dấu vết, ẩn địa chỉ giao thức Internet xuất xứ của máy truy cập Internet khi gửi hay nhận thông tin qua mạng Internet. [42] Rebecca A. Delfino, ‘Pornographic Deepfakes: The Case for Federal Criminalization of Revenge Porn’, (2019) < https://ir.lawnet.fordham.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=5640&context=flr > truy cập ngày 14/11/2024. [43] Đạo luật về Chuẩn mực Truyền thông, Mục 230. [44] U.S. Department of Justice, ‘Department of Justice's review of Section 230 of the Communications Decency Act of 1996’ ( 2020) < https://www.justice.gov/archives/ag/department-justice-s-review-section-230-communications-decency-act-1996 >. [45] Vũ Hoàng, ‘Người xem deepfake khiêu dâm ở Hàn Quốc có thể bị phạt 3 năm tù’, 2024,   https://vnexpress.net/nguoi-xem-deepfake-khieu-dam-o-han-quoc-co-the-bi-phat-3-nam-tu-4797445.html  truy cập ngày 15/11/2024. [46] Đạo luật An toàn Trực tuyến 2023, Mục 188. [47] Herbert Smith Freehills, ‘Criminalising deepfakes – the UK's new offences following the Online Safety Act’,   https://www.herbertsmithfreehills.com/notes/tmt/2024-05/criminalising-deepfakes-the-uks-new-offences-following-the-online-safety-act  truy cập ngày 15/11/2024. [48] Rebecca A. Delfino, ‘Pornographic Deepfakes: The Case for Federal Criminalization of Revenge Porn’, (2019) < https://ir.lawnet.fordham.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=5640&context=flr > truy cập ngày 14/11/2024. [49] Rebecca A. Delfino, ‘Pornographic Deepfakes: The Case for Federal Criminalization of Revenge Porn’, (2019) < https://ir.lawnet.fordham.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=5640&context=flr > truy cập ngày 14/11/2024. [50] Rebecca A. Delfino, ‘Pornographic Deepfakes: The Case for Federal Criminalization of Revenge Porn’, (2019) < https://ir.lawnet.fordham.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=5640&context=flr > truy cập ngày 14/11/2024. [51] Bộ luật Hình sự Việt Nam, Điều 326. [52] ECPAT, INTERPOL và UNICEF, ‘Báo cáo tổng quan nghiên cứu Ngăn chặn hành vi gây tổn hại tại Việt Nam: Bằng chứng về bóc lột và xâm hại tình dục trẻ em qua mạng’ (2022) < https://ecpat.org/wp-content/uploads/2022/08/DH_Viet-Nam_Viet_ONLINE.pdf > truy cập ngày 17/11/2024. [53] Bình luận chung số 25 về quyền trẻ em liên quan đến môi trường kỹ thuật số, Đoạn 30: “Dữ liệu và nghiên cứu được cập nhật thường xuyên đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ những tác động của môi trường kỹ thuật số đối với cuộc sống của trẻ em, đánh giá ảnh hưởng đến các quyền của trẻ em và xem xét hiệu quả của các can thiệp từ phía nhà nước. Các quốc gia thành viên cần đảm bảo thu thập dữ liệu toàn diện, đáng tin cậy, được cung cấp đủ nguồn lực và dữ liệu được phân tách theo độ tuổi, giới tính, khuyết tật, vị trí địa lý, nguồn gốc dân tộc và quốc gia, cũng như hoàn cảnh kinh tế xã hội”. [54] Bình luận chung số 25 về quyền trẻ em liên quan đến môi trường kỹ thuật số, Đoạn 21: “Các quốc gia nên hỗ trợ cha mẹ và người chăm sóc trong việc trang bị kiến thức kỹ thuật số và nhận thức về các rủi ro đối với trẻ em, nhằm giúp họ hỗ trợ trẻ em thực hiện các quyền của mình, bao gồm quyền được bảo vệ, liên quan đến môi trường kỹ thuật số”.

  • [63] XÂY DỰNG KHUNG PHÁP LÝ VỀ VŨ KHÍ SÁT THƯƠNG TỰ ĐỘNG VỚI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TRONG XUNG ĐỘT VŨ TRANG DƯỚI GÓC NHÌN CỦA LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Nguyễn Hoàng Vân Ly, Phạm Thảo Nguyên, Phạm Nam Khánh[1] Tóm tắt: Vũ khí sát thương tự động (Lethal Autonomous Weapon Systems - LAWS) là một khái niệm mới, chưa có định nghĩa cũng như quy phạm cụ thể trong các văn kiện quốc tế nói chung và Luật Nhân đạo quốc tế nói riêng. LAWS trong cộng đồng quốc tế đã được tận dụng rất nhiều trong hệ thống tấn công và phòng thủ của các quốc gia, đặc biệt là trong viễn cảnh của các cuộc xung đột vũ trang. Không thể phủ nhận sự đa dụng của trí tuệ nhân tạo được tích hợp trong LAWS, nhưng điều này đã làm phát sinh các vấn đề về quy kết trách nhiệm pháp lý cũng như bảo hộ mục tiêu dân sự và dân thường trong các cuộc xung đột vũ trang. Cụ thể, quá trình tạo ra LAWS bao gồm sự tham gia của nhiều cá nhân hoặc tổ chức, và việc thiếu đi phẩm chất đặc trưng của con người đã đặt ra rất nhiều thách thức cho các nhà luật học trong việc xây dựng hành lang pháp lý. Từ những lý do này, bài nghiên cứu của nhóm tác giả sẽ làm rõ các khía cạnh của các vấn đề pháp lý nêu trên theo các quy phạm liên quan đến Luật Nhân đạo quốc tế. Bên cạnh đó, thông qua phương pháp phân tích và tổng hợp, bài nghiên cứu sẽ đưa ra nhận định về những thách thức liên quan, đồng thời đưa ra một số đề xuất nhằm cụ thể hoá việc xây dựng khung pháp lý để kiểm soát LAWS dưới góc nhìn của Luật Nhân đạo quốc tế.   Từ khóa: Luật Nhân đạo Quốc tế, vũ khí sát thương tự động, trí tuệ nhân tạo, trách nhiệm pháp lý, bảo hộ.    1. Mở đầu Luật Nhân đạo quốc tế (International Humanitarian Law - IHL), hay còn được gọi là “Luật chiến tranh", là tổng hợp các quy phạm pháp luật được tạo ra với mục đích bảo vệ những cá nhân trong một cuộc xung đột vũ trang; hoặc không còn thực hiện nghĩa vụ chiến đấu trên chiến trường. Về cơ bản, IHL nghiêm cấm tất cả các loại hình thức giao chiến, vũ khí có khả năng “gây ra những thương tích hoặc đau đớn không cần thiết" theo Điều 35 Nghị định bổ sung thứ I của Công ước Geneva về vấn đề Bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang quốc tế (1977). Vũ khí sát thương tự động (Lethal Autonomous Weapons Systems - LAWS) cùng với sự kết hợp trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) đã gây ra nhiều tranh luận sôi nổi và phức tạp trong việc tạo ra các quy phạm pháp luật điều chỉnh loại vũ khí mới này. Việc nghiên cứu và làm rõ các khía cạnh của LAWS, đồng thời củng cố lại   hệ thống quy phạm của IHL có ý nghĩa quan trọng trong việc cân bằng lợi ích của các quốc gia khi phát triển và sử dụng công nghệ AI hiện đại tích hợp vào LAWS; cũng như để đảm bảo an ninh toàn cầu một cách tối ưu nhất.   2. Khái quát về Vũ khí sát thương tự động (LAWS) 2.1. Định nghĩa về Vũ khí sát thương tự động Hiện nay chưa có một định nghĩa chính thức về LAWS được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế.[2] Thông thường, có ba cách tiếp cận để định nghĩa LAWS: theo đặc tính kỹ thuật, theo mức độ can thiệp của con người và theo các chức năng hoặc việc mà vũ khí có thể vận hành tự động.[3] Uỷ ban Chữ thập đỏ Quốc tế (International Committee of the Red Cross - ICRC) đưa ra một nhận định như sau: “...là bất kì loại vũ khí nào tự động trong chức năng cốt lõi, chức năng này được hiểu là chọn mục tiêu…và tấn công mục tiêu… mà không cần sự can thiệp của con người”.[4] Đây là một định nghĩa rộng và tập trung vào chức năng cốt lõi thay vì tất cả các chức năng của vũ khí, và Uỷ ban cho rằng chỉ sự tự động trong chức năng cốt lõi mới được coi là LAWS.[5] Một vài quan điểm khác cũng đưa ra cách tiếp cận gần như tương tự, tuy nhiên bổ sung về một số tiêu chí kỹ thuật. Ví dụ, chỉ rõ rằng vũ khí đó chỉ tự động sau sự kích hoạt của con người[6] hay liên hệ tới loại vũ khí này như một rô-bốt,[7] có khả năng tự chủ và có thể gây chết người.[8] Bên cạnh đó, có quan điểm giải thích rằng vũ khí sát thương tự động được lập trình theo công thức Nếu/Thì, tuy nhiên nó có cảm biến để tương tác với môi trường xung quanh,[9] và phải phân biệt giữa tính tự động với tính thông minh của vũ khí.[10] Tóm lại, có thể hiểu LAWS là loại vũ khí gây chết người có sự tự do nhất định trong việc thực hiện chức năng quan trọng của mình, thường là chức năng chọn và tấn công, có tính tự động thể hiện qua việc tương tác với môi trường và cần ít sự can thiệp của con người.   2.2. Phân loại vũ khí sát thương tự động Có nhiều cách để phân loại LAWS, tuy nhiên phân loại theo mức độ tự động hóa trong mối tương quan với mức độ can thiệp của con người là phù hợp nhất cho định hướng nghiên cứu của nhóm tác giả. Theo cách phân loại đó, có ba loại LAWS như sau:[11] Thứ nhất , loại vũ khí mà con người có trong vòng lặp (human-in-the-loop). Đây là loại vũ khí chỉ có thể tự động trong vận hành khi có mệnh lệnh của con người[12] (điều khiển từ xa, nhập lệnh,...). Một ví dụ có thể kể tới là các loại đạn hành trình (precise-guided munition) với công nghệ bám sát lộ trình và mục tiêu bắn được khoá bởi con người.[13] Thứ hai , loại vũ khí mà con người có thể can thiệp (human-on-the-loop), hay còn gọi là vũ khí bán tự động,[14] là loại vũ khí phụ thuộc vào sự can thiệp của con người trong một số chức năng, từ tìm tới diệt mục tiêu[15] và con người cũng có thể dừng hoạt động của vũ khí này nếu cần thiết hoặc tái quyết định mục tiêu của vũ khí. Thứ ba , loại vũ khí mà con người không can thiệp (human-out-of-the-loop) hay vũ khí tự động hoàn toàn. Bên cạnh việc có thể tự do trong chọn và tìm mục tiêu hạ gục, loại vũ khí tự động này có thể thích ứng với sự thay đổi của môi trường và phản hồi tương ứng.[16] Như vậy, tính “tự động” của LAWS phụ thuộc vào mức độ can thiệp vận hành của con người trong việc điều động và sử dụng, tuỳ vào độ phức tạp của công nghệ cũng như đặc điểm của môi trường xảy ra xung đột. Điều này tạo khó khăn trong việc xây dựng một khung pháp lý để điều chỉnh, thậm chí là cấm các loại LAWS cũng như truy cứu trách nhiệm của người sử dụng vũ khí do các đặc điểm về đối tượng của ngành Luật Nhân đạo quốc tế.   2.3. Các quy định liên quan của IHL về LAWS IHL, vốn được áp dụng cho các quốc gia tham gia xung đột vũ trang; bảo vệ chiến binh mất khả năng tham chiến và dân thường, đòi hỏi việc phát triển, sử dụng và điều động LAWS phải tuân thủ quy định nghiêm ngặt, đặc biệt khi trách nhiệm của con người không thể chuyển giao cho máy móc và hiện tại chưa có điều ước quốc tế nào cụ thể cấm loại vũ khí này. Trước hết, việc sử dụng loại vũ khí này cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của IHL mà đặc biệt phải kể tới nguyên tắc phân biệt, tương xứng và cẩn trọng. Cụ thể, nguyên tắc phân biệt, được ghi nhận tại Điều 48 Nghị định thư bổ sung 1,[17] quy định các bên tham gia xung đột chỉ được tấn công trực tiếp vào các mục tiêu quân sự - những mục tiêu có đóng góp hiệu quả cho hành động quân sự và việc phá hủy hoặc vô hiệu hóa mục tiêu đó mang lại lợi thế quân sự nhất định. Nguyên tắc tương xứng, được ghi nhận tại Đ iều 51(5)(b) Nghị định thư bổ sung I,[18] giảm thiểu thiệt hại cho dân thường và các công trình dân sự bằng cách cấm các cuộc tấn công có khả năng gây thương vong ngẫu nhiên tới hai đối tượng này tới mức vượt quá lợi thế quân sự trực tiếp và cụ thể đã được dự tính. Cũng liên quan tới dân thường và mục tiêu dân sự, nguyên tắc cẩn trọng, được ghi nhận tại Điều 57 Nghị định thư bổ sung I,[19] đề ra quy tắc dù cuộc tấn công có nhằm vào mục tiêu quân sự và đảm bảo tính tương xứng, các bên vẫn có nghĩa vụ cẩn trọng để tránh và giảm thiểu thiệt hại đối với dân thường và các mục tiêu dân sự. Các nguyên tắc trên có thể được sử dụng như là cơ sở để tạo nghĩa vụ cho các cá nhân tham chiến vận hành vũ khí sát thương tự động, họ là người cần tôn trọng các quy định và nhận trách nhiệm cho bất kỳ thiệt hại nào mình gây ra. Tuy nhiên, do tồn tại mức độ tự động hoá cao tới mức tự chủ hoàn toàn của loại vũ khí này, việc truy cứu trách nhiệm gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh các quy định dành cho cá nhân tham chiến, theo Điều 36 Nghị định thư bổ sung I, các quốc gia thành viên của các Công ước và Nghị định thư bổ sung của ICRC cũng có nghĩa vụ phải thực hiện nghiên cứu và rà soát pháp lý đối với các loại vũ khí mới. Điều này là quan trọng bởi nó đảm bảo quốc gia đó tham chiến và tôn trọng nghĩa vụ quốc tế của mình[20]. Điều khoản Marten[21] quy định rằng trong trường hợp chưa có điều ước quốc tế để điều chỉnh, thường dân và người tham chiến được bảo vệ bởi các quy định tập quán của IHL, nguyên tắc nhân đạo[22] và chỉ định của dư luận xã hội (dictate of the public conscience).[23] Các quốc gia đã nhiều lần thảo luận về các tác động của loại vũ khí này trong Công ước về Vũ khí thông thường năm 1980 (CCW) - một Hiệp định kiểm soát vũ khí đa phương với mục đích cấm hoặc hạn chế việc sử dụng các loại vũ khí được coi là có thể gây ra những thiệt hại không cần thiết hoặc vô cớ đối với người tham chiến hoặc dân thường một cách bừa bãi.[24] Hiện nay, nhóm chuyên gia các nước thành viên vẫn tiếp tục họp và thảo luận để xây dựng một khung pháp lý điều chỉnh LAWS.   3. Những thách thức pháp lý trong việc kiểm soát sử dụng LAWS tích hợp AI: 3.1. Đối tượng chịu trách nhiệm pháp lý trong việc sử dụng LAWS. ICRC đã đề cập rằng những điều lệ của IHL chỉ có thể áp dụng được lên các cá nhân là con người,[25] và: “Những quy định này không thể được áp dụng lên máy móc”.[26] Mặc dù hệ thống được đề cập tới là hệ thống vũ khí tự động, nhưng bản thân vũ khí sát thương tự động chính là vũ khí tự động với mục đích cụ thể hơn, ví dụ như áp dụng sát thương, trái ngược với sự vận dụng rộng hơn của vũ khí tự động.[27] Vấn đề được đặt ra ở đây là ai sẽ thực sự là người chịu trách nhiệm cho những vấn đề pháp lý và những thiệt hại gây ra bởi những hệ thống vũ khí sát thương tự động này. Cho đến hiện tại, pháp luật quốc tế vẫn chưa tồn tại một khung pháp lý nào đề cập trực tiếp tới việc gán trách nhiệm cho ai khi vũ khí sát thương tự động vi phạm pháp luật quốc tế, gây ra khó khăn trong việc truy cứu trách nhiệm cũng như xét xử. Tuy vậy, việc áp dụng các khung pháp lý quốc tế có sẵn cho LAWS cũng có thể được đưa vào xem xét. Một ví dụ cho việc liệu trách nhiệm pháp lý sẽ được quy kết lên ai có thể được xem xét qua sự ứng dụng của máy bay không người lái Kargu-5 dựa trên cơ sở pháp luật quốc tế hiện nay. Lần đầu tiên Liên hợp quốc sử dụng cụm “vũ khí sát thương tự động” áp dụng cho máy bay không người lái Kargu-2 được sản xuất tại Thổ Nhĩ Kỳ. Báo cáo của Liên hợp quốc đề cập rằng Kargu-2 được sử dụng trong hoàn cảnh của cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế diễn ra ở Libya[28]. Trong báo cáo này, Liên hợp quốc đã miêu tả máy bay không người lái Kargu-2 như sau: “Các hệ thống LAWS được lập trình để tấn công mà không cần kết nối dữ liệu giữa người điều khiển và vũ khí: về cơ bản, một khả năng bắn, quên và tìm thực sự”.[29] Ở đây, Liên hợp quốc đã miêu tả rằng Kargu-2 đã được lập trình để ở trong trạng thái chủ động hoàn toàn và không cần người điều khiển. Báo cáo không hề đề cập đến việc Kargu-2 và những vũ khí sát thương tự động khác có gây thiệt hại về người hay không, mà chỉ để cập rằng đã có người và các đoàn xe bị tấn công bởi nhiều máy bay chiến đấu không người lái khác nhau, đạn tuần kích,[30] vũ khí tấn công tự động như Kargu-2.[31] Dù không có thương vong và thiệt hại được xác định, việc áp dụng LAWS như Kargu-2 trong xung đột vũ trang vẫn dấy lên vô số tranh cãi. Điều 36 Nghị định thư bổ sung I của Công ước Geneva quy định: “Trong quá trình nghiên cứu, phát triển, thu nhận hoặc áp dụng một vũ khí, phương tiện hoặc phương pháp chiến tranh mới, Bên tham gia Công ước có nghĩa vụ phải xem xét liệu việc sử dụng nó, trong mọi trường hợp, có bị cấm theo Nghị định này hay bất kể quy tắc pháp luật quốc tế nào khác áp dụng cho Bên tham gia Công ước hay không.”[32] Mặc dù chưa có luật pháp cụ thể dành cho LAWS, Điều 36 cũng đã bao hàm rằng chúng nằm trong nhóm “vũ khí mới” cần được xem xét và trong trường hợp một quốc gia sử dụng LAWS trước khi xem xét một cách kỹ lưỡng rằng liệu vũ khí đó có khả năng gây thiệt hại hay không, quốc gia đấy có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý dưới quy định của IHL. Bản thân Điều 36 cũng đã bao gồm các loại vũ khí sẽ được phát triển trong tương lai, bao gồm vũ khí tự động và vũ khí sát thương tự động,[33] ta có thể cho rằng bản thân Thổ Nhĩ Kỳ cũng có phần nào có trách nhiệm vì đã không lường trước được khả năng gây thương vong của Kargu-2, đồng nghĩa với việc không thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ xem xét của mình, nếu loại vũ khí này gây ra bất kể tổn thất nào vi phạm phải quy định của IHL với tư cách là nước đã chế tạo ra LAWS này. Đồng thời, trách nhiệm pháp lý cũng có thể được áp dụng lên quốc gia lắp đặt và sử dụng vũ khí sát thương tự động này, do Điều 36 cũng ràng buộc trách nhiệm các quốc gia trong việc kiểm tra mọi vũ khí mà quốc gia đó mua bán và lắp đặt sử dụng. Trách nhiệm chỉ huy cũng là một vấn đề để xem xét. Điều 28 Quy chế Rome quy định: “Một chỉ huy quân sự hay một người có vai trò thực tế như một chỉ huy quân sự sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm nằm trong thẩm quyền của Tòa án do các lực lượng dưới quyền chỉ huy và kiểm soát thực tế của họ, hoặc quyền hạn là kiểm soát thực tế, tùy từng trường hợp, nếu họ không thực hiện đúng quyền kiểm soát đối với các lực lượng đó…”[34]. Quy chế cũng xác định thêm rằng trường hợp chịu trách nhiệm hình sự cho việc xảy ra tội phạm dưới quyền hạn của chỉ huy quân sự đó là: người đó biết hoặc cần phải biết có khả năng xảy ra tội phạm; người đó thất bại trong việc ngăn chặn tội phạm xảy ra[35]. Trong trường hợp của Kargu-2, nếu xảy ra tội phạm vi phạm tới luật pháp quốc tế, có thể xem xét khả năng rằng người chỉ huy quân sự chiến dịch có trách nhiệm với người hoặc việc lắp đặt và sử dụng Kargu-2 phải chịu trách nhiệm nếu người đó không lường trước được hoặc đã thất bại trong việc lường trước, hoặc đã không ngăn cản được khả năng vi phạm luật pháp quốc tế của loại LAWS này, bất kể người đó có trực tiếp tham gia lắp đặt và điều khiển LAWS này hay không.   3.2. Vấn đề về bảo hộ mục tiêu dân sự và dân thường theo Luật Nhân đạo quốc tế đối với LAWS Việc hạn chế vũ khí tự động để đảm bảo tính đạo đức là một điều cần thiết, và việc tạo một loại vũ khí tự động mà có thể “thất bại an toàn” (fail safely) là một mục tiêu khó hơn bao giờ hết.[36] Nhận diện mục tiêu dân sự và dân thường trong vùng chiến đấu, mất khả năng liên lạc, môi trường độc hại, tấn công mạng, mất khả năng vận hành,... là những bất lợi không thể dự tính trước mà bất cứ một hệ thống tự động nào cũng có thể gặp phải.[37] LAWS không có khả năng sử dụng trí tuệ ngữ cảnh giống như con người, vì thế mà kể cả khi sở hữu những thuật toán phức tạp được tạo ra bởi AI, LAWS vẫn có thể đối mặt với sự thất bại nếu chúng bị đưa vào những tình huống nằm ngoài ý định và hoàn cảnh được thiết kế sẵn.[38] Các vũ khí tự động nói chung sẽ không hoạt động theo cơ chế tự bảo vệ, tức là chúng có xu hướng hành động thận trọng và tự hy sinh bản thân trong những tình huống theo thuật toán của AI mà việc nhận diện mục tiêu trở nên khó khăn hoặc tự phòng thủ có thể gây tổn hại quá mức cho dân thường.[39] Mặt khác, chính sự phức tạp của hệ thống AI hiện đại đã khiến cho việc dự đoán các sự cố hoặc hành vi có thể xảy ra trong khi hệ thống vận hành trở nên khó khăn hơn.[40] Cụ thể, việc đảm bảo LAWS có thể tự quyết định sử dụng vũ lực và vận hành hợp lý có thể tương tự như việc các bên dự đoán thiệt hại cho một cuộc xung đột vũ trang, nhằm đảm bảo các thiệt hại dân sự nằm trong sự cho phép của các nguyên tắc cơ bản của IHL. Điều 51(5)(b) về nguyên tắc tương xứng quy định cấm các cuộc tấn công có khả năng gây thương vong ngẫu nhiên cho dân thường, thiệt hại cho các mục tiêu dân sự vượt quá lợi thế quân sự trực tiếp đã được dự tính.[41] Khả năng dự tính đó thường dựa vào những ý tưởng phức tạp và mang tính chủ quan của con người.[42] Bất kể mức độ hiện đại của công nghệ, việc phụ thuộc vào “khả năng phán đoán hợp lý” của con người là cần thiết để giảm thiểu tối đa thiệt hại do LAWS gây ra.[43] Mặc dù đã có rất nhiều những thành tựu trong việc phát triển đột phá về AI, LAWS vẫn thiếu đi những phẩm chất đặc trưng của con người như lương tâm, đạo đức, lý trí và lòng từ bi,... những điều quan trọng để thực hiện những phán đoán có tính đạo đức và thận trọng trên chiến trường.[44] Theo Điều 35(2), Nghị định thư bổ sung (I) quy định về việc cấm sử dụng các loại vũ khí, đạn dược hoặc các vật liệu, phương pháp chiến tranh có tính chất gây tổn thương dư thừa hoặc đau đớn không cần thiết.[45] Nếu không thể đảm bảo được việc LAWS có thể vận hành hợp lý trong những điều kiện bất lợi mà một chiến binh thật sự phải đối mặt thì sẽ không có một sự đảm bảo nào cho việc LAWS có thể phân biệt được giữa dân thường và chiến binh, hoặc giữa mục tiêu quân sự và dân sự theo nguyên tắc phân biệt tại Điều 48 của nghị định này[46], chưa kể trường hợp các mục tiêu quân sự được thiết kế như một mục tiêu dân sự hoặc ngược lại. Tuy điều 48 không chỉ ra vấn đề rằng mọi thiệt hại về dân thường và các đối tượng dân sự đều vi phạm IHL[47] nhưng các bên trong xung đột vẫn phải bảo vệ các mục tiêu này bằng mọi biện pháp khả thi theo Điều 57 về nghĩa vụ của các bên để làm giảm thiểu thiệt hại[48]. Hơn nữa, Điều 71 của Tập quán của Luật Nhân đạo Quốc tế cấm việc sử dụng vũ khí mà bản chất của nó không có tính phân biệt.[49] Dưới hoàn cảnh của một cuộc xung đột vũ trang, khi mà bản thân con người, cụ thể là binh lính còn gặp phải khó khăn trong việc phân biệt và quyết định sử dụng vũ lực lên các mục tiêu, thì liệu có căn cứ nào để có thể đảm bảo được vũ khí sát thương tự động có thể sử dụng vũ lực chính xác trong các cuộc tấn công và mà không gây những tổn thương hoặc tổn hại không đáng có? Nhiều tranh luận cho rằng trong tương lai, AI trong các loại vũ khí tự động sẽ có khả năng vận hành phù hợp với Luật Nhân đạo quốc tế hơn so với con người nhờ vào khả năng tự học. Tuy nhiên, làm thế nào để LAWS có thể hoạt động hợp lý khi gặp những tình huống bất lợi mang tính khách quan và đưa ra những quyết định “lý tính”[50] trong một cuộc xung đột vũ trang để giảm thiểu tối đa thiệt hại dân sự và dân thường vẫn còn là một vấn đề nan giải.   4. Đánh giá và đề xuất hoàn thiện pháp luật quốc tế về LAWS 4.1.   Đánh giá về giới hạn của IHL trước sự phát triển của LAWS Nhìn chung, IHL hiện tại chưa có một quy phạm pháp luật cụ thể nào trong việc điều chỉnh trực tiếp LAWS nhưng nó vẫn đặt ra một giới hạn vô hình nhất định điều chỉnh việc sử dụng nó như một phương thức chiến tranh của xung đột vũ trang, nhưng giới hạn đó nằm ở mức độ nào thì vẫn còn tranh cãi. Nhiều ý kiến cho rằng các khung pháp lý hiện tại không ngăn cản con người khỏi việc phụ thuộc vào các loại hệ thống tự động nói chung trong việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý, miễn là khi trách nhiệm của con người được đảm bảo; nhưng cũng có một cách tiếp cận thuần lý thuyết khác, cho rằng việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của IHL vẫn luôn cần sự hiện diện của con người để đảm bảo rằng việc quyết định sử dụng vũ lực sẽ gây ra những thiệt hại ở mức cho phép.[51] Theo đó, sự hiện diện của con người là chìa khóa quan trọng cho việc đặt ra giới hạn phụ thuộc của con người vào LAWS hay các hệ thống tự động. ICRC đã kêu gọi các quốc gia đặt LAWS dưới sự kiểm soát của con người để đảm bảo việc phù hợp với IHL và tính đạo đức.[52] Những yếu tố cốt lõi của sự kiểm soát đó bao gồm: Khả năng dự đoán và độ tin cậy của hệ thống trong các tình huống được dự tính hoặc mong đợi khi vận hành; mức độ can thiệp của con người vào hệ thống vận hành trong quá trình phát triển, kích hoạt và vận hành; kiến thức về cách vận hành và môi trường sử dụng của nó; trách nhiệm đối với việc vận hành tối đa của hệ thống vũ khí đó.[53]   4.2. Đề xuất các cơ chế quản lý trong việc hoàn thiện khung pháp lý quốc tế điều chỉnh sử dụng LAWS Nhóm tác giả tin rằng, để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong việc sử dụng LAWS, cần thiết phải hoàn thiện một khung pháp lý điều chỉnh một cách trực tiếp và chặt chẽ, song song với việc tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc nhân đạo quốc tế. Việc thiết lập các quy định cụ thể về phạm vi và cách thức sử dụng, kết hợp với hệ thống giám sát hiện đại và cơ chế kiểm soát hỏa lực từ xa, sẽ giúp giảm thiểu rủi ro gây ra thương vong cho dân thường. Bên cạnh đó, việc xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các cá nhân và tổ chức liên quan, cùng với sự hợp tác quốc tế, sẽ góp phần tạo ra một môi trường an toàn hơn trong việc sử dụng các công nghệ quân sự tiên tiến như LAWS. Nhìn lại trường hợp của Vũ khí sát thương hàng loạt (Weapons of Mass Destruction - WMD), một mối đe dọa tiềm tàng vào những năm 2000 khi được xem là ảnh hưởng sâu sắc đến các chiến lược an ninh quốc gia và an ninh nội địa của một số quốc gia, đặc biệt là Mỹ,[54] cũng đã làm dấy lên câu hỏi về vai trò của luật pháp quốc tế đối với loại vũ khí mới này. Hoạt động pháp lý quốc tế đương thời về WMD chủ yếu là đàm phán và thực hiện các hiệp ước kiểm soát vũ khí. Các nỗ lực và đề xuất pháp lý quốc tế mới có thể kể đến như (1) Nỗ lực của Hoa Kỳ để mở rộng quyền tự vệ chính đáng nhằm biện minh cho hành động quân sự “tự vệ với mối đe dọa trong tương lai” (preemptive self-defense) chống lại một chế độ thù địch có vũ trang hoặc sử dụng WMD; [55] (2) Các đề xuất biến việc phát triển, giữ lại, mua bán hoặc chuyển giao vũ khí sinh học và hóa học thành tội phạm theo luật quốc tế.[56] Sự thiếu hụt một định nghĩa cụ thể và được đồng ý chung cho LAWS[57] đang là một vấn đề lớn trong tính hợp pháp của việc chế tạo và sử dụng chúng. Vậy nên, việc đàm phán, nghiên cứu và hợp tác để đặt ra một định nghĩa chung cho LAWS là cần thiết để chắc chắn rằng các quốc gia thành công xây dựng một khung pháp lý cụ thể trong việc phát triển và sử dụng LAWS. Đồng thời, việc đàm phán và soạn thảo một điều ước quốc tế mang tính bắt buộc thực thi bao gồm giới hạn cũng như trách nhiệm pháp lý cũng có thể được đưa vào xem xét, từ đó thực sự đặt ra một khung pháp lý hiệu quả cho việc sử dụng LAWS để điều chỉnh hành vi của các bên liên quan. Tuy nhiên cần lưu ý, việc xây dựng quy phạm pháp luật mới nên dựa trên các khung pháp lý nhân đạo quốc tế có sẵn và nên tập trung vào vấn đề trách nhiệm của con người thay vì phụ thuộc vào các giải pháp liên quan tới công nghệ, nhằm duy trì tính thực tiễn và khả năng thích ứng với các tiến bộ trong tương lai, do việc phát triển công nghệ LAWS không chỉ dừng lại ở hiện tại.[58]  Song song với việc đưa ra điều ước quốc tế, một ủy ban chuyên biệt để xem xét, giám sát và giải quyết các vi phạm trong việc sử dụng LAWS cũng sẽ góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ và thực thi pháp luật liên quan. Tựu chung lại, việc xây dựng và thực thi kịp thời một khung pháp lý toàn diện, bao gồm cả luật quốc tế và luật quốc gia, là điều cấp thiết để quản lý và kiểm soát việc sử dụng LAWS. Chỉ khi có một hệ thống quy phạm pháp luật rõ ràng và được thực thi nghiêm minh, những công nghệ quân sự tiên tiến này mới được bảo đảm sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả và tuân thủ các chuẩn mực nhân đạo quốc tế. 5. Kết luận Nghiên cứu đã làm rõ các vấn đề pháp lý xoay quanh việc điều chỉnh sử dụng LAWS trong phạm vi xác định đối tượng chịu trách nhiệm và vấn đề bảo hộ dân thường. Pháp luật quốc tế hiện hành vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định trách nhiệm pháp lý và áp dụng các nguyên tắc nhân đạo vào thực tiễn sử dụng LAWS. Để giải quyết những vấn đề này, cần thiết phải có sự hợp tác quốc tế để sửa đổi, bổ sung các điều ước quốc tế hiện hành hoặc xây dựng các điều ước mới, đồng thời tăng cường nhận thức của cộng đồng về vấn đề sử dụng LAWS. Nghiên cứu góp phần cung cấp cái nhìn tổng quan về khung pháp lý quốc tế về LAWS, từ đó thúc đẩy các quốc gia chung tay hành động để đảm bảo việc sử dụng công nghệ AI trong lĩnh vực quân sự một cách có trách nhiệm, an toàn và phù hợp hơn với các nguyên tắc nhân đạo. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao, 69 Phố Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội [2] UNODA, ‘Lethal Autonomous Weapon Systems’ < https://disarmament.unoda.org/the-convention-on-certain-conventional-weapons/background-on-laws-in-the-ccw/ > truy cập ngày 07/12/2024. [3] UNIDIR, A. Spazian, A. Holland Michel, A. Anand, ‘UNIDIR on Lethal Autonomous Weapons: Mapping our Research to the Discussions of the GGE on LAWS’ (Geneva, Switzerland 2016) truy cập ngày 17/11/2024. [4] ICRC, ‘Views of the ICRC on autonomous weapon systems’, paper submitted to the Convention on Certain Conventional Weapons Meeting of Experts on Lethal Autonomous Weapons Systems (LAWS), 11/4/2016. Nguyên văn: “Any weapon system with autonomy in its critical functions—that is, a weapon system that can select (search for, detect, identify, track or select) and attack (use force against, neutralize, damage or destroy) targets without human intervention”. [5] ICRC, ‘Submissions on Autonomous Weapon Systems to the United Nations Secretary-General’ (2024), tr.4. [6] Department of Defense, Directive 3000.09, 21/11/2012, tr. 13–14. [7] UN General Assembly doc., ‘Report of the Special Rapporteur on extrajudicial, summary or arbitrary executions, Christof Heyns’. A/HRC/23/47, đoạn 38. [8] U.S Naval Institute Staff, ‘Report to Congress on Lethal Autonomous Weapon Systems’, USNI News (2021), < https://news.usni.org/2021/04/21/report-to-congress-on-lethal-autonomous-weapon-systems-2 > truy cập ngày 18/11/2024. [9] ICRC, ‘Autonomy, Artificial Intelligence and Robotics: Technical Aspects of Human Control’ (8/2019) < https://www.icrc.org/sites/default/files/document/file_list/autonomy_artificial_intelligence_and_robotics.pdf > truy cập ngày 17/11/2024. [10] UNIDIR, ‘The Weaponization of Increasingly Autonomous Technologies: Artificial Intelligence’ (UNIDIR, 28/3/2018) < https://unidir.org/publication/the-weaponization-of-increasingly-autonomous-technologies-artificial-intelligence/ > truy cập ngày 19/11/2024. [11] Paul Scharre, Michael C. Horowitz, ‘An Introduction to autonomy in weapon systems’, Center for a New American Security (CNAS), tr. 8. [12] Tim McFarland, ‘Autonomous Weapon Systems and the Law of Armed Conflict - Compatibility with International Humanitarian Law’, (Cambridge University Press, Cambridge, 2020), truy cập ngày 18/11/2024. [13] Tên lửa hành trình, bom định hướng laze,... [14] Hệ thống phòng thủ tên lửa Iron Dome hay hệ thống phòng thủ công trình quân sự dưới nước Phalanx CIWS,... [15] William H. Boothby, ‘Highly Automated and Autonomous Technologies”, (Cambridge University Press, Cambridge, 2019) 138, truy cập ngày 18/11/2024. [16] Christopher P. Toscano, ‘Friends of Humans: An Argument for Developing Autonomous Weapons Systems’ (Journal of National Security, Law and Policy, 2019) 12-13, truy cập ngày 18/11/2024. [17] Nghị định thư Bổ sung (I) của Công ước Geneva 1949 về Bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang 1977, Điều 48. [18] Xem chú thích 17, Điều 51(5)(b). [19] Xem chú thích 17, điều 57. [20] ICRC, ‘A Guide to the Legal Review of New Weapons, Means and Methods of Warfare: Measures to Implement Article 36 of Additional Protocol I of 1977’ (01/ 2006), < www.icrc.org/eng/assets/files/ other/icrc_002_0902.pdf>, truy cập ngày 17/11/2024. Theo đó việc nghiên cứu phải rà soát tất cả các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và các quy định liên quan của Luật nhân đạo quốc tế, cũng như đảm bảo được rằng vũ khí được vận hành với hiệu ứng đúng như đã dự đoán và có thể tin tưởng được, đọc thêm tại: chú thích số 15, tr. 10. [21] Điều khoản Martens được đặt theo tên của Fyodor F. Martens - người đã đưa ra điều khoản này lần đầu tiên trong Lời nói đầu của Công ước Hague năm 1899. [22] Nguyên tắc này bảo vệ các người tham chiến đã hạ vũ khí, bị loại khỏi cuộc chiến vì ốm đau, vết thương và dân thường bằng cách quy định rằng họ phải luôn được đối xử nhân đạo mà không bị phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, tôn giáo hoặc đức tin, giới tính, dòng dõi hoặc sự giàu có hoặc bất kỳ tiêu chí tương tự nào khác, xem thêm tại điều 3(1)  Nghị định thư bổ sung I liên quan đến việc bảo vệ các nạn nhân dân sự của chiến tranh quốc tế. [23] ICRC, ‘Martens Clause’ (How does law protect in war) < https://casebook.icrc.org/a_to_z/glossary/martens-clause > truy cập ngày 07/12/2024. [24] ICRC, ‘1980 Convention on Certain Conventional Weapons’ (Advisory Service on International Humanitarian Law), 3/2014. [25] ICRC, ‘Views of the ICRC on Autonomous Weapon Systems (International Committee Of The Red Cross, 11/04/2017) < https://www.icrc.org/en/document/views-icrc-autonomous-weapon-system > truy cập ngày 17/11/2024. [26] Xem chú thích 25. [27] Mariarosaria Taddeo và Alexander Blanchard. ‘A Comparative Analysis of the Definitions of Autonomous Weapons Systems’ (2022). Sci Eng Ethics 28, 37 < https://doi.org/10.1007/s11948-022-00392-3 > truy cập ngày 17/11/2024. [28] Non-international armed conflict in Libya (RULAC) < https://www.rulac.org/browse/conflicts/non-international-armed-conflicts-in-libya > truy cập ngày 17/11/2024. [29] UN, ‘Final report of the Panel of Experts on Libya’, established pursuant to Security Council resolution 1973 (United Nations reports, 2011) 17, truy cập ngày 20/11/2024. [30] Lethal Autonomous Weapon Systems (LAWS) (United Nations Office for Disarmament Affairs) < https://disarmament.unoda.org/the-convention-on-certain-conventional-weapons/background-on-laws-in-the-ccw/#:~:text=In%20his%202023%20New%20Agenda,compliance%20with%20international%20humanitarian%20law > truy cập ngày 17/11/2024. [31] Xem chú thích 30. [32] Nghị định thư Bổ sung (I) của Công ước Geneva 1949 về Bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang 1977, Điều 36. [33] ICRC, ‘Protocol Additional to the Geneva Conventions of 12 August 1949, and relating to the Protection of Victims of International Armed Conflicts (Protocol I), 8 June 1977’ (International Committee of the Red Cross) < https://ihl-databases.icrc.org/en/ihl-treaties/api-1977/article-36/commentary/1987 > truy cập ngày 08/12/2024. [34] Quy chế Rome của Tòa án Hình sự Quốc Tế 1988, Điều 28. [35] Lethal Autonomous Weapon Systems (LAWS) (United Nations Office for Disarmament Affairs) < https://disarmament.unoda.org/the-convention-on-certain-conventional-weapons/background-on-laws-in-the-ccw/#:~:text=In%20his%202023%20New%20Agenda,compliance%20with%20international%20humanitarian%20law > truy cập ngày 17/11/2024. [36] Asaro P, ‘On Banning Autonomous Weapon Systems: Human Rights, Automation, and the Dehumanization of Lethal Decision-Making’ (2013) 94 International Review of the Red Cross 687 < https://doi.org/10.1017/S1816383112000768 > truy cập ngày 16/11/2024. [37] Xem chú thích số 36. [38] Xem chú thích số 36. [39] Marchant, Gary E. and Allenby, Braden and Arkin, Ronald and Barrett, Edward T. and Borenstein, Jason and Gaudet, Lyn M. and Kittrie, Orde F. and Lin, Patrick and Lucas, George R. and O'Meara, Richard and Silberman, Jared, ‘International Governance of Autonomous Military Robots’ (2010) SSRN < https://ssrn.com/abstract=1778424 > truy cập ngày 19/11/2024. [40] Paul Scharre, 'Why Unmanned' (2021) Joint Force Quarterly 61  89-93  < https://ndupress.ndu.edu/portals/68/Documents/jfq/jfq-61.pdf > truy cập ngày 19/11/2024. [41] Nghị định thư bổ sung (I) Công ước Geneva 1949 về Bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang 1977, Điều 51(5)(b). [42] Rebecca Crootof, ‘The Varied Law of Autonomous Weapon Systems’ in NATO Allied Command Transformation, Autonomous Systems: Issues for Defence Policy Makers (2015) 104   < https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2569322 > truy cập ngày 18/11/2024. [43] Asaro P, ‘On Banning Autonomous Weapon Systems: Human Rights, Automation, and the Dehumanization of Lethal Decision-Making’ (2013) 94 International Review of the Red Cross 687 < https://doi.org/10.1017/S1816383112000768 > truy cập ngày 16/11/2024. [44] Yanitra Kumaraguru, 'A Pre-Emptive Ban on Lethal Autonomous Weapon Systems' in Petr Topychkanov (ed), The Impact of Artificial Intelligence on Strategic Stability and Nuclear Risk: Volume III South Asian Perspectives (Stockholm International Peace Research Institute 2020)  < https://www.jstor.org/stable/resrep24515.14 >, truy cập ngày 19/11/2024. [45] Nghị định thư Bổ sung (I) của Công ước Geneva 1949 về Bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang 1977, Điều 35(2). [46] Nghị định thư bổ sung (I) của Công ước Geneva 1949 về Bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang 1977, Điều 48. [47] Roman Dremliuga, ‘General Legal Limits of the Application of the Lethal Autonomous Weapons Systems within the Purview of International Humanitarian Law’ (2020) 117 < https://doi.org/10.5539/jpl.v13n2p115 > truy cập ngày 18/11/2024. [48] Nghị định thư bổ sung (I) của Công ước Geneva 1949 về Bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang 1977, Điều 57. [49] Tập quán của Luật Nhân đạo Quốc tế 2005 (Tập 1), Điều 71. [50] Neil Davison, ‘A legal perspective: Autonomous weapon systems under international humanitarian law’ (UNODA Occasional Papers No. 30, 11/2017, 6) < https://doi.org/10.18356/6fce2bae-en > truy cập ngày 18/11/2024. [51] SIPRI, ‘International Humanitarian Law and Autonomous Weapons Systems’ (03/2023) < https://www.sipri.org/sites/default/files/2023-03/ihl_and_aws.pdf > truy cập ngày 19/11/2024. [52] Xem chú thích 50. [53] Xem chú thích 50. [54] David P. Fidler, ‘Weapons of Mass Destruction and International Law’, 11/02/ 2003, Volume 8, Issue 3, tr.1 < https://www.asil.org/insights/volume/8/issue/3/weapons-mass-destruction-and-international-law > truy cập ngày 21/11/2024. [55] National Security Strategy of the United States, supra note 1, at 15; National Strategy to Combat Weapons of Mass Destruction (12/2002). [56] Harvard/Sussex Program on CBW Disarmament and Arms Limitation, ‘Draft Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Developing, Producing, Acquiring, Stockpiling, Retaining, Transferring, or Using Biological or Chemical Weapons’, vol.28:1 (2004). [57] UNODA, ‘Lethal Autonomous Weapon Systems’ < https://disarmament.unoda.org/the-convention-on-certain-conventional-weapons/background-on-laws-in-the-ccw/ > truy cập ngày 07/12/2024. [58] ICRC, Limits on Autonomy in Weapon Systems (International Committee of the Red Cross, 02/06/2020) < https://www.icrc.org/en/document/limits-autonomous-weapons > truy cập ngày 07/12/2024.

  • [62] KHOẢNG TRỐNG PHÁP LÝ VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ CỦA AI TRÊN THẾ GIỚI. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM

    Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024. Tác giả: Đặng Thị Vân Anh, Hồ Hằng Lê, Nguyễn Thị Mai Phương[1] Tóm tắt:  Trong thế kỷ 21, Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) đang phát triển nhanh chóng và ngày càng trở thành một phần không thể thiếu trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống. Trong cuốn “Lược sử tương lai” của sử gia Israel Yuval Noah Harari đã đề cập đến việc AI sẽ giải quyết hầu hết vấn đề mà con người vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Khi nhìn về tương lai, AI dường như đem đến nguồn tiềm năng vô hạn, hứa hẹn những tiến bộ chưa từng có về công nghệ và giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ AI trong những năm gần đây đã thách thức sự hiểu biết của chúng ta về sở hữu trí tuệ (SHTT) và tạo ra một bối cảnh pháp lý phức tạp với ý nghĩa sâu rộng đối với quyền sở hữu công nghiệp (SHCN). Bài nghiên cứu nhằm mục đích khám phá sự giao thoa giữa quyền SHCN với sáng chế và AI trên kinh nghiệm quốc tế và thực trạng tại Việt Nam, xem xét các quy định pháp lý và các vụ kiện liên quan, từ đó tìm ra và nhìn nhận khoảng trống pháp lý đối với AI để làm rõ nhu cầu cần xây dựng một hệ thống pháp luật bảo hộ, đồng thời rút ra phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Từ khóa: Trí tuệ nhân tạo; Sở hữu trí tuệ; Sở hữu công nghiệp; Sáng chế; Pháp luật. 1. Khái niệm về Trí tuệ nhân tạo và quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế 1.1.  Trí tuệ nhân tạo (AI) Hiện nay, định nghĩa thường được sử dụng về AI là một lĩnh vực khoa học máy tính nghiên cứu cách mà máy móc có thể mô phỏng trí thông minh của con người.[2] Tuy nhiên, rất khó định nghĩa thế nào là thực thể thông minh nên cũng khó thống nhất định nghĩa AI. Hơn sáu thập kỷ phát triển và chứng kiến nhiều định nghĩa về AI, S. Russell và P. Norvig cung cấp bốn kiểu định nghĩa: tư duy như con người, hành vi như con người, tư duy hợp lý, hành vi hợp lý.[3] Các đặc điểm cơ bản của AI bao gồm: Thứ nhất , AI là một chương trình máy tính, được lập trình và hoạt động theo một hay nhiều thuật toán khác nhau.[4]  Thứ hai , AI có khả năng tự học, phân tích và áp dụng phù hợp với từng dạng dữ liệu.[5] Thứ ba,  AI được lập trình bởi con người. Các lập trình viên sử dụng ngôn ngữ lập trình và xây dựng những thuật toán nhằm hướng AI đến việc có khả năng tự học hỏi từ những dữ liệu đầu vào và đưa ra những hành động nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng.[6] 1.2. Quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế Theo Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization - WIPO), định nghĩa một sáng chế là một sản phẩm hoặc quy trình cung cấp một cách mới để thực hiện điều gì đó hoặc đưa ra một giải pháp kỹ thuật mới cho một vấn đề vượt qua những giải pháp thông thường.[7] Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) Việt Nam định nghĩa rằng “sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.”[8] So với định nghĩa của WIPO, định nghĩa của Việt Nam cụ thể hơn khi nhấn mạnh đến việc ứng dụng các quy luật tự nhiên để giải quyết vấn đề, đồng thời khẳng định rằng sáng chế phải được thể hiện dưới hình thức sản phẩm hoặc quy trình kỹ thuật. Quyền SHCN là một quyền SHTT, dùng để chỉ các loại tài sản đối với thành quả lao động sáng tạo của con người trong lĩnh vực công nghệ, kinh doanh và thương mại.[9] Khoản 2 Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ SHCN đưa ra thuật ngữ: “Đối tượng bảo hộ SHCN bao gồm sáng chế giải pháp hữu ích kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ và chúng cạnh tranh không lành mạnh”. Như vậy, quyền SHCN đối với sáng chế sẽ có một số đặc điểm chung của quyền SHTT.   Đầu tiên , đối tượng là sản phẩm sáng tạo trí tuệ của con người, không được trùng hay tương tự với những gì đã được bảo hộ.[10] Thứ hai,  là quyền đối với tài sản vô hình, đó là quyền sở hữu đối với thông tin, tri thức, khoa học, kỹ thuật, công nghệ do con người tạo ra.[11] Thứ ba,  phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền cấp quyền bảo hộ trừ trường hợp ngoại lệ và phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật quy định.[12]  Thứ tư,  tạo ra cho chủ thể quyền độc quyền khai thác sử dụng đối tượng SHCN và quyền ngăn cản người khác sử dụng đối tượng đó.[13]  Thứ năm, mang tính tạm thời và tính lãnh thổ. Quyền SHCN được bảo hộ có thời hạn, thông thường với sáng chế là 20 năm.[14] Về không gian, luật quốc gia chỉ có hiệu lực trong lãnh thổ quốc gia, nhưng các điều ước quốc tế song phương, đa phương thì có hiệu lực trên lãnh thổ của tất cả các quốc gia thành viên.[15] 2. Khoảng trống pháp lý về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế của AI trên thế giới 2.1. Quan điểm quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế của AI Hiện nay, trên thế giới chưa tồn tại một quan điểm thống nhất về việc bảo vệ quyền SHCN với sáng chế do AI tạo ra. Các quốc gia và khu vực trên thế giới đang phân chia thành hai luồng ý kiến trái chiều: một bên ủng hộ việc công nhận quyền bảo hộ cho những sáng tạo của AI, trong khi bên còn lại vẫn hoài nghi và chưa chấp nhận việc trao quyền bảo vệ cho những tác phẩm này.[16] 2.1.1. Quan điểm của WIPO  Nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống LSHTT trong thời đại công nghệ mới, WIPO đã tổ chức nhiều phiên tham vấn, thu hút sự quan tâm và đóng góp của nhiều học giả và chuyên gia trên toàn cầu. Những phiên tham vấn với các chủ đề đa dạng đã khám phá và bàn luận sâu về mối quan hệ giữa Luật SHTT và AI, nổi bật như Phiên tham vấn thứ 3 (2020) với chủ đề "Các vấn đề về sửa đổi chính sách Sở hữu trí tuệ và AI” , Phiên tham vấn thứ 8 (9/2023)  "Đối thoại về GenAI và IP" , và Phiên tham vấn thứ 9 (3/2024) " Đối thoại của WIPO về Sở hữu trí tuệ và công nghệ tiên phong" . Mặc dù hiện tại WIPO vẫn chưa đưa ra quan điểm cụ thể nào về bảo hộ SHCN cho AI, nhưng thông qua các phiên tham vấn, WIPO đã đưa ra một số vấn đề nổi bật như: việc quy định loại công nghệ AI nào là đối tượng được bảo hộ sáng chế; cách diễn giải và áp dụng ba tiêu chí đánh giá khả năng bảo hộ sáng chế khi thẩm định công nghệ AI; có nên sửa đổi, bổ sung pháp luật sáng chế để phù hợp với đặc điểm riêng biệt của công nghệ AI.[17] 2.1.2. Quan điểm của trường phái từ chối thừa nhận quyền SHCN với sáng chế của AI Một số quốc gia từ chối thừa nhận bảo hộ đối với tác phẩm do AI tạo ra, nguyên nhân chủ yếu liên quan đến tư cách pháp lý của AI.[18] Các khu vực pháp lý khác nhau đã áp dụng các cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề mà AI đặt ra về quyền SHCN cho sáng chế.  Hoa Kỳ thiên về một cách tiếp cận truyền thống, nhấn mạnh sự tham gia của con người trong các quá trình sáng tạo và phát minh. Đạo luật Sáng chế Hoa Kỳ định nghĩa rằng “nhà sáng chế có nghĩa là cá nhân hoặc trong trường hợp sáng chế chung, các cá nhân cùng nhau đã phát minh hoặc phát hiện ra đối tượng sáng chế”.[19] Khi thông qua Đạo luật Sáng chế năm 1952, văn bản này đã xuất hiện một tuyên bố trước Quốc hội rằng đối tượng sáng chế bao gồm “mọi thứ dưới ánh mặt trời do con người tạo ra”.[20] Mặc dù tuyên bố không tạo ra giới hạn nào nhưng nó cung cấp cái nhìn về cách các nhà lập pháp hiểu về nhà sáng chế, đó là con người.[21] Cho đến hiện tại, Hoa Kỳ chưa có luật SHTT dành riêng cho AI, tuy nhiên đã có bước đầu trong việc tiếp cận xây dựng pháp luật quản lý qua việc ban hành sắc lệnh hành pháp về AI,[22] đặc biệt bang California tiên phong với việc thông qua dự luật Đạo luật Đổi mới an toàn và bảo mật cho các mô hình AI.[23] Những động thái ấy thể hiện nỗ lực của quốc gia trong việc quản lý AI một cách hiệu quả, cân bằng giữa phát triển công nghệ và bảo vệ quyền lợi của con người. Cách tiếp cận của Liên minh Châu Âu (European Union - EU) cũng tương tự Hoa Kỳ, chủ thể của luật pháp phải là con người. Trong vụ “Food Container” về việc cấp bằng sáng chế cho hộp đựng thực phẩm do thực thể AI - DABUS tạo ra, Văn phòng Bằng Sáng chế châu Âu (European Patent Office - EPO) tại hội đồng phúc thẩm nhận định rằng yêu cầu đã vi phạm Điều 81 Hiệp ước Sáng chế Châu Âu (European Patent Convention - EPC). Hội đồng chỉ ra định nghĩa trong Oxford English Dictionary và Collins Dictionary of the English Language về từ “inventor”, cả hai đều định nghĩa nhà sáng chế là con người.[24] Thuật ngữ được EPC sử dụng theo nghĩa thông thường.[25] Dù vậy, EU đang có những cuộc thảo luận liên quan đến việc điều chỉnh các quy định pháp lý về SHTT để thích ứng với các sáng tạo của AI. Hiện tại, EU đã chính thức thông qua Đạo luật Trí tuệ nhân tạo Châu Âu, quy định toàn diện đầu tiên trên thế giới về AI.[26] Đây là một bước tiến quan trọng, không chỉ định hướng việc ứng dụng AI an toàn mà còn đặt nền tảng hoàn thiện các quy định SHTT cho AI nhưng vẫn đảm bảo quyền thuộc về con người.  2.1.3. Quan điểm của trường phái thừa nhận bảo hộ quyền SHCN với sáng chế của AI Stephen Thaler là chủ sở hữu AI - DABUS đã nộp đơn đăng ký sáng chế tại 17 khu vực pháp lý như Hoa Kỳ, EU, Vương quốc Anh và một số quốc gia khác nhưng hầu hết không được công nhận.[27] Tuy nhiên, vào tháng 7/2021 đã có một bước ngoặt mới khi Ủy ban Công ty và Sở hữu trí tuệ Nam Phi cấp bằng sáng chế cho phát minh “hộp đựng thực phẩm dựa trên hình học fractal” do DABUS tạo ra.[28] Đây là quốc gia đầu tiên công nhận AI như một nhà phát minh hợp pháp. Khác với EPO hay Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ, Văn phòng Sáng chế Nam Phi không áp dụng bất kỳ hình thức thẩm định nội dung nào đối với đơn xin cấp bằng sáng chế. Nói cách khác, các đơn xin cấp bằng sáng chế ở Nam Phi không cần kiểm tra về tính mới và tính sáng tạo mà chỉ tiến hành kiểm tra hình thức đối với các đơn sáng chế, nếu tất cả các yêu cầu về thủ tục được đáp ứng thì đơn sáng chế sẽ được thông qua.[29] Ngay sau đó, vào ngày 30/7/2021 tại Tòa án Liên Bang Úc, Thẩm phán Jonathan Beach đã đưa ra phán quyết có lợi cho DABUS, bác bỏ quan điểm của phó ủy viên sáng chế về việc hủy bỏ đơn xin sáng chế vì không đạt yêu cầu. Khi phân tích các quy định pháp lý của Đạo luật Sáng chế của Úc và Hiệp ước Hợp tác Sáng chế, Thẩm phán Beach lưu ý rằng thuật ngữ “nhà sáng chế” không được định nghĩa trong cả hai văn bản này và ngôn ngữ liên quan đến quyền sở hữu, đơn xin cấp bằng sáng chế không rõ ràng loại trừ việc coi hệ thống AI là nhà sáng chế.[30] Tuy nhiên, DABUS không thể tự mình sở hữu các bằng sáng chế đối với những phát minh của nó, nhưng các điều khoản điều chỉnh quyền sở hữu lại hướng tới Tiến sĩ Thaler với tư cách là cá nhân có quyền trở thành người được chuyển nhượng bằng sáng chế.[31] Điều này sẽ khiến Tiến sĩ Thaler trở thành chủ sở hữu các phát minh của DABUS theo các nguyên tắc pháp lý về luật sở hữu.  Có thể thấy rằng sự công nhận của Nam Phi và cách tiếp cận mới của Úc đã tạo ra một ngoại lệ để công nhận quyền sáng chế đối với các sản phẩm được tạo ra bởi một thực thể không phải con người. 2.2. Đánh giá khả năng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế của AI Để có thể nhìn nhận và đưa ra giải pháp trong tương lai, trước hết cần xác định tư cách pháp lý của AI. Tuy nhiên thuật ngữ AI được định nghĩa như một lĩnh vực, do đó việc xác định tư cách pháp lý cần đặt trên: công nghệ về AI ở dạng vô hình (phần mềm, chương trình,...) và thực thể mang AI ở dạng hữu hình (robot, xe tự lái,...). Hiện tại, trên thế giới có hai cách tiếp cận về tư cách pháp lý của AI. Thứ nhất, AI là một chủ thể của hệ thống pháp luật hiện đại, một số thực thể có gắn AI như robot có quyền như con người, tuy nhiên số lượng quốc gia theo cách tiếp cận này rất ít.[32] Năm 2017, Saudi Arabia là quốc gia đầu tiên trên thế giới thừa nhận và cấp quốc tịch cho robot Sofia dựa trên luật quốc tịch của họ.[33] Cách tiếp cận thứ hai coi AI là đối tượng riêng biệt trong pháp luật và được điều chỉnh bởi các quy định đặc thù, điều này có nghĩa là AI không được công nhận có quyền như con người.[34] AI được xem là một loại tài sản, sản phẩm; tuy nhiên, vì đặc thù về tính tự chủ, khả năng xử lý thông tin và khả năng phát triển kinh tế cao nên các quốc gia chỉ xem AI là đối tượng đặc biệt và đề ra một số quy định riêng nhằm điều chỉnh vấn đề phát sinh liên quan đến AI.[35] Bằng sáng chế trao cho chủ sở hữu quyền ngăn cấm các hành vi sao chép hoặc sử dụng phát minh của họ mà không được phép trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời đảm bảo quyền độc quyền trong việc thương mại hóa sáng chế.  Tuy nhiên khi đăng ký sáng chế, theo Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ (Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights - TRIPS) và Công ước Paris về bảo hộ SHCN, sản phẩm phải đạt điều kiện bảo hộ quyền SHCN với sáng chế, gồm các tiêu chí như tính mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Các tiêu chuẩn để xác định tính mới và tính sáng tạo gần như là “tuyệt đối” và mang tính toàn cầu.[36] Do đó, nếu một phát minh đáp ứng đủ ba điều kiện này thì theo Hiệp định TRIPS, sản phẩm có thể được cấp quyền bảo vệ sáng chế ở bất kỳ quốc gia nào trong 166 quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.[37] Câu hỏi đặt ra là liệu AI có đáp ứng được yêu cầu hay không. Một số chuyên gia cho rằng bản thân AI thiếu ý thức và tính tự chủ nên sẽ rất khó khăn trong việc sản xuất các phát minh có thể cấp bằng sáng chế một cách hiệu quả và tối ưu hơn.[38] Hơn nữa, việc công nhận AI là những nhà sáng chế độc lập đặt ra các câu hỏi phức tạp về pháp lý, trách nhiệm và đạo đức liên quan đến quyền sở hữu các phát minh AI. Tuy nhiên, trong tương lai, AI ngày càng trở nên tiên tiến và hiện đại. Xét đến khả năng của AI trong việc học hỏi, tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc đã thiết lập, xử lý khối lượng thông tin khổng lồ và biểu đạt chúng, không thể phủ nhận rằng AI có thể là một công cụ mạnh mẽ trong việc khám phá các sáng tạo mới. Cần phải thừa nhận rằng việc hạn chế công nhận vai trò của AI có thể sẽ cản trở sự tiến bộ và giới hạn những lợi ích mà các phát minh này có thể mang lại cho xã hội.[39] Xét từ góc độ lợi ích công cộng, các phát minh có sự hỗ trợ hoặc do AI tạo ra không nên bị loại trừ khỏi phạm vi quyền SHCN. Trong tương lai, khi AI ngày càng trở nên hiện đại và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các sáng tạo mới thì vấn đề về xác định quyền sở hữu và trách nhiệm đối với những phát minh này cần có phương hướng giải quyết. 3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam 3.1. Thực trạng sử dụng AI hiện tại và trong tương lai tại Việt Nam Tại Việt Nam, mặc dù khởi đầu muộn hơn so với các quốc gia phát triển, nhưng công nghệ AI cũng đang được ứng dụng rộng rãi và mang lại những đột phá về năng suất, chất lượng cuộc sống. Thực tế, những năm gần đây Việt Nam đã xuất hiện nhiều dự án hoạt động trong lĩnh vực AI, chủ yếu tập trung vào các khía cạnh trong cuộc sống như sáng chế, xử lý ngôn ngữ tự nhiên và các ứng dụng AI trong kinh doanh. Năm 2014, AI còn được sử dụng làm công cụ trợ lý ảo tiếng Việt với nhiều tính năng đột phá như đọc báo tự động, ngoài ra đây cũng là một trong những ứng dụng đầu tiên áp dụng công nghệ xử lý ngôn ngữ tự nhiên và nền tảng tạo chatbot/trợ lý ảo.[40] Trong lĩnh vực y tế, AI được sử dụng để trợ giúp các bác sĩ chẩn đoán bệnh tốt hơn.[41] Trong lĩnh vực ngân hàng, nhiều ngân hàng đã ứng dụng AI đã giúp xác thực thông tin, nhận diện khách hàng.[42] Hay trong lĩnh vực giáo dục, AI cũng được vận dụng trong những bài giảng, sáng tạo nội dung và thiết kế chương trình giảng dạy. Các báo cáo về tình trạng sử dụng AI cho thấy 93% người dùng AI tại Việt Nam thường xuyên bắt đầu ngày mới với AI và   88% lao động tri thức ở Việt Nam hiện đang sử dụng Generative AI[43] tại nơi làm việc.[44] Những tiến bộ về AI và tự động hóa đang tạo ra cơ hội trong tương lai cho các doanh nghiệp phát triển, giải quyết nhiều vấn đề phức tạp toàn cầu và đem lại tăng trưởng kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0.[45] Hiện nay, đã có nhiều chính sách được đưa ra để đảm bảo nguồn nhân lực AI được đào tạo chất lượng, bài bản, tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.  Trong bối cảnh công nghệ ngày càng phát triển, việc ứng dụng AI tại Việt Nam đã và đang mở ra nhiều cơ hội to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những bước tiến, thực trạng ứng dụng AI vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là các quy định pháp lý và đạo đức liên quan. 3.2. Thách thức pháp lý trong việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế do AI tạo ra tại Việt Nam. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ AI đặt ra những thách thức đáng kể đối với khuôn khổ LSHTT Việt Nam hiện hành. Thách thức lớn nhất đặt ra đó chính là về xác lập tư cách pháp lý của AI trong quyền SHCN đối với sáng chế. Thực tế AI không mang bản chất của con người, vậy nên khi AI trở thành chủ sở hữu đối với một sáng chế, rất nhiều câu hỏi được đặt ra như ai sẽ là chủ sở hữu của sáng chế khi AI không phải là một cá nhân hay tổ chức theo nghĩa pháp lý? Tại Việt Nam, chưa có một cách tiếp cận nào rõ ràng cho AI hay những thực thể mang AI. Luật pháp Việt Nam cụ thể tại Điều 1 Bộ luật Dân sự 2015 chỉ quy định cá nhân hoặc tổ chức là chủ thể, vì vậy không thể coi AI và các thực thể AI liên quan là chủ thể pháp lý có quyền tương đương con người. Tại Điều 86 LSHTT cũng đã quy định rất rõ về tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký sáng chế. Như vậy, để được bảo hộ quyền SHCN với sáng chế, tác giả phải là cá nhân hoặc tổ chức, ở đây được hiểu là con người.  Thách thức về quyền SHCN đối với những sáng chế do thực thể AI tạo ra cũng là một vấn đề gây ra nhiều tranh cãi. Tại Việt Nam, LSHTT chưa có quy định pháp lý rõ ràng về vấn đề này. Như vậy, một sáng chế do AI tạo ra không rõ chủ sở hữu sẽ dẫn đến các tranh chấp về quyền sở hữu giữa các bên liên quan như nhà lập trình, nhà phát triển, người sử dụng AI. Đây là một khoảng trống pháp lý, ảnh hưởng đến sự phát triển của AI cũng như gây khó khăn trong quy trình đăng ký bảo hộ đối với sáng chế do AI tạo ra. Ngoài ra, AI cũng đặt ra thách thức về việc chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành động của mình.[46] Các hệ thống AI thường rất phức tạp, bao gồm nhiều thuật toán, chương trình và khi được trao cho tính tự chủ thì khó có thể dự đoán cũng như kiểm soát những hành vi của AI; và khi xuất hiện những rủi ro, rất khó để có thể xác định chủ thể chịu trách nhiệm. Vậy nên Việt Nam không công nhận AI là một chủ thể của pháp luật, điều đó đặt ra khó khăn trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý. Bên cạnh đó, vấn đề về quyền sở hữu dữ liệu và quyền riêng tư cũng đặt ra thách thức đối với khung pháp lý SHCN cho AI.[47] AI thường xuyên cập nhật dữ liệu lớn, phân tích dữ liệu sâu mà trong đó dữ liệu thu thập được có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm cả mục đích thương mại, mà người dùng không hề hay biết. Vấn đề này gây nên nhiều lo ngại khi cấp bằng sáng chế cho AI, bởi có thể sẽ vi phạm những quy định về bảo vệ quyền riêng tư, dữ liệu cá nhân được quy định trong pháp luật Việt Nam. 3.3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam Trong bối cảnh Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghệ 5.0, việc hoàn thiện khung pháp luật về cấp bằng sáng chế cho AI đang trở thành một trong những vấn đề cấp thiết để đảm bảo công bằng, minh bạch và khuyến khích sáng tạo.   Thứ nhất , từ những kinh nghiệm của các nước trên thế giới, cần thiết lập các tiêu chí chính xác và linh hoạt để đánh giá vai trò của AI như đồng phát minh hay đồng sáng tạo. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu và định nghĩa lại các quy định về quyền sáng chế. Các sửa đổi này cần làm rõ sự đóng góp của AI trong quá trình sáng tạo, đảm bảo ghi nhận vai trò của AI một cách công bằng. Hơn nữa, cần xem xét đến các sáng chế hoàn toàn do AI tạo ra, xây dựng thang đo phù hợp đối với việc xác định các tiêu chí để được cấp bằng sáng chế ví dụ như tính mới, tính sáng tạo, khả năng áp dụng công nghiệp. Đây là nền tảng để làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định cụ thể về chủ thể sở hữu quyền sáng chế đối với các phát minh của AI. Ngày 13/3/2024 vừa qua, EU chính thức thông qua đạo luật quản lý AI, đặt nền tảng pháp lý đầu tiên trên thế giới quản lý lĩnh vực công nghệ mới nổi và các hoạt động đầu tư có liên quan.[49] Đây là một tín hiệu cho thấy sự cần thiết của việc thiết lập những quy định rõ ràng về AI tại Việt Nam. Thứ hai,  việc hoàn thiện pháp luật SHTT cho AI là một trong những mục tiêu cần phải đặt ra. Đây là giải pháp chiến lược, có tính chất định hướng, nhằm tổ chức và chỉ đạo những bước phát triển tiếp theo của AI tại Việt Nam. Cần bổ sung hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới điều chỉnh vấn đề quyền sáng chế của sản phẩm không phải do con người tạo ra. Các quy định đó phải xác định rõ ràng chủ thể chịu trách nhiệm với các vấn đề liên quan đến AI. Ở Brazil, quốc gia này đã thúc đẩy nhanh chóng việc thiết lập một khung pháp lý dành cho AI dựa trên nền tảng những quy định lập pháp về SHTT đã được chính phủ phê duyệt từ trước.[50] Đây có thể xem là một trong những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, trong bối cảnh các nước đang tập trung hoàn thiện khung pháp lý, nước ta cũng cần nhanh chóng lấp đầy khoảng trống pháp lý về SHTT, định hình và áp dụng các chính sách linh hoạt để thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng AI trong xã hội. Dù có nhiều quan điểm ủng hộ vấn đề này vẫn chưa được thông qua, nguyên nhân chủ yếu do chúng ta chưa xác định được mục tiêu hướng tới của một đạo luật và phạm vi điều chỉnh. Công tác hoàn thiện khung pháp lý về SHTT cũng được nhà nước chỉ đạo thực hiện một cách nhất quán, xuyên suốt thông qua các quan điểm, đây được xác định là một trong những nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.[51] Thứ ba,  trước những thách thức về quyền sở hữu dữ liệu và quyền riêng tư, Việt Nam cần xây dựng cơ chế xác định trách nhiệm pháp lý rõ ràng, minh bạch và công bằng, xác định rõ những nguyên tắc chịu trách nhiệm và đảm bảo rằng công nghệ AI là “an toàn, bảo mật và đáng tin cậy”.  Thứ tư, cần có những quy định chặt chẽ về việc thu thập, sử dụng, chia sẻ và lưu trữ dữ liệu cá nhân đối với AI. Đại hội đồng Liên Hợp quốc cũng đã thông qua những quyết định đầu tiên về AI, nhằm giải quyết những thách thức còn tồn đọng như trách nhiệm pháp lý của AI và vấn đề về quyền sở hữu dữ liệu và quyền riêng tư mà AI tạo ra. Các nghiên cứu này cho thấy rằng cần có các sáng kiến nhằm định hình và điều chỉnh sự phát triển của AI trong bối cảnh lo ngại nó có thể làm gia tăng rủi ro . Thứ năm , cần nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng. Những nhà hoạch định chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của công chúng và giáo dục cộng đồng về AI và quyền SHCN. Các chiến dịch nhằm nâng cao nhận thức, giúp người dùng nhận thức được giá trị của quyền SHCN với sáng chế, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới không ngừng thay đổi. Cuối cùng , cần xây dựng hành lang pháp lý hài hòa với thế giới. Khi AI và quyền SHCN vượt qua ranh giới quốc gia, điều đó đòi hỏi phải hợp tác quốc tế. Việc xây dựng luật trong nước hài hòa trên quy mô toàn cầu sẽ thúc đẩy tính nhất quán trong việc bảo vệ quyền SHCN với sáng chế. Việc hợp tác quốc tế có thể giảm thiểu sự chênh lệch trong bảo vệ quyền và tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới. Kết luận: Nghiên cứu đã đi sâu phân tích sự giao thoa phức tạp giữa AI và quyền SHCN với sáng chế, làm sáng tỏ các thách thức và xu hướng tiềm năng trong lĩnh vực đầy biến động này. Việc xác định quyền sở hữu sáng chế của AI vẫn là một vấn đề gây tranh cãi khi đánh giá tư cách pháp lý của AI, đòi hỏi phải có sự cải cách pháp lý mạnh mẽ và thiết lập các tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Với cách tiếp cận toàn diện, nghiên cứu không chỉ tập trung làm rõ mối quan hệ giữa AI và SHCN mà còn nhấn mạnh những rào cản pháp lý và đạo đức cần giải quyết. Đồng thời, bài nghiên cứu đã đề xuất các khuyến nghị thực tiễn hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà phát triển AI và các bên liên quan nhằm thúc đẩy sự cân bằng giữa đổi mới công nghệ và bảo vệ quyền SHCN. Bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa đổi mới AI và bảo vệ quyền SHCN với sáng chế, nghiên cứu này hướng tới việc xây dựng một tương lai nơi sáng tạo, đổi mới và đạo đức cùng tồn tại hài hòa trong kỷ nguyên AI. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]  Đặng Thị Vân Anh - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao; Hồ Hằng Lê - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao; Nguyễn Thị Mai Phương - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao. [2] Simanta Shekhar Sarmah, ‘Concept of Artificial Intelligence, its Impact and Emerging Trends’ ( November 2019), Vol.06, International Research Journal of Engineering and Technology, p.2164, IRJET < https://www.researchgate.net/publication/337704931_Concept_of_Artificial_Intelligence_its_Impact_and_Emerging_Trends > truy cập ngày 11/11/2024. [3]  Stuart Russell, Peter Norvig,  Artificial Intelligence: A Modern Approach (3rd Global Edition, Pearson 2016.).  [4] [5] [6]  Nguyễn Thùy Dung, ‘ Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’,  (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, < https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/ [7]  ‘What is an invention?, World Intellectual Property Organization  (WIPO) , < https://www.wipo.int/en/web [8]  Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi năm 2022 , khoản 12 Điều 4. [9]  World Intellectual Property Organization, ‘Understanding Industrial Property’ (2016) < https://www.wipo.int/ [10] [12] [13] [14]   Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ 1994, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 33.  [11] Monisha Roy, ‘Intellectual property rights: An overview’ (2023) Vol 11  IJCRT < https://ijcrt.org/papers/IJCRT23A5424.pdf > truy cập ngày 18/11/2024. [15]   Vũ Mạnh Chu, ‘Quyền sở hữu trí tuệ và vai trò của quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam’ (2020) số 2 Tạp chí  Lý luận chính trị và truyền thông, Cục bản quyền tác giả < https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/uploads/file/2021/ [16]   Nguyễn Thùy Dung, ‘ Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’, ” (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, < https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/&doc=43560882331119138020990188062575278919&bitsid=1c196854-02a3-45d1-8eff-968d1ac30f06&uid= > truy cập ngày 18/11/2024. [17]  Văn Chiến, ‘Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) nhìn từ góc độ pháp luật sở hữu trí tuệ một số nước trên thế giới và Việt Nam’ (2024), Tạp chí điện tử pháp lý < https://phaply.net.vn/cong-nghe-tri-tue-nhan-tao-ai-nhin-tu-goc-do-phap-luat-so-huu-tri-tue-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-va-viet-nam-a256438.html > truy cập ngày 11/11/2024. [18]  Nguyễn Thùy Dung, ‘ Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’, ” (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, < https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/ [19]  35 U.S. Code § 100 (Definitions), United States Code, Title 35 (Patent Law). [20] [21]  Ralph D Clifford, ‘Simultaneous Copyright and Trade Secret Claims: Can the Copyright Misuse Defense Prevent Constitutional Doublethink?’ (2000) Vol 104 Dickinson Law Review 247, p.35. [22]  Phong Du, ‘Quy định AI năm 2024: Những điểm đáng chú ý’ (2024) Bài đăng số 1277-1279 (số 5-7/2024) Tạp chí Khoa học phát triển < https://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc/quy-dinh-ai-nam-2024-nhung-diem-dang-chu-y/20240129093654668p1c160.htm > truy cập này 07/12/2024. [23]  Bích Liên, ‘Bang California (Mỹ) thông qua luật quản lý AI’ ( Thông tấn xã Việt Nam , 29/08/2024) < https://baotintuc.vn/the-gioi/bang-california-my-thong-qua-luat-quan-ly-ai-20240829131750750.htm > truy cập ngày 07/12/2024. [24] [25]   Food Container  (Thaler, Stephen L.), 21 December 2021, Legal Board of Appeal, European Patent Office. [26]  Alex D’Elia, ‘EU Passes AI Act, World's First Comprehensive AI Law, By Overwhelming Majority’ Law.com (13/03/2024). < https://www.law.com/legaltechnews/2024/03/13/european-parliament-passes-landmark-ai-act-worlds-first-comprehensive-law-regulating-artificial-intelligence-397-83402/?slreturn=20241207145333 > truy cập ngày 07/12/2024. [27] [28]  Utkarsh Patil, ‘South Africa Grants A Patent With An Artificial Intelligence (AI) System As The Inventor – World's First’ (19 October 2021),  Mondap,  < https://www.mondaq.com/india/patent/1122790/south-africa-grants-a-patent-with-an-artificial-intelligence-ai-system-as-the-inventor--worlds-first#authors > truy cập ngày 14/11/2024. [29]  Claire Gibson, ‘Intellectual Property Law: The South African Patents Office Issues the Worlds First Patented Invention Listing AI as an Inventor’ (08/9/2021), DKVG Attorneys , < https://dkvg.co.za/intellectual-property-law-the-south-african-patents-office-issues-the-worlds-first-patented-invention-listing-ai-as-an-inventor/ > truy cập ngày 9/11/2024. [30] [31]   Thaler v Commissioner of Patents (30/7/2021), Federal Court of Australia, para 120, para 189. [32] Author Sneha Kashyape, ‘Establishing Rights for AI – a practical solution or an unattainable dream?’ Casedo (23/07/2023) < https://www.casedo.com/insights/legal-technology/legal-personhood-granting-legal-rights-to-ai/ > truy cập ngày 07/12/2024. [33]  Lâm Anh, ‘Saudi Arabia trao quyền công dân cho robot’,  Báo Quân đội Nhân dân  (20/10/2017) < https://www.qdnd.vn/quoc-te/doi-song/saudi-arabia-trao-quyen-cong-dan-cho-robot-522110 >  truy cập ngày 10/11/2024. [34]  [35] Nguyễn Thùy Dung, ‘ Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’, ” (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, < https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/ [36] [39]  Irena Mizisa, ‘Patent Rights in AI-Generated Data’ ( Master thesis, Riga Graduate School of Law 2024). [37] World Trade Organization, Members and Observers < https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_ [38] Nick Alonso, ‘An Introduction to the Problems of AI Consciousness’ The Gradient (30/8/2023) < https://thegradient.pub/an-introduction-to-the-problems-of-ai-consciousness/ > truy cập ngày 07/12/2024. [40]  ‘ Chatbot AI –  Trợ lý ảo đắc lực thay con người trả lời tự động hàng nghìn câu hỏi’   FPT.AI  (08/01/2020) < https://fpt.ai/vi/bai-viet/chatbot-ai-tro-ly-ao-dac-luc-thay-con-nguoi-tra-loi-tu-dong-hang-nghin-cau-hoi/ > truy cập ngày 12/11/2024.  [41] [42]  Bảo Bình, Hoàng An ‘Ứng dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ AI: Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội’ (2023) số 25-2023 Tạp chí Kinh tế Việt Nam < https://vneconomy.vn/ung-dung-va-phat-trien-manh-me-cong-nghe-ai-viet-nam-dang-dung-truoc-nhieu-co-hoi.htm > truy cập ngày 12/11/2024. [43]  Generative AI hay còn được gọi là Gen AI. Là một phần của trí tuệ nhân tạo, một mô hình học sâu, giúp tạo ra nội dung hoặc dữ liệu nhân tạo mới bao gồm Hình ảnh, Video, Nhạc hoặc thậm chí là mô hình 3D mà không cần bất kỳ nỗ lực nào của con người.   [44]  Phạm Lê ‘93% người dùng AI tại Việt Nam thường xuyên bắt đầu ngày mới với AI’ (2024) Tạp chí điện tử VNMedia < https://vnmedia.vn/cong-nghe/202405/93-nguoi-dung-ai-tai-viet-nam-thuong-xuyen-bat-dau-ngay-moi-voi-ai-d8a35a5/ > truy cập ngày 16/11/2024. [45]  Hồ Đắc Lộc, Huỳnh Châu Duy ‘Phát triển trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp’ (2020)  Tạp chí Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam < https://vjst.vn/vn/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=2677&tieude=phat-trien-tri-tue-nhan-tao-tai-viet-nam--thuc-trang-va-giai-phap.aspx > truy cập ngày 12/11/2024. [46] [47]   Paulius Cerka , J. Grigiene , Gintarė Sirbikytė , ‘Liability for damages caused by artificial intelligence’ (2015) Volume 31, Issue 3  p. 376-389 Published in Computer Law & Security Review , < https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S026736491500062X?via%3Dihub > truy cập ngày 13/11/2024. [48]  [49] Lê Phúc, Trần Dương, ‘Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý về AI: Kinh nghiệm của các nước và một số đề xuất cho Việt Nam’ (2024) Tạp chí điện tử Pháp lý < https://phaply.net.vn/su-can-thiet-xay-dung-khung-phap-ly-ve-ai-kinh-nghiem-cua-cac-nuoc-va-mot-so-de-xuat-cho-viet-nam-a258209.html > truy cập ngày 14/11/2024.  [50]  Phòng Pháp chế và Chính sách, ‘Hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ - góp phần đưa hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam lên chuẩn mực thế giới’ Bộ Khoa học và Công nghệ Cục sở hữu trí tuệ (Hà Nội, 26/07/2022) < https://ipvietnam.gov.vn/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/content/hoan-thien-chinh-sach-phap-luat-gop-phan-ua-he-thong-so-huu-tri-tue-cua-viet-nam-len-chuan-muc-quoc-te > truy cập ngày 15/11/2024. [51]   Lê Phúc, Trần Dương, ‘Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý về AI: Kinh nghiệm của các nước và một số đề xuất cho Việt Nam’ (2024) Tạp chí điện tử Pháp lý. < https://phaply.net.vn/su-can-thiet-xay-dung-khung-phap-ly-ve-ai-kinh-nghiem-cua-cac-nuoc-va-mot-so-de-xuat-cho-viet-nam-a258209.html > truy cập ngày 17/11/2024.

bottom of page