top of page
icj 1.jpeg

[73] QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT TRONG LUẬT QUỐC TẾ: SỰ ĐÓNG GÓP TỪ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

  • Đinh Văn Khiêm, Lê Thị Hiền Hạnh, Trương Hoàng Khôi Nguyên, Nguyễn Ngọc Trâm
  • 16 giờ trước
  • 24 phút đọc

Tác giả: Đinh Văn Khiêm, Lê Thị Hiền Hạnh,

Trương Hoàng Khôi Nguyên, Nguyễn Ngọc Trâm


Tóm tắt: 

Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng!

Những ngực nén hít thở Ngày Độc lập!

Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp!

Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca…


(Ngọn Quốc Kỳ, Xuân Diệu) 


Tám mươi năm đã trôi qua, song ngày thu lịch sử ấy vẫn rực rỡ trong ký ức dân tộc, ngày mà nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã vùng dậy thành quốc gia độc lập, tự do. Ngày ấy, câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cột mốc chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.


Nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 – 02/9/2025), nhóm tác giả xin gửi tới quý bạn đọc bài viết này. Bài viết tập trung phân tích lịch sử hình thành, phát triển và nội hàm của quyền dân tộc tự quyết dưới góc nhìn luật quốc tế, đồng thời đánh giá giá trị và sự đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết.


Từ khóa: quyền dân tộc tự quyết, sự phát triển, dân tộc, luật quốc tế, Tuyên ngôn Độc lập. 


1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền dân tộc tự quyết 

1.1 Giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX

Quyền dân tộc tự quyết được hiểu là quyền của mỗi dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của mình trên cơ sở chủ quyền quốc gia.[1] Khái niệm này xuất hiện từ châu Âu và Hoa Kỳ vào thế kỷ XVIII - XIX, gắn liền với các học thuyết về chủ quyền nhân dân và chính phủ đại diện.[2] Theo đó, nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền lực chính trị, còn nhà nước xuất hiện trên cơ sở những hoạt động nhận thức và sự đồng thuận của nhân dân.[3] Cơ sở lý luận cho quan niệm này bắt nguồn từ thuyết Khế ước xã hội của Hobbes, Locke, Montesquieu và Rousseau, coi nhà nước là sản phẩm của lý trí con người và được lập nên nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo đảm các quyền tự do cơ bản.[4]


Tại Trung và Đông Âu, nơi tồn tại nhiều đế chế đa dân tộc (Áo - Hung, Nga, Ottoman), khái niệm dân tộc tự quyết được phát triển từ chủ nghĩa dân tộc.[5] Chính sự đa dạng này, cùng với các chính sách đồng hóa do các đế chế áp dụng, đã làm gia tăng mạnh mẽ yêu cầu về quyền tự trị và chính phủ tự quản của từng nhóm dân tộc. Quyền dân tộc tự quyết có nguồn gốc từ mục đích bảo vệ lợi ích của các nhóm dân tộc trước các chính sách đồng hóa của các đế chế này.[6] Trong khi đó tại Tây Âu và Hoa Kỳ, khái niệm này có xuất phát từ mục đích bảo vệ lợi ích cho từng cá nhân trong khuôn khổ quốc gia đã tương đối thống nhất như Vương Quốc Anh, Pháp.[7] 


Tuy nhiên, trong giai đoạn hình thành, quyền dân tộc tự quyết chưa được thừa nhận như một quyền pháp lý phổ quát mà chủ yếu đóng vai trò “công cụ chính trị” phục vụ việc hình thành nhà nước, bảo vệ lợi ích của cá nhân hoặc các nhóm dân tộc, và được các quốc gia chiến thắng sử dụng như một công cụ để định hình lại trật tự thế giới sau các cuộc chiến tranh.[8]


1.2. Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã đề cao quyền dân tộc tự quyết trong bài phát biểu của mình (Chương trình 14 Điểm) trước Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 1 năm 1918.[9] Trong đó, ông cho rằng quyền dân tộc tự quyết gắn với dân tộc thiểu số,[10] trao cho họ quyền lựa chọn sự gắn kết chính trị thông qua trưng cầu dân ý.[11] Hay nói cách khác, theo Wilson, dân tộc tự quyết đồng nghĩa với “tự quản trị”, tức là quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn chính phủ của mình.[12] Ý tưởng của Wilson đã được áp dụng khá trực tiếp vào việc giải thể các đế chế Áo–Hung và Ottoman sau Thế chiến I, dẫn đến sự hình thành của hàng loạt quốc gia nhỏ hơn như Áo, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Tiệp Khắc, Nam Tư, Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania và Ba Lan.[13] Tuy nhiên, trong việc giải quyết các yêu sách thuộc địa, Wilson cho rằng quyền dân tộc tự quyết phải được dung hòa với lợi ích của các cường quốc thực dân.[14]


Trước đó, Vladimir Ilyich Lenin (V.I.Lênin) đã có những quan điểm riêng về quyền dân tộc tự quyết. Trong một số tác phẩm tiêu biểu như: Về cương lĩnh dân tộc của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (1913), Cách mạng xã hội và quyền dân tộc tự quyết (1916), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản (1920), V.I.Lênin cho rằng quyền dân tộc tự quyết là các dân tộc có quyền tự mình quyết định về vận mệnh, con đường phát triển của bản thân, có quyền độc lập về chính trị, tức tự quyết định thể chế chính trị của mình thoát khỏi ách áp bức của dân tộc khác.[15] Có thể thấy, bối cảnh mà V.I.Lênin xây dựng và phát triển lý luận về vấn đề quyền dân tộc tự quyết ở giai đoạn tiền Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi nước Nga Sa hoàng là nhà tù của các dân tộc. V.I.Lênin từng nhận xét: “ở nước Nga, sự áp bức mà những người dị tộc ấy phải chịu đựng, còn nặng nề hơn nhiều so với ở các quốc gia lân cận”.[16] Vì vậy, trong lý luận về quyền dân tộc tự quyết, V.I.Lênin rất đề cao yếu tố người dân bị đặt dưới ách áp bức, nô dịch của dân tộc khác đến mức “cuộc sống chung tuyệt đối không thể chịu được”.[17] Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, quan điểm của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết không mang ý nghĩa ủng hộ các dân tộc trong quốc gia thống nhất tự tách mình thành quốc gia riêng biệt mà V.I.Lênin chỉ ủng hộ việc đó khi dân tộc đang bị áp bức, bóc lột bằng biện pháp bạo lực.[18]


Xuất phát từ chính bối cảnh đó, lý luận của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết cũng nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân.[19] Bởi vì, V.I.Lênin cho rằng trong các giai tầng trong xã hội, giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản là lực lượng tiên phong, đấu tranh triệt để trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bao gồm cả việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết.[20] Do đó, V.I.Lênin đã đặt ra điều kiện quyết định bảo đảm độc lập và quyền tự quyết cho các dân tộc là thắng lợi của của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giai cấp.[21]


Ngoài ra, theo V.I.Lênin, quyền dân tộc tự quyết có mối quan hệ mật thiết với việc thực hiện bình đẳng dân tộc. Bởi lẽ, mục đích của việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết là nhằm bảo đảm bình đẳng dân tộc, trong đó bình đẳng về chính trị là điều kiện tiên quyết.[22] 


1.3. Sau chiến tranh thế giới thứ 2 

Trên thực tế, trong Thế chiến II, phe Đồng Minh đã từng có nhiều nỗ lực đưa quyền dân tộc tự quyết vào một số văn kiện từ năm 1941 đến năm 1944, điển hình trong Hiến chương Đại Tây Dương (1941) được tuyên bố bởi Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill.[23] Trong đó, văn bản nhấn mạnh quyền của mọi dân tộc được tự do lựa chọn thể chế chính trị và được bày tỏ nguyện vọng một cách tự do.[24] Bản hiến chương này đã tác động hội nghị San Francisco (1945) giữa các cường quốc thắng trận sau Thế chiến II, đưa quyền dân tộc tự quyết vào Hiến chương Liên hợp quốc.[25] Tại thời điểm ấy, bốn cường quốc chưa đưa ra một cơ chế hiệu quả để thực thi và mở rộng nguyên tắc này, tuy nhiên điều đó đã tượng trưng cho sự công nhận nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết bằng một thể chế mới, đồng thời nhấn mạnh vai trò của nó trong trật tự thế giới hậu chiến - một trật tự được xây dựng trên lý tưởng rằng mọi dân tộc đều có quyền quyết định vận mệnh chính trị của chính mình.[26] Đặc biệt, trong giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, việc truyền bá và áp dụng thành công quyền dân tộc tự quyết đã tạo nền tảng cho quá trình phi thực dân hóa và củng cố quyền này thành một chuẩn mực của luật pháp quốc tế cũng như một quyền con người.[27] Có thể thấy, quyền dân tộc tự quyết xuất phát từ một tư tưởng chính trị trở thành một nguyên tắc pháp lý, ảnh hưởng sâu sắc đến các quốc gia trên thế giới. 


2. Nội hàm của nguyên tắc dân tộc tự quyết

2.1. Nguồn của nguyên tắc 

Nguyên tắc dân tộc tự quyết được ghi nhận lần đầu trong Điều 1(2) của Hiến chương Liên hợp quốc về mục đích của tổ chức, rằng phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia dựa trên việc tôn trọng quyền bình đẳng và nguyên tắc dân tộc tự quyết. Ngoài ra nguyên tắc còn được ghi nhận tại Điều 1(1) Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) và Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR). 


Sau năm 1945, trong bối cảnh phi thực dân hóa, nguyên tắc dân tộc tự quyết tiếp tục được phát triển. Nghị quyết 1514 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ghi nhận nội dung của nguyên tắc này nhằm trao trả lại quyền tự quyết cho các dân tộc còn chưa có được độc lập, thúc đẩy hòa bình và sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới.[28] Nghị quyết này cũng đồng thời là cơ sở bắt đầu tiến trình phi thực dân hóa trên phạm vi toàn cầu.


Trong Ý kiến tư vấn về Vụ Hệ quả pháp lý của việc chia tách quần đảo Chagos khỏi Mauritius vào năm 1965, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) nhận định rằng nguyên tắc dân tộc tự quyết tồn tại trong tập quán quốc tế.[29] Ngoài ra, nguyên tắc dân tộc tự quyết còn có tính chất erga omnes,[30] và là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế đương đại.[31]


2.2. Nội dung của nguyên tắc

Nội hàm của nguyên tắc được giải thích cụ thể trong Tuyên bố về những Nguyên tắc của Luật Quốc tế điều chỉnh Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác giữa các Quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1970 (Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên hợp quốc), cụ thể: 


  • Tất cả các dân tộc đều có quyền tự do quyết định chế độ chính trị và mưu cầu phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa mà không có sự can thiệp từ bên ngoài;

  • Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền này, thúc đẩy việc hiện thực hóa quyền này, và hỗ trợ Liên hợp quốc trong việc chấm dứt chủ nghĩa thuộc địa;

  • Việc cưỡng bức và bóc lột các dân tộc là hành vi vi phạm nguyên tắc này, đi ngược lại các quyền con người cơ bản và Hiến chương;

  • Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy thực thi và tôn trọng phổ quát các quyền con người và tự do cơ bản;

  • Các dân tộc có quyền tự do quyết định việc thành lập một quốc gia độc lập, liên kết hay sáp nhập vào một quốc gia khác hay bất kỳ dàn xếp chính trị nào;

  • Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ không có hành vi vũ lực ngăn cản các dân tộc thực thi quyền này;

  • Lãnh thổ của các thuộc địa hay của Vùng Lãnh thổ không tự trị có quy chế tách biệt với lãnh thổ của quốc gia quản lý, cho đến khi dân tộc của thuộc địa hay lãnh thổ đó thực thi quyền tự quyết của mình;

  • Không có nội hàm nào ở đây được phép giải thích theo hướng cho phép hay khuyến khích các hành động nhằm làm tan rã, tổn hại toàn bộ hay một phần sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất chính trị của các quốc gia độc lập có chủ quyền – các quốc gia đang tuân thủ quyền tự quyết dân tộc như trên và do đó, có một chính phủ đại diện cho toàn bộ dân tộc thuộc lãnh thổ đó trên cơ sở không phân biệt chủng tộc, dòng dõi hay màu da;

  • Tất cả các quốc gia không được có hành vi nhằm làm tan rã toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia khác.


Nhìn chung, nguyên tắc dân tộc tự quyết có ba nội dung chính. Thứ nhất, các quốc gia có quyền tự quyết định thể chế chính trị, kinh tế và văn hóa mà không bị can thiệp bởi quốc gia khác. Việc thực hiện quyền tự quyết cần đảm bảo rằng dân tộc thực hiện quyền tự quyết cần tồn tại một chính phủ đại diện cho toàn bộ người dân mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào. Ngoài ra, theo Ủy ban Loại trừ Phân biệt Chủng tộc, nguyên tắc dân tộc tự quyết có thể được chia thành quyền tự quyết bên trong và quyền tự quyết bên ngoài, tương ứng với quyền quyết định các vấn đề nội bộ của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất chính trị và quyền được đảm bảo sự độc lập, không bị can thiệp bởi quốc gia bên ngoài.[32]


Thứ hai, các quốc gia có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền tự quyết của một dân tộc, không được có hành vi ngăn cản việc thực thi hay lợi dụng quyền này để phá hoại sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất chính trị của quốc gia khác. Các quốc gia cần hỗ trợ và giúp đỡ các dân tộc, cũng như Liên hợp quốc trong việc chấm dứt chủ nghĩa thực dân, ngăn chặn việc một quốc gia cưỡng ép hay bóc lột một dân tộc khác. 


Thứ ba, nguyên tắc này tạo cơ hội cho các dân tộc thuộc địa hay lãnh thổ không tự trị được thực thi quyền tự quyết của mình. Nghị quyết 1514 của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1960 đưa ra các sự lựa chọn cho các dân tộc thuộc địa nhằm thực thi nguyên tắc, bao gồm (i) thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền riêng, (ii) liên kết tự do với một quốc gia khác hoặc (iii) sát nhập vào quốc gia khác.[33]


3. Giá trị và sự đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn không chỉ là văn kiện lập quốc, tuyên bố chấm dứt gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp và ách thống trị của phát xít Nhật, mà còn mang ý nghĩa vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Trong đó, điểm nổi bật là tư tưởng về quyền con người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết, một nguyên tắc nền tảng của luật quốc tế hiện đại.


3.1. Kế thừa và phát huy tư tưởng tiến bộ về quyền con người 

Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, đồng thời phát triển lối tư duy về quyền con người.[34] Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Người đã trích dẫn câu bất hủ từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776): “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng từ “tất cả mọi người” trong lời trích của mình thể hiện cái nhìn đổi mới về quyền con người so với bản Tuyên ngôn của Hoa Kỳ trước đó.[35] 


Cụ thể, đoạn trích trên trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (1776) có nguyên văn như sau: “We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness”.[36] Đặt trong bối cảnh lịch sử Mỹ cuối thế kỷ XVIII, từ “all men” ở đây được sử dụng mang hàm nghĩa chỉ những người đàn ông Mỹ da trắng thời đó, không bao gồm phụ nữ, nô lệ và người Mỹ bản địa.[37] Trường hợp dùng từ tương tự cũng xuất hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), với nguyên văn: “Les hommes naissent et demeurent libres et égaux en droits”, khi dịch sang tiếng Anh mang nghĩa: “Men are born and remain free and equal in rights”[38].


Bằng việc dịch và diễn đạt “all men” thành “tất cả mọi người”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng phạm vi từ quyền của một nhóm xã hội thành quyền phổ quát của mọi người, không phân biệt giới tính, màu da, dân tộc, giai cấp hay tôn giáo. Đây là bước phát triển quan trọng, phản ánh tầm nhìn nhân văn và tư duy cách mạng biến quyền con người thành giá trị chung của toàn nhân loại. 


Như vậy, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa tinh hoa tư tưởng Khai sáng về quyền con người,[39] vừa khéo léo trong cách dùng từ nhằm khẳng định tính phổ quát, bất khả xâm phạm của quyền con người trong thời đại mới. Qua đó, bản Tuyên ngôn là lời khẳng định những giá trị nhân quyền, đồng thời thể hiện tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng nhằm đấu tranh cho các giá trị nhân văn bất khả xâm phạm mà các cuộc cách mạng trước đó đã giương cao.[40]


3.2. Phát triển từ quyền con người thành quyền dân tộc tự quyết 

Bên cạnh sự kế thừa và tái khẳng định những giá trị nhân quyền phổ quát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển tư duy từ quyền con người thành quyền của các dân tộc. Ngay sau lời trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “phát triển”[41] ngữ nghĩa của câu này: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do”. Học giả người Nhật Bản Shingo Shibata, trong tác phẩm của mình, cho rằng đóng góp nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập chính là sự phát triển quyền con người vào quyền dân tộc rằng tất cả các dân tộc đều có quyền quyết định vận mệnh của mình và thực hiện việc tự cai quản nền độc lập của mình.[42]


Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển từ quyền con người từ phạm vi hẹp “all men”, gắn với bối cảnh cuối thế kỷ XVIII khi chế độ nô lệ và nạn phân biệt chủng tộc còn tồn tại, ám chỉ những người đàn ông da trắng, thành quyền con người phổ quát dành cho “tất cả mọi người”, và rộng hơn nữa là “tất cả các dân tộc”. Nội hàm của quyền dân tộc đối với Hồ Chí Minh đã được mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, quyền dân tộc, bên cạnh quyền dân tộc tự quyết, còn bao hàm quyền bình đẳng với các dân tộc khác, quyền tự do, và hạnh phúc.[43]


Những tư tưởng nền tảng về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập, đã nhanh chóng được thể chế hóa thành quy phạm pháp lý trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946. Theo đó, Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định, “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đồng thời, Hiến pháp năm 1946 cũng ghi nhận quyền bình đẳng của mọi công dân Việt Nam về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, bình đẳng trước pháp luật.[44] Tinh thần ấy tiếp tục được kế thừa và khẳng định mạnh mẽ hơn trong các bản Hiến pháp sau này, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 với quy định nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ[45], và các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm ở Việt Nam[46]. Hiến pháp 2013 cũng quy định quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật.[47]


Nhìn theo dòng thời gian, có thể thấy sự phát triển liên tục trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết. Cụ thể, từ bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc đã dám đứng lên trước các cường quốc thắng trận sau chiến tranh thế giới thứ nhất tại Hội nghị Versailles năm 1919, đòi quyền một số quyền tự do cơ bản cho dân tộc mình, trong bối cảnh quyền tự quyết dân tộc đang trong quá trình phát triển.[48] Đến Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tái khẳng định những giá trị nhân quyền phổ quát, cũng như mở rộng cách hiểu về quyền dân tộc tự quyết. Cuối cùng, các giá trị nhân quyền ấy được hiến định trong Hiến pháp 1946, và kế thừa trong Hiến pháp 2013. 


Một điểm đáng chú ý về mặt lý luận về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hai quyền này được đặt trong mối quan hệ biện chứng, liên hệ chặt chẽ với nhau.[49] Theo đó, quyền dân tộc tự quyết là cơ sở để thực thi quyền con người, còn bảo vệ quyền con người chính là hiện thực hóa giá trị của độc lập dân tộc.[50] Tư tưởng này mang ý nghĩa đi trước thời đại của Người. Cụ thể đến năm 1966, quyền dân tộc tự quyết mới được đưa vào nội dung của hai điều ước quốc tế về nhân quyền bao gồm ICCPR và ICESCR. Theo đó, Điều 1 của cả hai điều ước quốc tế trên đều xác định “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết”. Việc đưa một quyền tập thể vào Điều 1 đã phản ánh tầm quan trọng của quyền dân tộc tự quyết là quyền có tính nền tảng, cốt yếu vì việc thực hiện quyền này là điều kiện tiên quyết, thiết yếu để đảm bảo và tuân thủ hiệu quả các quyền con người mang tính cá nhân được đề cập trong hai Công ước.[51] Như vậy, việc phát triển lý luận từ những quyền cơ bản của con người thành quyền dân tộc và gắn chặt quyền con người với quyền dân tộc tự quyết là một cống hiến lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào dòng chảy tư tưởng nhân quyền của nhân loại.[52]


3.3. Là ngọn cờ giương cao ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới

Giá trị và đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết còn được thể hiện ở chỗ đây là văn kiện đánh dấu một “kỷ nguyên” mới của giải phóng dân tộc khỏi sự bóc lột của thực dân trên toàn thế giới.[53] Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nguồn động viên to lớn đối với các dân tộc đang bị áp bức trên thế giới với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.[54]


Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nguồn động lực trực tiếp cho nhân dân Lào đứng lên giành chính quyền và tuyên bố độc lập ngày 12/10/1945, đồng thời tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, dẫn tới việc Philippines, Myanmar, Indonesia và Malaysia lần lượt giành được độc lập vào các năm 1946, 1948, 1950 và 1957.[55] Ở Đông Bắc Á, cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là sự cổ vũ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc với sự thắng lợi của Cách mạng Trung Quốc năm 1949.[56]


Ảnh hưởng này còn vang xa tới Nam Á và châu Phi. Phong trào giành độc lập Ấn Độ chuyển từ yêu sách tự trị sang tuyên bố độc lập hoàn toàn (1950); nhiều nước Bắc Phi như Ai Cập (1952), Algeria (1954) vùng lên đấu tranh, mở đầu làn sóng giải phóng mà riêng năm 1960 đã có tới 17 quốc gia châu Phi giành độc lập.[57] Ở Mỹ Latinh, tinh thần từ Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam cũng truyền cảm hứng cho phong trào đấu tranh, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Cuba năm 1959.[58]


Như vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, mà còn trở thành ngọn cờ tiên phong cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu, góp phần đánh bại chủ nghĩa thực dân - đế quốc và thúc đẩy sự phát triển quyền dân tộc tự quyết trong luật pháp quốc tế.


Kết luận: 

Như vậy, tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết manh nha từ cuối thế kỷ XVIII, được phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai với các luận thuyết của Lênin, Wilson và đặc biệt, cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc và làn sóng đấu tranh giải phóng dân tộc, nguyên tắc này từng bước được pháp điển hóa, phát triển và trở thành một trong những nền tảng của luật quốc tế hiện đại. Nội hàm của quyền không chỉ khẳng định sự tự do lựa chọn thể chế chính trị, con đường phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc mà còn đặt ra nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm quyền ấy như điều kiện thiết yếu để duy trì hòa bình và hợp tác quốc tế. Trong dòng chảy phát triển của quyền dân tộc tự quyết, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là lời khẳng định quyền sống, quyền tự do của dân tộc Việt Nam, vừa là đóng góp có ý nghĩa phổ quát khi phát triển từ quyền con người thành quyền dân tộc tự quyết, trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1][2] Trần Nam Tiến, ‘Quyền dân tộc tự quyết (Self-determination)’ (Nghiên cứu Quốc tế, 23/04/2016) https://nghiencuuquocte.org/2016/04/23/quyen-dan-toc-tu-quyet-self-determination/ truy cập ngày 24/08/2025.

[3] Nguyễn Tiến, Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, http://www.tuyengiao.vn/Home/Bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-Dang/60263/Tat-ca-quyen-luc-Nha-nuoc-thuoc-ve-Nhan-dan truy cập ngày 24/08/2025.

[4] GS.TS Lê Minh Tâm, PGS.TS Nguyễn Minh Doanh ( đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010), trang 24.

[5] Thomas D. Musgrave (2000), Self Determination and National Minorities, Oxford University Press, trang 13.

[6][7] Rhona K.M. Smith (2003), Textbook on International Human Rights, Oxford University Press, trang 269.

[8] Sanakoev IB, Kulumbegova LT, and Ivleva ML, National Self‑determination: Features of the Evolution and Functioning of the Phenomenon, RUDN Journal of Philosophy 27.1 (2023) 155, DOI:10.22363/2313‑2302‑2023‑27‑1‑153‑162. 

[9], [25] Daniel Thürer, Thomas Burri, “Self-Determination”, [2012] Max Planck Encyclopedia of Public International Law (Oxford Public International Law), <https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e873>, truy cập ngày 23/8/2025.

[10], [12], [14], [23] Cassese, Antonio. Self-Determination of Peoples: A Legal Reappraisal. Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1995, p19, p21, p38. 

[11], [13] Milena Sterio, “Self-Determination: Historical Underpinnings”, [2018] Secession in International Law, p13-14. 

[15]  V.I.Lênin: Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.327; Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận, số 273 (3/2018), trang 41 <https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf> truy cập ngày 23/8/2025. 

[16]   V.I.Lênin: Toàn tập, t.25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.317. 

[17]  V.I.Lênin: Những vấn đề chính sách dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, trang 83. 

[18], [19], [20], [22]  Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận, số 273 (3/2018), trang 42 <https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf> truy cập ngày 23/8/2025; n.d., “Tư tưởng của V.I. Lênin về quyền dân tộc tự quyết và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4 [2020], <https://hvdt.edu.vn/nghien-cuu/nghien-cuu-trao-doi/tu-tuong-cua-v-i-lenin-ve-quyen-dan-toc-tu-quyet-va-y-nghia-doi-voi-viet-nam-hien-nay>, truy cập ngày 23/8/2025.

[21] V. I. Lenin, ‘The Revolutionary Proletariat and the Right of Nations to Self-Determination’ (written October 16 [29] 1915, first published in Lenin Miscellany VI, Collected Works vol 21, Progress Publishers Moscow) <https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1915/oct/16.htm> Truy cập ngày 24/8/2025; Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận, số 273 (3/2018), trang 42 <https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf> truy cập ngày 23/8/2025

[24]  Hiến chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter), Điều 2,3. 

[26], [27] Sam K.N. Blay, “Self-Determination: An Historical and Analytical Inquiry into Its Origins and Evolution, 1400–1945” [1996] Australian Journal of Legal History 2, 117–162, p160, p161; Cassese, Antonio. Self-Determination of Peoples: A Legal Reappraisal. Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1995, p38. 

[28]  Preamble, 1514 UN Resolution.

[29] Vụ Hệ quả pháp lý của việc chia tách quần đảo Chagos khỏi Mauritius vào năm 1965 [2019] (Ý kiến tư vấn) ICJ Reports, tr.131-135.

[30] Vụ Đông Timor (Bồ Đào Nha v. Australia) [1995] (Phán quyết) ICJ Reports, tr.102.

[31] Vụ Tây Sahara [1975] (Ý kiến tư vấn) ICJ Reports, tr.31

[32]  Ủy ban Loại trừ Phân biệt Chủng tộc, Khuyến nghị chung số 21 (1996) trong Report of the Committee on the Elimination of Racial Discrimination to the General Assembly.

[33]  Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nghị quyết 1514 (1960), Phụ lục, Nguyên tắc VI.

[34], [35]  Trần Nghị, “Giá trị và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết qua bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, <https://tcnn.vn/news/detail/51835/Gia-tri-va-y-nghia-thoi-dai-cua-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-quyen-con-nguoi-quyen-dan-toc-tu-quyet-qua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap-nam-1945.html>, truy cập ngày 21/8/2025. 

[36] Declaration of Independence - 1776 <https://docs.house.gov/meetings/GO/GO00/20220929/115171/HHRG-117-GO00-20220929-SD010.pdf>, truy cập ngày 21/8/2025.

[37] Trần Nghị, “Giá trị và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết qua bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, <https://tcnn.vn/news/detail/51835/Gia-tri-va-y-nghia-thoi-dai-cua-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-quyen-con-nguoi-quyen-dan-toc-tu-quyet-qua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap-nam-1945.html>, truy cập ngày 21/8/2025;  Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, (Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình, 01/9/2021), <https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm>, truy cập ngày 22/8/2025; Xem thêm: Morgan Keith, “What does “All men are created equal” Mean?”, Compass: An Undergraduate Journal of American Political Ideas: Vol. 2 : Iss. 1 , Article 3, <https://digitalcommons.jsu.edu/compass/vol2/iss1/3>, truy cập ngày 21/8/2025; Xem thêm: Hannah Spahn, “How White Was Jefferson’s Declaration of Independence?”, (OLL, 15/6/2021), <https://oll.libertyfund.org/publications/liberty-matters/2021-07-15-how-white-was-jefferson-s-declaration-of-independence>, truy cập ngày 21/8/2025, (Tài liệu này đề cập đến sự không chắc chắn rằng liệu Jefferson có ý định bao gồm những người nô lệ và phụ nữ của ông ấy vào “all men” hay không, hay liệu nó chỉ đơn thuần mang nghĩa nhấn mạnh sự bình đẳng giữa người Mỹ da trắng và người Anh.)

[38] The Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, (La Maison Élysée), <https://www.elysee.fr/en/french-presidency/the-declaration-of-the-rights-of-man-and-of-the-citizen>, truy cập ngày 21/8/2025.

[39] Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, <https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html>, truy cập ngày 21/8/2025.

[40], [43], [50] Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, (Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình, 01/9/2021), <https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm>, truy cập ngày 22/8/2025.

[41] David Armitage, “The Declaration of Independence in Global Perspective”, (The Gilder Lehrman Institute of American History), <https://www.gilderlehrman.org/history-resources/essays/declaration-independence-global-perspective>, truy cập ngày 22/8/2025.

[42] Shingo Shibata, Lessons of the Vietnam War, Amsterdam, 1973, p.141; Xem thêm:  Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, <https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html>, truy cập ngày 21/8/2025.

[44]  Hiến pháp năm 1946, Điều 6, 7.

[45]  Hiến pháp 2013, Điều 1.

[46] Hiến pháp 2013, Điều 14. 

[47] Hiến pháp 2013, Điều 16.

[48] Đặng Kim Oanh, Vũ Thị Ngọc Liên, “Bản yêu sách của nhân dân An Nam 100 năm với những âm hưởng hào hùng”, (Tạp chí Lịch sử Đảng, 17/11/2020), <https://tapchilichsudang.vn/ban-yeu-sach-cua-nhan-dan-an-nam-100-nam-voi-nhung-am-huong-hao-hung.html>, truy cập ngày 28/8/2025.

[49] Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, (Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình, 01/9/2021), <https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm>, truy cập ngày 22/8/2025; Xem thêm: Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, <https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html>, truy cập ngày 21/8/2025.

[51] PAUL M. TAYLOR, A Commentary on the International Covenant on Civil and Political Rights, (Cambridge University Press, 2020), tr. 57; Ben Saul, David Kinley, Jaqueline Mowbray, The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights: Commentary, Cases, and Materials, (Oxford Scholarly Authorities on International Law [OSAIL], 2014), tr. 12-123. 

[52] Đào Văn Quang, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người”, (Tạp chí Điện tử Lý luận Chính trị, 19/5/2017), <https://lyluanchinhtri.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoi-571.html>, truy cập ngày 28/8/2025.

[53], [55], [56], [57], [58] Hoang Thi Tham, “The Declaration of Independence (1945) of the Democratic Republic of Vietnam  and its Role in the Struggle for Independence of the People Worldwide”, [2024] Vol 13 No 4 Academic Journal of Interdisciplinary Studies, <https://www.richtmann.org/journal/index.php/ajis/article/view/13871/13424>, truy cập ngày 23/8/2025.

[54] Phùng Thanh, “Giá trị dân tộc và thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, <https://tcnn.vn/news/detail/51837/Gia-tri-dan-toc-va-thoi-dai-cua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap.html>, truy cập ngày 23/8/2025.


Bình luận


bottom of page