top of page

TRANG TÌM KIẾM

Tìm thấy 105 kết quả với một nội dung tìm kiếm trống

Blog (77)

  • [75] CÁC CÁCH THỨC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ THEO LUẬT QUỐC TẾ

    Tác giả: Phạm Thị Lan Hương, Nguyễn Hà Minh Thu   Tóm tắt: Trong suốt quá trình phát triển của các quốc gia, lãnh thổ luôn giữ vai trò quan trọng gắn liền với chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, do các biến động lịch sử như chiến tranh, di cư, và thỏa thuận chính trị, ranh giới lãnh thổ của nhiều quốc gia thường thay đổi. Chính vì vậy, ngành luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ ra đời nhằm điều chỉnh những biến động này một cách hợp pháp. Bài viết tập trung phân tích 05 cách thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản theo luật quốc tế, bao gồm: (1) chuyển nhượng; (2) chiếm hữu; (3) chiếm hữu theo thời hiệu; (4) bồi tụ; (5) sử dụng vũ lực/xâm lược - phương thức đã bị cấm sau năm 1945. Từ khóa: Luật Quốc tế, thụ đắc lãnh thổ, cách thức thụ đắc lãnh thổ, chuyển nhượng, chiếm hữu, chiếm hữu theo thời hiệu, bồi tụ, xâm lược. Mở đầu Theo luật quốc tế “Thụ đắc lãnh thổ” là quá trình một quốc gia xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mới, hay nói cách khác, là việc một quốc gia mở rộng lãnh thổ hiện có một cách hợp pháp thông qua các hành động mà luật quốc tế cho phép. Truyền thống phân loại các phương thức thụ đắc lãnh thổ bắt nguồn từ luật La Mã cổ đại,[1] theo đó có 05 cách thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản: chuyển nhượng; chiếm hữu; chiếm hữu theo thời hiệu; bồi tụ; và xâm lược - phương thức hiện đã bị cấm sau năm 1945 theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Tuy nhiên cách phân loại này hiện nay được đánh giá là chưa đầy đủ và không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện đại[2] do tính phức tạp của các tranh chấp lãnh thổ, vì vậy không thể chỉ dựa vào một phương thức thụ đắc đơn lẻ mà cần xem xét toàn diện nhiều yếu tố, bao gồm sự công nhận của cộng đồng quốc tế và các hành vi thực thi chủ quyền của quốc gia liên quan.[3] Vì vậy, các phương thức thụ đắc lãnh thổ chỉ nên được xem như những cách phân loại thuận tiện để nghiên cứu, còn thực tế việc xác định chủ quyền lãnh thổ đòi hỏi phải xét đến nhiều yếu tố phức tạp và đa chiều hơn. 1. Thụ đắc lãnh thổ theo hình thức chuyển nhượng (Cession)  Chuyển nhượng là phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng cách chuyển nhượng lãnh thổ của quốc gia này sang quốc gia khác dựa trên sự đồng thuận giữa các quốc gia, thông thường qua việc ký kết các điều ước quốc tế có hiệu lực pháp lý.[4] Cơ sở cho phương thức này chính là ý định của các quốc gia.[5] Đồng thời các quốc gia không thể chuyển nhượng nhiều hơn những gì mình có, trừ trường hợp thụ đắc bằng phương thức bồi tụ (accretion).[6] Trong  Vụ Đảo Palmas (Hoa Kỳ v. Hà Lan) , tòa đã nhấn mạnh điểm này và các bên chấp nhận rằng Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng cho người Mỹ nhiều hơn những quyền họ đang sở hữu.[7] Trong lịch sử từng tồn tại những trường hợp cưỡng ép chuyển nhượng lãnh thổ bằng việc đe dọa hay sử dụng vũ lực, ví dụ như trong vụ Iloilo (Hoa Kỳ v. Philippines), Philippines đã chuyển nhượng khu vực này cho Mỹ theo Điều ước Paris 1898 mặc dù quân đội Mỹ đã chiếm cứ Iloilo 2 tháng trước đó.[8] Sau này trong Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969, các điều ước quốc tế cần phải có hiệu lực theo luật quốc tế để bảo để bảo đảm tính hợp pháp, bao gồm những điều ước quốc tế về việc chuyển nhượng, điều này đồng nghĩa với việc các điều ước này không thuộc những trường hợp bị vô hiệu hoá trong công ước.[9] Ngoài ra, chuyển nhượng khác với việc cho thuê lãnh thổ hay còn được hiểu là chuyển nhượng quyền hành chính (administrative cession) của một lãnh thổ.[10] Điển hình của việc chuyển nhượng quyền hành chính là trường hợp Trung Quốc cho Anh thuê toàn bộ Hồng Kông hiện nay theo Hiệp ước về Mở rộng Lãnh thổ Hồng Kông năm 1898 trong vòng 99 năm kể từ ngày 01/07/1898. Trong Tuyên bố chung Anh-Trung về Vấn đề Hồng Kông ngày 19/12/1984, các bên công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hồng Kông và lên tiến trình bàn giao khôi phục việc thực thi chủ quyền của Trung Quốc tại Hồng Kông.[11] Trong khi đó, các hiệp ước chuyển nhượng thường sẽ nêu rõ quốc gia gia này chuyển chủ quyền lãnh thổ sang quốc gia khác. Ví dụ, ngay tại Điều 1 hiệp ước chuyển nhượng tài sản của Nga ở Bắc Mỹ, hiệp ước đã ghi nhận sự đồng ý thành văn của Sa hoàng Nga về chuyển nhượng tài sản ở Bắc Mỹ cho Mỹ: “Sa hoàng Nga đồng ý nhượng cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ toàn bộ lãnh thổ và quyền thống trị hiện đang có theo hiệp ước này, ngay sau khi trao đổi các văn kiện phê chuẩn.” [12] Lịch sử thế giới cũng ghi nhận nhiều trường hợp chuyển nhượng lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau thông qua mua bán như Hoa Kỳ mua lại Louisiana từ Pháp,[13]   Anh và Đức đã trao đổi hai vùng Heligoland và Zanzibar.[14] Ngày nay, do tính chất nhạy cảm của chủ quyền lãnh thổ và phản ứng của dư luận, việc chuyển nhượng giữa các quốc gia trở nên hiếm hoi và chủ yếu tại các vùng cận biên liên quan đến thiết lập biên giới như Hoa Kỳ nhượng lại quần đảo Swans cho Honduras năm 1971.[15] Tóm lại, chuyển nhượng là một phương thức thụ đắc mang tính chất hòa bình, dựa trên sự đồng thuận của các quốc gia có chủ quyền, thông qua một hoặc nhiều điều ước quốc tế và tuân thủ luật pháp quốc tế nói chung mặc dù trước Công ước viên 1969, còn tồn tại trường hợp đe doạ sử dụng vũ trang hoặc sử dụng vũ trang để cưỡng ép chuyển nhượng. Thực tiễn quốc tế cho thấy, việc chuyển nhượng không chỉ dừng lại ở chuyển giao chủ quyền, mà còn bao gồm các hình thức chuyển giao quyền hành chính có giới hạn về thời gian, như trường hợp Hồng Kông nói trên. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, do tính nhạy cảm về vấn đề chủ quyền nên các trường hợp chuyển nhượng ngày càng trở nên hiếm hoi, nếu có thì chủ yếu xảy ra ở khu vực biên giới nhằm giải quyết tranh chấp hoặc hoàn thiện đường biên.   2. Thụ đắc lãnh thổ bằng hình thức chiếm hữu (Occupation) Một trong những phương thức thụ đắc lãnh thổ lâu đời trong lịch sử luật quốc tế là chiếm hữu (occupation),[16] xuất phát từ khái niệm occupatio từ thời La Mã cổ đại. Khái niệm này vốn không đề cập trực tiếp về thụ đắc đất đai, lãnh thổ mà liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật bị từ bỏ quyền sở hữu hoặc vật của người khác đánh mất nhưng bản thân đã sử dụng trong khoảng thời gian lâu dài, hợp lý.[17] Chiếm hữu là cách thức pháp lý hoà bình xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ vô chủ, không thuộc về bất kỳ một ai tại thời điểm thụ đắc  (terra nullius) .[18] Lãnh thổ vô chủ là điều kiện cơ bản cho phép quốc gia xác lập chủ quyền bằng phương thức thụ đắc chiếm hữu.[19] Lãnh thổ vô chủ hay lãnh thổ không thuộc về một ai tại thời điểm thụ đắc có thể là các vùng lãnh thổ và đảo không có người sinh sống,[20] hoặc một số trường hợp khác như quốc gia trước đó từ bỏ chủ quyền.[21] Trước đây, một số học giả phương Tây cho rằng lãnh thổ có cư dân bản địa sinh sống nhưng không được quản lý bởi một nhà nước vẫn có thể được coi là terra nullius ,[22] quan điểm này sau đó bị bác bỏ bởi tòa ICJ trong Ý kiến tư vấn trong Vụ Tây Sahara .[23] Nhận định của Tòa rằng “ Mặc dù các luật gia có những ý kiến khác nhau, thực tiễn chung trong thời điểm đó không công nhận những lãnh thổ có sự sinh sống của bộ tộc hoặc nhóm người có một tổ chức chính trị - xã hội là terra nullius”, [24] đã   phản ánh việc cần có những đòi hỏi chặt chẽ hơn để xác minh lãnh thổ vô chủ. Trên thực tế, thế giới hiện nay gần như không có khu vực nào đủ “trống”[25] hay nằm ngoài chủ quyền một quốc gia nhất định[26] để được công nhận là terra nullius.  Biển cả nằm ngoài phạm vi của phương thức này do là res communis  (dành cho tất cả các quốc gia).[27] Đối với trường hợp lãnh thổ đã từng thuộc chủ quyền của một quốc gia nhưng sau đó bị từ bỏ, cần xét đến hai yếu tố: (i) không có những hành động thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó và (ii) ý định từ bỏ chủ quyền của quốc gia trước đó.[28] Nhằm xác lập chủ quyền lãnh thổ, các quốc gia từng sử dụng cách thức phát hiện hay khám phá (discovery).[29] Nhìn lại lịch sử, cùng với sự phát triển của ngành hàng hải từ thế kỷ XII, các quốc gia Châu Âu đã đặt chân đến những vùng đất mới nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ. Khoảng giữa thế kỷ XV đến XVI, các quốc gia có thể thiết lập chủ quyền trên lãnh thổ vô chủ được quốc gia đó phát hiện. Điển hình, Hiệp ước Tordesillas giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1494 đã pháp điển hoá sắc lệnh của Giáo hoàng Alexander VI, cho phép Bồ Đào Nha lập chủ quyền đối với các đảo và đất liền tìm thấy và sẽ tìm thấy ở phía Đông của một đường cách đường nối từ Cực Nam với Cực Bắc thông qua phía Tây đảo Cape Verde 370, các vùng lãnh thổ ở phía Tây đường này thuộc về Tây Ban Nha.[30] Tuy nhiên theo thời gian, cách thức này bộc lộ nhiều hạn chế.[31] Nhiều lập luận cho rằng, cách thức này chỉ tạo ra “danh nghĩa ban đầu” (inchoate title) chứ không thể thiết lập chủ quyền,[32] luật pháp quốc tế đòi hỏi cách thức xác lập chủ quyền thực chất hơn. Thông qua việc để lại bằng chứng mang tính biểu tượng trên các vùng lãnh thổ vô chủ như cắm cờ hay ra tuyên bố quốc tế,[33] cách thức chiếm hữu tượng trưng có nhiều ưu điểm hơn cách thức phát hiện nhưng dễ dẫn đến tranh chấp do nhiều điều kiện như thông tin chưa phát triển lúc bấy giờ.[34] Thế kỷ XIX, những điều kiện mới xuất hiện đã đặt ra yêu cầu cách thức chiếm hữu bằng phát hiện hiện cần song hành với thời gian hợp lý bởi chiếm hữu thực sự (effective occupation).[35] Hai yếu tố cần xét đến để chứng minh sự hữu hiệu của chiếm hữu (occupation) chính là sự chiếm hữu (possession) và sự quản lý hành chính (administration).[36] Nói một cách dễ hiểu, chiếm hữu hữu hiệu được thể hiện thông qua sự chiếm hữu về mặt lãnh thổ và động thái quản lý của chính quyền nhà nước. Sự chiếm hữu (possession) ở đây bao gồm hai điều kiện: (i) chiếm hữu hữu hình (corpus) , có thể được biểu hiện tùy thuộc vào đặc điểm lãnh thổ; và (ii) ý định chiếm hữu lãnh thổ  (animus) , thường được chứng minh thông qua những động thái chính thức thể hiện ý định xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ mới được chiếm hữu của quốc gia có yêu sách chủ quyền.[37] Phân tích về chiếm hữu thực sự, James Crawford[38] trích dẫn nhận định của tòa trong Vụ Eastern Greenland (Đan Mạch v. Na Uy) : “Một yêu sách chủ quyền không dựa trên một số hành động cụ thể hay danh nghĩa chủ quyền được thiết lập dựa trên điều ước chuyển nhượng mà chỉ dựa trên việc tiếp tục thể hiện thẩm quyền, bao gồm hai yếu tố mà mỗi yếu tố phải được chứng minh là tồn tại: ý định và ý chí hành động với tư cách chủ quyền, và một số hành động thực tế hoặc sự thể hiện thẩm quyền đó.” [39] Lập luận về chiếm hữu thực sự này sau đó tiếp tục được đề cập tới trong một số vụ việc như Eritrea v. Yemen. [40] Theo đó, ý định của quốc gia trong việc thiết lập chủ quyền đối với lãnh thổ và những động thái trên thực tế là hai điều kiện tối quan trọng để quốc gia thụ đắc lãnh thổ theo cách thức chiếm hữu thực sự. Yếu tố quản lý (administration) đòi hỏi quốc gia chiếm hữu cần có các động thái quản lý tiếp sau khi chiếm hữu lãnh thổ terra nullius để được cấu thành thành chiếm hữu thực sự.[41] Trong Định ước Berlin năm 1885, mặc dù chỉ giới hạn giữa các thành viên tham gia Hội nghị Berlin và lãnh thổ châu Phi, cũng quy định hai điều kiện công nhận tính hợp pháp của hành động chiếm hữu với các vùng lãnh thổ châu Phi là phải thông báo cho các quốc gia tham gia hội nghị và nước chiếm hữu phải duy trì sự hiện diện của nhà nước tại vùng lãnh thổ mới chiếm hữu.[42] Mối tương quan giữa phát hiện và chiếm hữu thực sự có thể được nhìn thấy trong Vụ Đảo Palmas. Trong vụ việc này, Hoa Kỳ cho rằng theo Hiệp ước Paris năm 1898, Tây Ban Nha đã nhượng lại toàn bộ chủ quyền của Tây Ban Nha đối với đảo này dựa trên việc Tây Ban Nha đã phát hiện đảo vào thế kỷ XIV, trong khi Hà Lan khẳng định nước này đã xác lập chủ quyền thông qua việc thực thi chủ quyền trong thời gian dài.[43] Tòa trọng tài nhận định sự phát hiện chỉ tạo ra danh nghĩa ban đầu (inchoate title) , không có những động thái chiếm hữu trên thực tế.[44] Danh nghĩa này chỉ được hoàn thiện đầy đủ với “việc chiếm hữu thực chất khu vực được cho là được phát hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (a reasonable period)”.[45] Như vậy Tây Ban Nha đã không thể xác lập chủ quyền đầy đủ đối với đảo Palmas, do đó không thể chuyển nhượng cho Hoa Kỳ nhiều hơn những gì Tây Ban Nha có.[46] Như vậy, chiếm hữu từ lâu đã xuất hiện trong buổi bình minh của luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ và sau này được phát triển và hoàn thiện bởi những đòi hỏi chặt chẽ về chiếm hữu thực sự. Tuy theo thời gian, việc chứng minh tiền đề terra nullius ngày càng khó khăn và phức tạp do sự trái biệt về các học thuyết và tiến bộ công nghệ - kic thuật. Thực tiễn quốc tế cho thấy chính sự khó khăn này dẫn đến việc khó phân biệt rạch ròi giữa cách thức chiếm hữu và chiếm hữu theo thời hiệu. 3. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức chiếm hữu theo thời hiệu (Prescription) Chiếm hữu theo thời hiệu là cách thức xác lập chủ quyền lãnh thổ dựa trên các hoạt động thực thi chủ quyền thực chất, hòa bình, liên tục trong một khoảng thời gian hợp lý.[47] Đối tượng của chiếm hữu theo thời hiệu là lãnh thổ được giành từ một quốc gia khác một cách bất hợp pháp, không phải là lãnh thổ vô chủ, hoặc những trường hợp không xác minh được tính hợp pháp của hành vi thụ đắc lãnh thổ.[48] Chiếm hữu theo thời hiệu yêu cầu bên xác lập chủ quyền phải đáp ứng quá trình thụ đắc các yếu tố thực thi chủ quyền phải thực chất, phải hoà bình, không bị các quốc gia khác phản đối[49] dẫn đến sự gián đoạn tiến trình thụ đắc. Paul Fauchille chỉ ra bốn điều kiện để thụ đắc lãnh thổ bằng cách thức chiếm hữu theo thời hiệu trong luật quốc tế như sau: (i) việc chiếm hữu cần phải được thực thi với tư cách chủ quyền  (à titre de souverain) , quốc gia thụ đắc không chỉ cần thực thi chủ quyền mà còn cần không thừa nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào khác tại vùng lãnh thổ được thụ đắc; (ii) sự chiếm hữu cần hòa bình và không bị gián đoạn, hay được hiểu là yêu sách chủ quyền của một quốc gia trên vùng lãnh thổ liên quan không bị thách thức; (iii) chiếm hữu phải công khai; (iv) chiếm hữu phải liên tục (persist).[50][51] Các điều kiện trên nhận được sự đồng tình của nhiều học giả như James Crawford,[52] hay David Johnson.[53] Tòa trọng tài trong Vụ Chamizal (Hoa Kỳ v. Mexico)  cũng sử dụng những điều kiện này để phủ nhận lãnh thổ El Chamizal trong vụ việc được Hoa Kỳ thụ đắc bằng cách thức chiếm hữu theo thời hiệu khi các trọng tài đồng thuận rằng không có gì chắc chắn quá trình chiếm hữu của Mỹ tại khu vực này không bị xáo trộn, gián đoạn và thách thức kể từ ngày ký thỏa thuận thành lập tòa trọng tài.[54] Mặt khác, sự chiếm hữu vật chất của công dân Hoa Kỳ và sự kiểm soát chính quyền của chính quyền địa phương và chính phủ liên bang đã luôn bị thách thức và hoài nghi thông qua các nhà ngoại giao của Mexico.[55] Phản đối ngoại giao hay các hành động hay phát biểu khác có tính chất phản đối đối với tình trạng chiếm hữu hữu hiệu sẽ vô hiệu hóa việc chiếm hữu theo thời hiệu[56] khi gián đoạn quá trình chiếm hữu. Trong một số trường hợp, sự chấp thuận của bên đối lập cũng trở thành một yếu tố quan trọng trong đánh giá yêu sách của một quốc gia dựa trên chiếm hữu theo thời hiệu.[57] Sự chấp thuận ở đây là sự im lặng hoặc không có sự phản đối của các quốc gia trong điều kiện cần thiết phải có những động thái phản đối rõ rệt.[58] Vụ Chamizal nêu trên là một ví dụ điển hình. Yêu cầu về “một khoảng thời gian hợp lý” không phải điều kiện mang yếu tố quyết định mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác và tình tiết vụ việc.[59] Trên thực tế, thời hiệu chỉ đóng vai trò bổ trợ chứng minh sự kiểm soát hiệu quả của một quốc gia đối với vùng lãnh thổ đó.[60] Trong một số vụ việc cụ thể, không dễ để phân biệt cách thức thụ đắc là chiếm hữu theo thời hiệu hay chiếm hữu thực sự do sự ngặt nghèo trong việc chứng minh terra nullius, liệu có hay không vùng lãnh thổ đó thật sự là terra nullius hay từng thuộc chủ quyền một quốc gia “thứ nhất” trước khi quốc gia “thứ hai” đưa ra yêu sách chủ quyền. Chẳng hạn, trong Vụ Đảo Palmas , phán quyết trọng tài không khẳng định liệu hòn đảo có thuộc chủ quyền Tây Ban Nha[1]  trước khi Hà Lan tiến hành kiểm soát hay không.[61] Trong trường hợp từ bỏ chủ quyền lãnh thổ[62] khi cần chứng minh quốc gia ban đầu đã từ bỏ cả về lãnh thổ (corpus) và ý định chiếm hữu lãnh thổ đó (aminus). [63] Tóm lại, cách thức chiếm hữu theo thời hiệu là cách thức thụ đắc lãnh thổ đối với lãnh thổ không phải vô chủ (terra nullius), dựa trên chiếm hữu thực sự, hòa bình, liên tục trong một khoảng thời gian hợp lý. 4. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức bồi tụ (Accretion) Bồi tụ (Accretion) là phương thức thụ đắc lãnh thổ thông qua các hiện tượng tự nhiên như bồi đắp phù sa, chuyển dòng chậm rãi của sông, hoạt động núi lửa hoặc do quá trình kiến tạo đất liền làm phát sinh phần lãnh thổ gắn liền với lãnh thổ hiện hữu của một quốc gia.[64] Theo đó, quốc gia có quyền xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mới hình thành này với điều kiện quá trình bồi tụ phải diễn ra một cách khách quan, tự nhiên và từ từ, và không làm phát sinh tranh chấp từ các quốc gia lân cận.[65] Một ví dụ điển hình về việc công nhận lãnh thổ mới do hoạt động của núi lửa là sự công nhận một hòn đảo mới nổi lên trong vùng biển lãnh hải của đảo Iwo Jima thuộc Nhật Bản năm 1986, sự kiện này đã được chính phủ Anh công nhận ngay lập tức là một phần lãnh thổ của Nhật Bản mà không cần các hành động chiếm hữu chính thức nào.[66] Trái ngược với bồi tụ (accretion), thuật ngữ xói mòn hay chuyển dịch đột ngột (avulsion) cũng thường được đề cập đến khi nói về cách thức thụ đắc lãnh thổ này, đặc biệt là các dòng sông biên giới.[67] Sự chuyển dịch tự nhiên của dòng sông, qua thời gian có thể làm thay đổi đường biên giới đã vạch ra trước đó, và đặt ra câu hỏi đường biên giới giữa hai quốc gia có dịch chuyển theo dòng chảy mới không? Câu trả lời phụ thuộc vào cách thức dịch chuyển của dòng sông. Trường hợp dòng sông thay đổi một cách đột ngột, mạnh mẽ và đáng kể (avulsion) thì sẽ không được xem là thay đổi đường biên giới; nói cách khác, đường biên giới sông lúc này không được tính theo dòng nước mà theo phần đất bên dưới.[68] Ngược lại, trường hợp thay đổi của dòng sông là sự tích lũy trầm tích và không dễ nhận thấy, có thể dẫn đến việc mở rộng chủ quyền của quốc gia ven sông.[69] Tính chất từ từ của quá trình bồi tụ dẫn đến sự giả định về chiếm hữu của quốc gia ven sông và sự mặc nhiên chấp nhận của các quốc gia khác; do đó biên giới lúc này được xem là chuyển dịch với sự thay đổi dòng sông.[70] Điều này cũng được áp dụng đối với các hồ biên giới.[71] Ví dụ trong vụ  Nebraska v. lowa,  143 U.S. 359 (1892), Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã xác định biên giới giữa hai bang là dòng sông Missouri vốn có sự thay đổi dòng chảy theo thời gian và là thay đổi đột ngột (avulsion), do đó ranh giới giữa bang Nebraska và bang lowa vẫn được giữ nguyên tại dòng chảy cũ.[72] Tương tự, vụ Chamizal  (Mexico v. Hoa Kỳ) là một ví dụ điển hình cho quá trình bồi tụ liên quan đến sự dịch chuyển dòng chảy tự nhiên của sông Rio Grande. Theo đó, phán quyết trọng tài đã xác định rằng những thay đổi ở Rio Grande trong khoảng thời gian từ năm 1852 đến năm 1864 là kết quả của quá trình xói mòn dần dần và lắng đọng phù sa, trong khi vào năm 1864 là sự thay đổi đột ngột.[73] Do đó đường biên giới sông được giữ nguyên tại trung tâm dòng sông như đã được xác định vào thời điểm trước trận lũ năm 1864, ngược lại sự thay đổi đột ngột trong trận lũ năm 1864 không được xem là cơ sở hợp pháp cho việc thay đổi biên giới.[74] Như vậy phần diện tích đất hình thành trước năm 1864 được xác định là kết quả của quá trình bồi tụ tự nhiên và dần dần, nên được xem là thụ đắc hợp pháp theo nguyên tắc bồi tụ. Tóm lại, trong thực tiễn quốc tế, bồi tụ vừa là kết quả của các quá trình tự nhiên, vừa là cơ sở để quốc gia ven biên xác lập và mở rộng chủ quyền một cách hòa bình. Khác với sự thay đổi đột ngột (avulsion), quá trình bồi tụ chậm rãi, khách quan và liên tục thường dẫn đến sự mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của quốc gia ven sông hoặc vùng lãnh thổ tiếp giáp. Các phán quyết quốc tế như vụ Nebraska v. Iowa  hay Chamizal được nhắc đến ở trên đã làm rõ sự phân biệt giữa hai khái niệm này và khẳng định nguyên tắc: sự dịch chuyển lãnh thổ do bồi tụ có thể làm thay đổi đường biên giới, với điều kiện không có tranh chấp và được các bên mặc nhiên chấp nhận. 5. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức sử dụng vũ lực/xâm lược Phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng xâm lược là một khái niệm từng tồn tại trong luật quốc tế, khi các quốc gia sử dụng vũ lực để chiếm đóng và sáp nhập lãnh thổ của một quốc gia khác.[75] Về mặt lịch sử, xâm lược từng được coi là một phương thức hợp pháp để thụ đắc lãnh thổ. Bởi trước thế kỷ XX, luật pháp quốc tế không phân biệt nguyên nhân chính đáng và không chính đáng của các hành vi xâm lược, cũng như không cấm việc sử dụng vũ lực để mở rộng lãnh thổ; do đó, việc chiếm đoạt lãnh thổ bởi các hành vi xâm lược không bị xem là injuria  (hành vi sai trái).[76] Điều này có thể thấy qua lịch sử mở rộng quyền lực của Anh ở Ấn Độ; của chủ quyền Hà Lan tại Đông Ấn; của quyền lực đế quốc Nga ở Bắc và Trung Á; và của sự cai trị của Pháp ở Đông Dương.[77] Tuy nhiên, sự phát triển của luật quốc tế đã nghiêm cấm hành vi xâm lược và coi việc thụ đắc lãnh thổ do sử dụng vũ lực là bất hợp pháp.[78] Quá trình phát triển của nguyên tắc này bắt đầu từ sau Thế chiến I với sự ra đời của Hiệp ước Thành lập Hội Quốc Liên (1919). Trong đó Điều 10 của Hiệp ước nêu rõ: “ Các thành viên của Liên minh cam kết tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị hiện có của tất cả các thành viên của Liên minh trước sự xâm lược từ bên ngoài.” [79] Hiệu quả của điều khoản này là cấm tuyệt đối việc chiếm hữu lãnh thổ bằng vũ lực và buộc thành viên của Hiệp ước phải cam kết ngăn chặn mọi hành vi xâm lược khi chúng xảy ra.[80] Tuy nhiên Hiệp ước năm 1919 không hoàn toàn coi tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược trở thành bất hợp pháp, do các điều khoản chủ yếu nhằm ngăn chặn chiến tranh bằng cách khuyến khích quốc gia giải quyết tranh chấp bằng các phương thức hòa bình.[81] Tiếp sau Hiệp ước năm 1919, Hiệp ước Kelogg-Briand năm 1928 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc pháp điển hóa nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, khi hầu hết các cường quốc trên thế giới đều bỏ quyền sử dụng chiến tranh như một công cụ của chính sách quốc gia.[82] Tuy nhiên, chiến tranh vẫn được coi là hợp pháp trong trường hợp tự vệ - một ngoại lệ không được nêu rõ trong văn bản của Hiệp ước nhưng đã được ngầm hiểu trong các cuộc trao đổi ngoại giao trước kí kết.[83] Theo các học giả như McMahon và Brownlie phân tích, việc các quốc gia khác tham gia vào “chiến tranh trừng phạt” để khôi phục hòa bình, có thể đẫn đến sự thay đổi lãnh thổ và được cộng đồng quốc tế công nhận nếu thấy đây là biện pháp cần thiết để ngăn chặn sự tái phát xâm lược trong tương lai.[84] Do đó, Hiệp ước Kelogg-Briand chỉ tăng cường hạn chế đối với hành vi mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực, mà không loại bỏ hoàn toàn khả năng thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức này, đặc biệt khi đi kèm với vấn đề trừng phạt kẻ xâm lược và duy trì an ninh tập thể.[85] Với sự phát triển của luật pháp quốc tế sau Thế chiến II, sự ra đời của Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định rõ ràng và dứt khoát Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực nhằm mở rộng lãnh thổ. Cụ thể Điều 2(4) của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định tất cả các quốc gia thành viên phải từ bỏ đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực nhằm chống lại toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào.[86] Tương tự, Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhấn mạnh “sự không thể chấp nhận của việc chiếm lãnh thổ bằng chiến tranh”.[87] Và Tuyên bố Các Nguyên tắc Pháp lý Quốc tế năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng quy định: “ Lãnh thổ của một quốc gia sẽ không phải là đối tượng của việc chiếm đoạt bởi một quốc gia khác thông qua đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Không có sự chiếm đoạt lãnh thổ nào từ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực sẽ được công nhận là hợp pháp ”.[88] Sau năm 1945, Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực không chỉ được quy định trong các văn kiện pháp lý mà còn được được củng cố trong thực tiễn thông qua phản ứng của cộng đồng quốc tế và được công nhận là một quy phạm tập quán quốc tế trong phán quyết kinh điển  Vụ Nicaragua v. Mỹ năm 1986.[89] Bên cạnh đó, Nguyên tắc trên liên tục được khẳng định thông qua các trường hợp cụ thể khi một số quốc gia tìm cách chiếm đóng lãnh thổ bằng vũ lực, song đều không được cộng đồng quốc tế công nhận.[90] Một ví dụ điển hình của việc bác bỏ hành vi sử dụng vũ lực là trường hợp Iraq xâm lược Kuwait năm 1990. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã nhanh chóng lên án hành vi xâm lược và quyết định rằng việc Iraq tuyên bố sáp nhập Kuwait “dưới bất kỳ hình thức nào và với bất kỳ lý do nào đều không có giá trị pháp lý và bị coi là vô hiệu”.[91] Sự kiện này đã tái khẳng định rằng việc chiếm lãnh thổ bằng vũ lực là bất hợp pháp và không thể tạo ra quyền thụ đắc lãnh thổ theo luật quốc tế hiện nay. Như vậy, mặc dù trong lịch sử, xâm lược từng được coi là phương thức hợp pháp để thụ đắc lãnh thổ, song sự phát triển của luật pháp quốc tế hiện đại đã từng bước xóa bỏ tính chính danh của phương thức này. Từ Hiệp ước thành lập Hội Quốc Liên năm 1919, Hiệp ước Kellogg-Briand năm 1928, đến Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 và các văn kiện tiếp theo, nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực nhằm mở rộng lãnh thổ đã được xác lập một cách rõ ràng, dứt khoát, và được củng cố bằng thực tiễn pháp lý quốc tế. Việc thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực không chỉ bị lên án về mặt pháp lý mà còn không được cộng đồng quốc tế công nhận trong mọi hình thức. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, cũng như bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong thời đại hiện nay.   Kết luận:  Trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ vẫn đang diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới, việc hiểu rõ các phương thức thụ đắc lãnh thổ mang ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ chủ quyền, cũng như thúc đẩy giải quyết tranh chấp một cách hòa bình trên nền tảng pháp lý vững chắc. Trên cơ sở đó, bài viết đã tập trung phân tích năm phương thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản trong luật quốc tế: chuyển nhượng, chiếm hữu, chiếm hữu theo thời hiệu, bồi tụ, và xâm lược (đã không còn hợp pháp). Mỗi phương thức được làm rõ thông qua cơ sở pháp lý, điều kiện áp dụng, cũng như các ví dụ minh họa từ án lệ và thực tiễn quốc tế, như  Vụ Đảo Palmas  hay Vụ Chamizal. Qua đó, bài viết giúp người đọc có cái nhìn hệ thống và thực tiễn về cách thức các quốc gia có thể mở rộng hoặc xác lập chủ quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế, phù hợp với sự phát triển của luật pháp quốc tế hiện đại. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Robert Jennings and Arthur Watts (biên tập), Oppenheim’s International Law, vol 1 (9th edn, Longman 1992) p. 677. Xem thêm James Crawford,  Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, OUP 2012), p.221. [2] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008) p.495. Xem thêm O’Connell, Law, p. 405 [3] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, OUP 2012), p.221-222. [4] [5] [6] Malcolm N. Shaw, International Law  (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 499. [7] [46] Island of Palmas  (1928) 2 RIAA, p. 829 (1928); 4 AD, p.103. [8]  Ida Robinson Smith Putnam (USA) v United Mexican States 4 RIAA, p.158 (1925); 3 AD, p. 336 [9] Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, Điều 43 - 53. [10] Oliver Dörr, ‘Cession’ (Oxford Public International Law, August 2019), < https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e1377?prd=MPIL > truy cập ngày 11/05/2025. [11] Joint declaration of the government of the United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland and The Government of The People's Republic of China on the question of Hongkong 1984, Điều 3(1). [12] Hiệp định về Chuyển nhượng của Nga hoàng các tài sản của Nga tại Bắc Mỹ cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Điều 1, < http://avalon.law.yale.edu/19th_century/treatywi.asp > truy cập ngày 13/05/2025. [13] Louisiana Purchase Treaty, 1803. [14] Anglo - German Treaty, 1890. [15] Surya Prakash Sharma, Territorial Acquisition, Disputes, and International Law (Martinus Nijhoff Publishers, 1997), p.62. [16] [21] [22] Peter Malanckzuk,  Akehurst’s Modern Introduction to International Law  (7th ed., Routledge, 1997), p.148. [17] Randall Lesaffer, ‘Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription’, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.40, < http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf > truy cập ngày 10/05/2025. [18] Western Sahara , Advisory opinion 1975, p.38-39, para. 79 - 83. [19] [39] Legal Status of Eastern Greenland , Judgement, P.C.I.J. 1933 (Series A/B, No. 53). [20] [27] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p.503. [23] James Crawford, The Creation of States in International Law  (2nd ed., Oxford University Press, 2006), p.259. [24]  Western Sahara , Advisory opinion 1975 p.38-39, para. 80. [25]  “In the modern context, it has fallen into disuse. This is because there remains on the surface of the earth no truly ‘vacant’ territory”  trích từ James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) p.220. [26] [28] [32] Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p.148 - 150. [29] Surya Prakash Sharma, Territorial Acquisition, Disputes, and International Law (Martinus Nijhoff Publishers, 1997), p.40 - 46. [30] Phạm Lan Dung (Chủ biên),  Giáo trình Công pháp Quốc tế , (Nhà xuất bản Thanh niên 2024), tr. 200. [31] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) p.223. [33] [48] Malcolm N. Shaw,  International Law  (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 504. [34] Phạm Lan Dung (Chủ biên), Giáo trình Công pháp Quốc tế , (Nhà xuất bản Thanh niên 2024), tr. 200. Xem thêm Trần Thị Thuỳ Dương, Nguyễn Thị Yên (Chủ biên), Giáo trình công pháp quốc tế , quyển 1 (Nhà xuất bản Công an nhân dân), tr. 247. [35] Island of Palmas  (1928) 2 RIAA, p. 829, 846; 4 AD, p. 103, 108. [36] [37] [41] Robert Jennings and Arthur Watts, Oppenheim’s International Law (Oxford University Press, 1996), p. 688 - 689. [38] James Crawford, B rownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012), p.222. [40]  Eritrea v. Yemen  (1998) 114 ILR 1, p.69. [42] General Act of the Berlin Conference on West Africa 1885, Article 34, 35. [43] Island of Palmas (1928) 2 RIAA. [44] [45]  Island of Palmas (1928) 2 RIAA, p. 846. [47] I.A. Shearer (ed.), Starke’s International Law (11th ed., 1994), at 153. [49] Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law  (7th ed., Routledge, 1997), p. 150 - 154. [50] Paul Fauchille, Traité de droit international public  (8th ed., 1925), p. 760-761. [51] Fauchille rút những điều kiện này từ Bộ luật Dân sự Pháp. Trích từ Randall Lesaffer, “Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription”, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.40. Retrieved from < http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf > truy cập ngày 10/05/2025. [52] James Crawford,  Brownlie’s Principles of Public International Law (8th ed., Oxford University Press 2012) p.231. [53] David Johnson, ‘Acquisitive Prescription in International Law’ [1950] The British Year Book of International Law, p.343. [54] [55] Chamizal  (1911) 11 RIAA 309, p.328. Xem thêm Randall Lesaffer, ‘Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription’, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.51, < http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf > truy cập ngày 13/05/2025. [56] Trần Hữu Duy Minh, ‘Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ’ (Công pháp Quốc tế, 2024) < https://iuscogens-vie.org/2017/09/22/35/#_ftnref8 > truy cập ngày 20/04/2025. [57] I.C. MacGibbon, ‘The Scope of Acquiescence in International Law’, [1954] The British Year Book of International Law, p.154. [58] I.C. MacGibbon, ‘The Scope of Acquiescence in International Law’, [1954] The British Year Book of International Law, p.143 - 186. [61] James Crawford,  Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) p.230. Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p. 150. [59] [60] [62] Malcolm N. Shaw,  International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 504 - 507. [63] Charles L O Buderi, Luciana T Ricart, ‘Modes of Acquisition and Effective Control of Territory’ [2018] The Iran-UAE Gulf Islands Dispute, p.158. [64] [65] [67] Malcolm N. Shaw, International Law  (6th edn, Cambridge University Press 2008)​ p.498. [66] Geoffrey Marston, ‘United Kingdom Materials on International Law 1986’ (1986) 57 British Yearbook of International Law  487, 563.​ Trích từ James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) 240. [68] [69] [70] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) 240-241. [71] “Đối với các hồ biên giới, nguyên tắc được áp dụng là đường trung tuyến (median line), nhưng như thường lệ, các thỏa thuận rõ ràng hoặc sự mặc nhiên chấp nhận cũng có thể dẫn đến những cách phân chia khác.”  Trích từ James Crawford, (8th edn, Oxford University Press 2012) p.240-241. [72]  Nebraska v. Iowa, 143 U.S. 359 (1892). [73] [74]  Chamizal (1911) 11 RIAA 309, p.316. Đọc thêm tại Ram Prakash Anand, “Accretion” trong Rüdiger Wolfrum, Anne Peters (biên tập), The Max Planck Encyclopedias of Public International Law  (Oxford University Press 2006). [75]  Malcolm N. Shaw, International Law  (6th edn, Cambridge University Press 2008), p.​ 500 - 501. [76] [77] Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice  (Oxford University Press 1996), p.12, p.64. [78] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law  (8th edn, Oxford University Press 2012) 243. [79]  Covenant of the League of Nations  (1919), Điều 10. [80] [81] [83]  Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice  (Oxford University Press 1996), p.180-193. [84] Ibid, p. 193-198. [85] Ibid, p. 197-199. [86]  Hiến chương Liên Hợp Quốc 1 UNTS XVI, Điều 2(4). [87]  Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (ngày 22/11/1967) UN Doc S/RES/242. [88] Tuyên bố về Các Nguyên tắc Pháp lý Quốc tế liên quan đến Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác giữa Các Quốc gia UNGA Res 2625 (XXV) (1970). Xem thêm Điều 5(3) của Định nghĩa đồng thuận về xâm lược được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1974. Xem thêm Malcolm N. Shaw, International Law  (6th edn, Cambridge University Press 2008)​ 502.  [89] Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua v. United States of America). Merits, Judgment. I.C.J. Reports 1986, p. 14 [90]  Xem Vụ Israel sáp nhập Đông Jerusalem (1967) và Cao nguyên Golan (1981). Xem thêm trong Vụ chiến tranh Falklands (1982); Trường hợp Ấn Độ sáp nhập Goa (1961), Indonesia sáp nhập Đông Timor (1976). [91] Nghị quyết 662 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc UN Doc S/RES/662 (1990). Xem thêm Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice  (Oxford University Press 1996), p. 292-301.

  • [74] TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

    Tác giả: Nguyễn Hoàng Trang, Phùng Đăng Khôi Dẫn nhập: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng hiện nay, các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ thương mại quốc tế nói riêng ngày càng phổ biến. Theo đó, các tranh chấp thương mại quốc tế phát sinh được giải quyết ngày càng gia tăng. Trọng tài thương mại quốc tế ("TTTMQT")  - một phương thức giải quyết tranh chấp ("GQTC")  trao cho các bên nhiều quyền định đoạt các vấn đề trong quá trình giải quyết tranh chấp, đã trở thành một trong những phương pháp chủ yếu nhằm giải quyết xung đột giữa các chủ thể tới từ nhiều quốc gia. Từ khoá: trọng tài thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp. 1. Giới thiệu 1.1. Một số khái niệm căn bản liên quan đến TTTMQT Từ điển Black’s Law định nghĩa trọng tài ( arbitration ) là: “Một phương pháp giải quyết tranh chấp có sự tham gia của một hoặc nhiều bên thứ ba trung gian, được chấp thuận bởi các bên trong tranh chấp và có quyền năng đưa ra quyết định có tính ràng buộc.”[1] Tác giả Jan Paulsson có quan điểm như sau: “Tư tưởng cốt lõi về trọng tài là việc giải quyết tranh chấp có giá trị ràng buộc mà các bên chấp nhận, bởi họ đã dành sự tín nhiệm đặc biệt đối với những người được lựa chọn làm trọng tài viên.”[2] Nói cách khác, trọng tài là một thủ tục hoặc phương pháp GQTC mà tại đó các bên trong tranh chấp, là cá nhân hoặc pháp nhân, cùng đồng thuận thông qua thỏa thuận trọng tài ( agreement to arbitrate ) để chọn ra các trọng tài viên trung lập, độc lập và vô tư mà họ tin tưởng. Theo đó, các bên trao cho trọng tài viên quyền lực GQTC và đưa ra phán quyết trọng tài ( award ) có tính ràng buộc và hiệu lực thi hành. Về tính chất quốc tế , trọng tài là trọng tài quốc tế nếu (i) Các bên trong tranh chấp có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau; hoặc (ii) Có bất kỳ địa điểm nào mà tại đó một phần đáng kể nghĩa vụ của quan hệ thương mại được thực hiện hoặc địa điểm có mối liên hệ chặt chẽ nhất với đối tượng của tranh chấp nằm ở quốc gia khác so với quốc gia mà các bên cùng có trụ sở kinh doanh; hoặc (iii) Các bên đã thỏa thuận rõ ràng rằng đối tượng của thỏa thuận trọng tài có liên quan đến hơn một quốc gia.[3] Theo quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam, trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành GQTC ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.[4] Như vậy, hướng quy định này dẫn đến hệ quả rằng một tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài với đầy đủ các yếu tố của trọng tài quốc tế theo quan điểm của Luật mẫu vẫn được xem là phán quyết trọng tài trong nước tại Việt Nam, và ngược lại. Xuất phát từ tính chất quốc tế, TTTMQT không đơn thuần GQTC bằng một nguồn luật duy nhất, mà cần thiết phải có sự tham gia điều chỉnh của ít nhất bốn nguồn luật khác nhau.[5] Cụ thể là các nguồn luật điều chỉnh (i) hiệu lực của thoả thuận trọng tài; (ii) thủ tục tố tụng trọng tài; (iii) nội dung tranh chấp; (iv) công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. Theo quy định của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết được tuyên trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi việc công nhận và thi hành phán quyết đó được yêu cầu .[6] Trong khi đó, pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam quy định theo hướng phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết được tuyên bởi trọng tài nước ngoài, bất kể địa điểm ra phán quyết là ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.[7] Về  tính chất thương mại , cụm từ “thương mại” trong TTTMQT từng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm nhưng không giới hạn trong các giao dịch về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá, dịch vụ; đầu tư; thỏa thuận khai thác.[8] Tuy nhiên, hiện này trọng tài đầu tư quốc tế là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập bên cạnh trọng tài thương mại quốc tế[9] do trọng tài đầu tư đang trở thành cơ chế GQTC quan trọng giữa nhà đầu tư và nhà nước tiếp nhận đầu tư. 1.2. Lịch sử phát triển của TTTMQT Trọng tài đã xuất hiện rất lâu trước đây, trước cả khi mà pháp luật được quy định, toà án được hình thành.[10] Hình hài nguyên thuỷ của TTTMQT là khi hai thương nhân có tranh chấp cùng tìm tới một bên thứ ba mà họ tin tưởng nhằm tháo gỡ khúc mắc và đồng ý thực hiện theo quyết định của người thứ ba trung gian kia vì đó là thông lệ của giới thương nhân.[[11] Theo đó, GQTC bằng con đường trong tài còn được xem là một hệ thống công lý được sinh ra bởi các thương nhân.[12] TTTMQT dần trở nên phổ biến hơn vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX,[13] đặc biệt là ở Châu Âu cùng với xu thế phát triển nhanh của thương mại quốc tế và sự xuất hiện của các trung tâm trọng tài.[14] Pháp luật về TTTMQT cũng dần dần được hình thành chặt chẽ hơn với sự ra đời của các điều ước quốc tế quan trọng, đã hình thành nên khung pháp lý cho pháp luật quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế.[15] Bên cạnh đó, tới nay, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (“UNCITRAL”) đã thành công xây dựng nhiều công cụ nhằm hài hòa hóa pháp luật thương mại quốc tế.[16] TTTMQT đã trở thành một phương thức GQTC phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu. 1.3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc (ad hoc) và trọng tài quy chế Trước khi tranh chấp được tiến hành giải quyết, trước tiên các bên cần phải lựa chọn GQTC theo hình thức trọng tài vụ việc hay trọng tài quy chế. Về  trọng tài vụ việc (ad hoc) , các bên trong tranh chấp được phép phối hợp, tự thỏa thuận về bất cứ quy tắc tố tụng trọng tài và trọng tài viên nào phù hợp nhất với lợi ích của các bên và do đó không bị ràng buộc bởi quy tắc của bất cứ trung tâm trọng tài nào. Do đó, thỏa thuận quy tắc tố tụng trọng tài ad hoc  giống như mặc một bộ suit may đo sẽ vừa vặn hơn so với một bộ suit may sẵn.[17] Về trọng tài quy chế , các bên thỏa thuận đưa tranh chấp của mình giải quyết tại một trung tâm trọng tài. Theo đó, trung tâm trọng tài sẽ cung cấp “dịch vụ trọng tài” và đảm bảo tranh chấp được giải quyết đúng thời trình tự và thủ tục.[18] Ưu điểm của hình thức này đó là mỗi trung tâm trọng tài quy chế thường có quy tắc trọng tài riêng của trung tâm và danh sách các trọng tài viên uy tín nên các bên trong tranh chấp không cần phải tự mình lựa chọn, giúp đỡ tốn kém thời gian. Bên cạnh đó, nếu quá trình GQTC bị cản trở bởi những vấn đề tư cách của trọng tài viên thì quy tắc tố tụng của trung tâm có thể trực tiếp giải quyết vấn đề này.[19] 2. Thỏa thuận trọng tài Việc GQTC bằng Tòa án luôn bị ràng buộc bởi quy tắc tố tụng dân sự chặt chẽ do Nhà nước ban hành.[20] Trong khi đó, các bên chỉ có thể đưa một tranh chấp vào quá trình tố tụng trọng tài khi và chỉ khi đã tồn tại một thỏa thuận trọng tài (“TTTT”) .[21] Một cách ngắn gọn, trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên đã có TTTT - một thỏa thuận ghi nhận sự đồng ý của các bên như một trong số các hình thức để GQTC hoặc đồng ý chọn trọng tài để GQTC.[22] 2.1. Thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài TTTT có thể được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh hoặc sau khi khi tranh chấp đã phát sinh.[23] Đối với thỏa thuận xác lập trước khi tranh chấp phát sinh, đây thông thường là một điều khoản arbitration clause  nằm trong một hợp đồng chính, thông thường rất ngắn gọn, bên cạnh sự lựa chọn về pháp luật điều chỉnh nội dung hợp đồng hay nơi GQTC.[24] Điều khoản trọng tài độc lập đối với hợp đồng chính[25]. Giả sử hợp đồng chính vô hiệu, thì điều khoản trọng tài vẫn có hiệu lực.[26] Thông thường, các trung tâm trọng tài sẽ công khai một điều khoản trọng tài mẫu mang tính chất tham khảo cho các bên. Ví dụ, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam ("VIAC") có điều khoản mẫu như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này.”. [27] Trong điều khoản này,   các bên có thể thỏa thuận thêm về số lượng trọng tài viên (01 hoặc 03) và địa điểm GQTC. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có thể thỏa thuận bổ sung về luật áp dụng cho hợp đồng và ngôn ngữ GQTC.[28] Đối với thỏa thuận xác lập sau khi tranh chấp phát sinh, TTTT submission agreement  đáp ứng tình hình tranh chấp thực tế. Thỏa thuận này thông thường chỉ rõ nơi GQTC, luật nội dung, chỉ định trọng tài viên, xác định vấn đề tranh chấp, và thậm chí là các vấn đề thủ tục khác.[29] 2.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài Hầu như các điều ước quốc tế liên quan đến trọng tài quốc tế đều quy định về việc hình thức của TTTT ở dạng văn bản. Trong đó, Công ước New York quy định TTTT là văn bản khi thỏa thuận đó là (i) hợp đồng, thỏa thuận trực tiếp được ký kết giữa các bên hoặc (ii) chứa đựng trong các thư tín là văn bản.[30] Tuy nhiên, quy định của Luật Mẫu không yêu cầu các bên phải trực tiếp ký kết vào TTTT.[31] Thay vào đó, Luật Mẫu công nhận một TTTT có hình thức văn bản khi (i) TTTT được ghi nhận dưới bất kỳ hình thức nào miễn là nội dung thỏa thuận được ghi chép lại, (ii) TTTT phải được lập thành văn bản thông qua phương thức liên lạc điện tử nếu thông tin chứa trong đó có thể truy cập nhằm phục vụ mục đích xác định thỏa thuận, (iii) TTTT được lập thông qua trao đổi yêu cầu khởi kiện và biện hộ trong đó sự tồn tại của một thỏa thuận được một bên đưa ra và không bị bên kia phủ nhận, và (v) hợp đồng viện dẫn đến tài liệu chứa đựng TTTT dưới dạng văn bản.[32] 2.3. Pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài Pháp luật điều chỉnh TTTT sẽ điều chỉnh các vấn đề thiết lập TTTT, điều kiện có hiệu lực, khả năng thực thi của TTTT, và chấm dứt của TTTT.[33]  Vì thế, thông thường, vấn đề xác định luật điều chỉnh được đặt ra khi có một trong các bên của tranh chấp phản đối thẩm quyền trọng tài. Chiếu theo nguyên tắc compétence de la compétence , chính hội đồng trọng tài sẽ phải xác định luật áp dụng đối với TTTT để xem xét liệu hội đồng trọng tài có thẩm quyền GQTC.[34] Mặc dù không trực tiếp đề cập vấn đề TTTT, tuy nhiên Công ước New York quy định về trường hợp có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trước tòa án quốc gia với lý do TTTT vô hiệu. Theo đó, hiệu lực của thỏa thuận sẽ được xem xét theo luật mà các bên lựa chọn, nếu các bên không lựa chọn thì theo luật của quốc gia nơi phán quyết được đưa ra[35], hay là luật của seat of arbitration  - nơi mà tố tụng trọng tài được coi là diễn ra về mặt pháp lý , bất kể vị trí địa lý của trọng tài và/hoặc bất kỳ phiên điều trần nào.[36] Thông thường, đối với TTTT tồn tại dưới dạng một điều khoản của một hợp đồng, thì cũng có thể suy rằng pháp luật áp dụng đối với hợp đồng chính cũng chính là pháp luật áp dụng đối với TTTT.[37] Tuy nhiên, như đã đề cập ở bên trên thì TTTT độc lập với hợp đồng chính, do đó, pháp luật điều chỉnh TTTT hoàn toàn có thể khác pháp luật điều chỉnh hợp đồng chính.[38] Cụ thể, theo quy định của Luật Trọng tài Anh sửa đổi năm 2025, luật áp dụng cho TTTT sẽ là luật các bên đồng ý áp dụng cho TTTT. Nếu các bên không thể hiện rõ ràng sự lựa chọn pháp luật áp dụng cho TTTT, thì luật nơi diễn ra trọng tài ( seat of arbitration ) được áp dụng. 3. Tố tụng trọng tài thương mại quốc tế Khác với tố tụng tại Tòa án vốn tuân theo những quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng dân sự, quy tắc tố tụng trọng tài có một sự linh hoạt nhất định - các bên trong tranh chấp có thể tự do thỏa thuận trong vấn đề tố tụng trọng tài.[39] Quyền tự định đoạt của các bên ( party autonomy ) đã được ghi nhận trong Công ước New York " thành phần của cơ quan trọng tài hoặc thủ tục trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên" [40] và Luật Mẫu   " các bên được tự do thỏa thuận về thủ tục mà tòa trọng tài phải tuân theo khi tiến hành tố tụng" [41]. Tuy vậy, quyền tự do định đoạt của các bên vẫn phải nằm trong khuôn khổ pháp luật của seat of arbitration [42], quy tắc trọng tài quy chế các bên đã lựa chọn,[43] và nguyên tắc đối xử bình đẳng và quyền được lắng nghe và trình bày về vụ kiện.[44] Các bước thường thấy của quá trình tố tụng trọng tài thương mại quốc tế bao gồm: (i) Nộp đơn khởi kiện, trả lời đơn khởi kiện; (ii) Chỉ định trọng tài viên; (iii) Cuộc họp sơ bộ giữa Hội đồng Trọng tài và các bên; (iv) Trao đổi văn bản đệ trình; (v) Phiên điều trần; và (vi) Hội đồng Trọng tài thảo luận và ra phán quyết.[45] 3.1. Nộp đơn khởi kiện, trả lời đơn khởi kiện và phản tố Quá trình tố tụng trọng tài bắt đầu vào thời điểm nguyên đơn gửi đơn khởi kiện đến đến tổ chức trọng tài ( request for arbitration )[46], hoặc vào thời điểm bị đơn nhận được và phản hồi thông báo.[47] Ví dụ, theo quy định Phòng Thương mại Quốc tế ("ICC"), và một số cơ quan trọng tài quy chế như Tòa Trọng tài Quốc tế London ("LCIA"), Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore ("SIAC"), và VIAC, quy trình tố tụng trọng tài được xem là bắt đầu vào ngày cơ quan nhận được thông báo trọng tài của nguyên đơn.[48] Trong khi đó, Quy tắc trọng tài UNCITRAL quy định quá trình tố tụng trọng tài bắt đầu vào ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện.[49] Sau khi nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn có nghĩa vụ trả lời đơn khởi kiện ( Answer to the Request for Arbitration hoặc Statement of Defence)  và có quyền phản tố (kiện ngược lại) nguyên đơn trong thời hạn do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của trọng tài quy chế.[50] Nhiều trung tâm trọng tài quy chế đều yêu cầu bị đơn phản tố nguyên đơn trong khi trả lời đơn khởi kiện của nguyên đơn,[51] tuy nhiên, cũng có trường hợp yêu cầu bản khởi kiện ngược được nộp cùng lúc và độc lập với bản trả lời đơn khởi kiện.[52] 3.2. Thành lập hội đồng trọng tài Số lượng trọng tài viên thông thường là một hoặc ba người.[53] Phương thức lựa chọn trọng tài viên có thể dựa theo thỏa thuận của các bên hoặc dựa theo quy định của tổ chức trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp lựa chọn thành lập Hội đồng Trọng tài (“HĐTT”) có ba trọng tài viên, phương thức lựa chọn phổ biến nhất là mỗi bên trong tranh chấp lựa chọn một trọng tài viên, và hai trọng tài viên đó sẽ lựa chọn một trọng tài viên thứ ba để trở thành Chủ tịch Hội đồng trọng tài.[54] Trọng tài viên có nghĩa vụ phải độc lập, vô tư, khách quan.[55] Nghĩa vụ vô tư, khách quan được hiểu là trọng tài viên không thiên vị với bất kỳ quan điểm nào về vấn đề đang giải quyết hay bất kỳ bên nào vì bất kỳ lý do gì.[56] Độc lập có nghĩa là trọng tài viên mô tả việc trọng tài viên không có mối liên hệ với bất kỳ bên nào trong tranh chấp, luật sư của các bên hoặc trọng tài viên khác.[57] 3.3. Họp sơ bộ (preliminary meetings) Khi trọng tài viên đã được chỉ định, cuộc họp sơ bộ sẽ được tổ chức bởi hội đồng để đảm bảo rằng HĐTT và các bên có một cách hiểu thống nhất về các vấn đề liên quan.[58] Tại phiên họp sơ bộ, bất kể là trọng tài quy chế hay vụ việc, thường giải quyết những vấn đề sơ bộ như: ghi nhận sự phản đối thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; về cấu trúc, độ dài của văn bản sẽ trao đổi; cung cấp tài liệu; các vấn đề liên quan đến nhân chứng; về thời gian và địa điểm của buổi thảo luận trước phiên điều trần và phiên họp đánh giá chứng cứ, và các vấn đề mang tính thủ tục khác như vai trò của Quy tắc IBA về việc thu thập chứng cứ, thẩm quyền của Chủ tịch HĐTT trong việc tự mình ra các chỉ thị về thủ tục, việc chỉ định thư ký trọng tài.[59] 3.4. Trao đổi văn bản đệ trình Văn bản đệ trình ( written submissions ) là các văn bản được nộp tuần tự hoặc cùng lúc với nhau bởi nguyên đơn và bị đơn lên HĐTT trước khi phiên họp GQTC ra và thông thường là  Bản trình bày yêu cầu khởi kiện ( statement of claims/statement of defence ) bao gồm đầy đủ lập luận của phía nguyên đơn hoặc bị đơn về các vấn đề pháp lý, đính kèm theo chứng cứ dạng văn bản, lời khai nhân chứng và ý kiến chuyên gia liên quan.[60] Nội dung và độ dài của nội dung mà các bên phải bao gồm trong văn bản đệ trình là do trọng tài viên hướng dẫn cụ thể và linh hoạt theo từng vụ việc.[61] Thời hạn nộp văn bản đệ trình được ấn định bởi trọng tài viên, có thể dài hoặc ngắn tùy thuộc vào mức độ phức tạp tranh chấp.[62] Đối với một số vụ việc với tính phức tạp cao, văn bản đệ trình sau phiên điều trần ( post-hearing written submissions ) được chấp nhận để các bên bình luận về các chứng cứ hoặc tóm tắt tổng quan các luận điểm được đưa ra trong phiên điều trần.[63] 3.5. Phiên họp giải quyết tranh chấp Phiên họp GQTC ( hearing ) là cuộc họp kín giữa các trọng tài viên và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp một cách trực tiếp hoặc bằng hình thức tele-conference, video-conference hoặc hình thức khác[64] nhằm thực hiện tranh luận, thẩm vấn giữa các bên, được thực hiện sau khi đã hoàn tất quá trình nộp văn bản đệ trình, tài liệu chứng cứ, lời khai nhân chứng.[65] HĐTT phải tổ chức phiên họp GQTC tại thời điểm thích hợp trong quá trình tố tụng trọng tài, trừ trường hợp các bên tranh chấp thống nhất sẽ không tổ chức phiên điều trần.[66] Trên thực tế, rất hiếm có trường hợp HĐTT giải quyết tranh chỉ dựa trên nội dung văn bản đệ trình của các bên, do bởi phiên họp GQTC là cơ hội để các bên trong tranh chấp trực tiếp tranh luận, cũng như HĐTT có thể làm rõ những vấn đề còn hoang mang trong văn bản đệ trình.[67]. Trình tự của thông thường của một phiên họp GQTC bao gồm: (i) Trình bày khai mạc ( opening statements ); (ii) phiên họp với nhân chứng sự việc ( hearing of witnesses of fact ); (iii) phiên họp với nhân chứng chuyên gia ( hearing of expert witnesses ); (iv) Trình bày bế mạc ( closing statements ) mà trong đó, hoạt động thẩm tra nhân chứng có vai trò trung tâm.[68] [69] 3.6. Chấm dứt quá trình tố tụng Khi phiên họp GQTC kết thúc, HĐTT bước vào giai đoạn nghị án ( deliberation ) nhằm đưa ra phán quyết trọng tài cuối cùng, giải quyết mọi vấn đề pháp lý trong tranh chấp của các bên. Theo đó, quá trình tố tụng trọng tài kết thúc khi phán quyết cuối cùng được đưa ra[70] và chỉ tiếp tục trong trường hợp phán quyết trọng tài có nhu cầu được sửa đổi hoặc giải thích.[71] Ngoài ra, Luật mẫu về TTTMQT cũng quy định tố tụng trọng tài cũng có thể kết thúc trong một số trường hợp sau:[72] (i) Nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu khởi kiện bị đình chỉ, mà không bị phản đối bởi bị đơn; (ii) Các bên trong tranh chấp đồng ý rút yêu cầu khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc; (iii) HĐTT thấy rằng việc tiếp tục tố tụng là không cần thiết hoặc bất khả thi. Tố tụng trọng tài kết thúc đồng nghĩa rằng nghĩa vụ GQTC của HĐTT đã chấm dứt.[73] 4. Phán quyết trọng tài thương mại quốc tế Hiện nay, định nghĩa về phán quyết trọng tài chưa nêu rõ trong các văn bản pháp lý quốc tế[74] tuy nhiên, phán quyết trọng tài thông thường được hiểu là những phán quyết chung thẩm (final award) của HĐTT mà giải quyết toàn bộ các vấn đề trước đó được các bên đệ trình.[75] Trên thực tế, “phán quyết trọng tài” cũng được sử dụng để đề cập tới những phán quyết từng phần (partial award), là bất kỳ quyết định nào của HĐTT, có tính chất chung thẩm nhưng chỉ kết thúc giải quyết một số vấn đề cụ thể về nội dung, thẩm quyền hoặc bất kỳ vấn đề tố tụng nào khác.[76] Phán quyết từng phần được HĐTT đưa ra để giải quyết nhanh gọn những vấn đề phát sinh trong quá trình tố tụng mà không cần phải chờ tới khi kết thúc tố tụng trọng tài, chẳng hạn như vấn đề về thẩm quyền của HĐTT hay biện pháp khẩn cấp tạm thời.[77] Tuy nhiên cần lưu ý rằng, chỉ có phán quyết chung thẩm mới là đối tượng để công nhận và cho thi hành.[78] Nhìn chung, phán quyết trọng tài có hai đặc điểm chính là chung thẩm và ràng buộc. Theo đó, các bên tự nguyện ràng buộc bản thân với phán quyết thông qua TTTT và phán quyết đưa ra là chung thẩm, hay nói cách khác là không thể kháng cáo, buộc các bên phải thực hiện nội dung phán quyết kể từ ngày có hiệu lực.[79] Sau khi tố tụng trọng tài kết thúc, bên thắng kiện tiến hành giai đoạn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài tại tòa án quốc gia nơi có tài sản của bên thua kiện. Yêu cầu công nhận và yêu cầu thi hành thường song hành nhưng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau và cũng đưa đến hệ quả pháp lý khác nhau. Cụ thể, công nhận phán quyết đơn thuần là việc toà án quốc gia công nhận hiệu lực và khả năng ràng buộc của phán quyết trọng tài thì thi hành phán quyết. Trong khi đó, thi hành phán quyết là quá trình mà tại đó việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế sử dụng các biện pháp thi hành án trong pháp luật quốc gia, buộc bên thua kiện thực hiện nghĩa vụ trong phán quyết trọng tài.[80] Hiện nay, thủ tục yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài quốc tế phần lớn được thực hiện thông qua Công ước New York 1958 đã được 172 quốc gia thông qua,[81] và các tinh thần quy định của Công ước New York đã được thể hiện trong Phần thứ Bảy của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 của Việt Nam, trong đó bao gồm các quy định và công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.[82] Theo đó, các quốc gia ký kết Công ước có nghĩa vụ công nhận giá trị ràng buộc và khả năng thi hành của các phán quyết trọng tài tuân thủ nguyên tắc pháp luật tố tụng của quốc gia đó và nguyên tắc được đề ra trong Công ước.[83] Điều kiện cho việc công nhận, cho thi hành phán quyết trọng tài theo pháp luật sở tại không được nghiêm ngặt hơn điều kiện quy định trong Công ước[84] và chỉ thực hiện từ chối không công nhận trong một số trường hợp nhất định như TTTT vô hiệu hay phán quyết trọng tài vi phạm trật tự công cộng.[85] Ngoài ra, yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại các quốc gia không phải là thành viên Công ước New York có thể được thực hiện trên cơ sở có đi có lại. 5. Kết luận Trọng tài thương mại quốc tế là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế được các bên tin tưởng lựa chọn bởi tính chất tôn trọng thỏa thuận của các bên, linh hoạt và phán quyết có giá trị ràng buộc. Với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại toàn cầu, trọng tài đã trở thành cơ chế giải quyết tranh chấp phổ biến, được xây dựng trên nền tảng các điều ước quốc tế quan trọng và sự hài hòa hóa pháp luật do UNCITRAL thúc đẩy. Các bên có thể tự định đoạt và thỏa thuận từ việc lựa chọn trọng tài thông qua thỏa thuận trọng tài, cho đến việc quyết định quá trình tố tụng, song vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của pháp luật. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Black’s Law Dictionary  (8th edition, Thomas West 2004) p.112. [2] Jan Paulsson, The Idea of Arbitration , (Oxford University Press 2013), p.1. [3] UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration, 1985, Art.  1(3). [4] Luật Trọng tài thương mại 2010, khoản 11 Điều 3. [5] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 1.08. [6] Công ước New York, Điều I(1) [7] Luật Trọng tài thương mại năm 2010, khoản 12 Điều 3. [8] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.38. [9] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.5. [10] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.7. [11] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 1.13 [12] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.15. [13] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.16. [14] Ví dụ một số trung tâm trọng tài hàng đầu: Tòa trọng tài Quốc tế London (LCIA), Tòa trọng tài thường trực (PCA) hay Tòa Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC). [15] Nghị định thư Geneva 1923 về Điều khoản trọng tài, Công ước Geneva 1927 về Thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài. [16] Luật Mẫu UNCITRAL về thương mại quốc tế và Quy tắc Trọng tài UNCITRAL [17] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.143. [18] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.9. [19] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.150. [20] TS. Bùi Thị Thu, 'Chọn luật áp dụng tại Tòa án và trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài - Một số khác biệt cơ bản' ( Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử , ngày 13 tháng 7 năm 2022), < https://tapchitoaan.vn/chon-luat-ap-dung-tai-toa-an-va-trong-tai-trong-giai-quyet-tranh-chap-thuong-mai-co-yeu-to-nuoc-ngoai-mot-so-khac-biet-co-ban6736.html >, truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2025. [21] Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, ‘Đặc san tuyên truyền pháp luật số 07/2013 - Chủ đề Trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại’ < https://thuvienso.net/upload/library/359284/preview/dac-san-tuyen-truyen-phap-luat-so-07-2013-359284.pdf > truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024. [22] GS.TS. Đỗ Văn Đại, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2022) Đoạn 118 [23] GS.TS. Đỗ Văn Đại, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2022) Đoạn 117 [24] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.02, 2.03, 2.04 [25] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 16.1; Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010, Điều 19; Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Điều 1447; Luật Trọng tài Anh năm 1996, Điều 6; Luật Trọng tài Singapore năm 2001, Điều 21(1). [26] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.101. [27] 'Điều khoản trọng tài mẫu' (VIAC), < https://www.viac.vn/dieu-khoan-trong-tai-mau.html >, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2025. [28] 'Điều khoản trọng tài mẫu' (VIAC), < https://www.viac.vn/dieu-khoan-trong-tai-mau.html >, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2025. [29] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.03. [30] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều II(1) [31] Ghi chú giải thích của Ban Thư ký UNCITRAL về Luật Mẫu năm 1985 về trọng tài thương mại quốc tế sửa đổi năm 2006, Đoạn 19. [32] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL, Điều 7. [33] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật trọng tài thương mại (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2021) Trang 9. [34] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 16(1). [35] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V(I)(a). [36] 'Seat of arbitration definition' (LexisNexis), < https://www.lexisnexis.co.uk/legal/glossary/seat-of-arbitration >, truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2025. [37] Lew, ‘The law applicable to the form and substance of the arbitration clause’ (1999) 9 ICCA Congress Series 114. [38] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 3.09. [39] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 6.01 [40] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V(1)(d) [41] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 19.1 [42] Đã giải thích ở Phần 2.3. [43] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật trọng tài thương mại (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2021) Trang 91. [44] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 18. [45] Asia-Pacific, 322 [46] Asia-Pacific, 323 [47] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.158. [48] ICC Rule, Art. 4(2); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 1.1; SIAC Rules 2025, Art. 6.2; VIAC Rules, Điều 5 [49] Quy tắc trọng tài UNCITRAL, Điều 3(2). [50] ICC Rule, Art. 5(1); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 2.1; SIAC Rules 2025, Art. 7.1; VIAC Rules, Điều 9 [51] ICC Rule, Art. 5(1)(5); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 2.1.iii; SIAC Rules 2025, Art. 7.1.e. [52] VIAC Rules, Điều 10. [53] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.24 [54] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.40. [55] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 12; Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010, khoản 2 Điều 4; Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Điều 1456; Luật Trọng tài Anh năm 1996, Điều 33(1)(a); Luật Trọng tài Singapore năm 2001, Điều 14. [56] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.80. [57]   Lack of Independence and Impartiality of Arbitrators [58] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.41. [59] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.47. [60]  Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 6.72. [61]  Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p. 166 - 167. [62] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.69.  [63]  Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.70. [64]   Quy tắc IBA về thu thập chứng cứ, Definitions . [65]  Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.161- 7.162. [66] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 24(1). [67] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.156. [68] Gary Born, International Arbitration: Law and Practice , (2nd edition, Wolters Kluwer 2015), p. 174. [69] Hoạt động thẩm tra trong phiên họp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế gồm ba giai đoạn. Đầu tiên, nhân chứng được thẩm tra trực tiếp ( direct examination ) bởi luật sư đại diện của cùng bên nhân chứng đó đại diện, sau đó được thẩm tra chéo ( cross examination ) bởi luật sư bên còn lại và cuối cùng tái thẩm tra ( redirect examination ) bởi luật sư cùng bên. [70] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 32(1). [71] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para 7.102. [72] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 32. [73] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para 7.10. [74] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.05. [75] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.190. [76] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.06. [77] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.19 [78]Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012, p.192. [79] Freya Baetens, ‘Arbitral Awards’ ( Oxford Public International Law , April 2023) < https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law-mpeipro/e1238.013.1238/law-mpeipro-e1238?p=emailA8uLnlthY325M&d=/10.1093/law-mpeipro/e1238.013.1238/law-mpeipro-e1238 > truy cập 25/07/2025. [80] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration  (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p. 212. [81] ‘Contracting States’ ( New York Convention ) < https://www.newyorkconvention.org/contracting-states > truy cập 25/07/2025. [82] Ngọc Trâm, 'Về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài trong BLTTDS 2015' ( Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử , ngày 25 tháng 6 năm 2018), < https://tapchitoaan.vn/thu-tuc-giai-quyet-vu-viec-dan-su-co-yeu-to-nuoc-ngoai-theo-blttds-2015? >, truy cập ngày 01 tháng 8 năm 2025. [83] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều III. [84] Như trên. [85] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V.

  • [73] QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT TRONG LUẬT QUỐC TẾ: SỰ ĐÓNG GÓP TỪ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    Tác giả: Đinh Văn Khiêm, Lê Thị Hiền Hạnh, Trương Hoàng Khôi Nguyên, Nguyễn Ngọc Trâm Tóm tắt:  “ Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng! Những ngực nén hít thở Ngày Độc lập! Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp! Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca… ” (Ngọn Quốc Kỳ, Xuân Diệu)  Tám mươi năm đã trôi qua, song ngày thu lịch sử ấy vẫn rực rỡ trong ký ức dân tộc, ngày mà nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã vùng dậy thành quốc gia độc lập, tự do. Ngày ấy, câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cột mốc chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. ” Nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 – 02/9/2025), nhóm tác giả xin gửi tới quý bạn đọc bài viết này. Bài viết tập trung phân tích lịch sử hình thành, phát triển và nội hàm của quyền dân tộc tự quyết dưới góc nhìn luật quốc tế, đồng thời đánh giá giá trị và sự đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết. Từ khóa: quyền dân tộc tự quyết, sự phát triển, dân tộc, luật quốc tế, Tuyên ngôn Độc lập.  1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền dân tộc tự quyết  1.1 Giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX Quyền dân tộc tự quyết được hiểu là quyền của mỗi dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của mình trên cơ sở chủ quyền quốc gia.[1] Khái niệm này xuất hiện từ châu Âu và Hoa Kỳ vào thế kỷ XVIII - XIX, gắn liền với các học thuyết về chủ quyền nhân dân và chính phủ đại diện.[2] Theo đó, nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền lực chính trị, còn nhà nước xuất hiện trên cơ sở những hoạt động nhận thức và sự đồng thuận của nhân dân.[3] Cơ sở lý luận cho quan niệm này bắt nguồn từ thuyết Khế ước xã hội của Hobbes, Locke, Montesquieu và Rousseau, coi nhà nước là sản phẩm của lý trí con người và được lập nên nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo đảm các quyền tự do cơ bản.[4] Tại Trung và Đông Âu, nơi tồn tại nhiều đế chế đa dân tộc (Áo - Hung, Nga, Ottoman), khái niệm dân tộc tự quyết được phát triển từ chủ nghĩa dân tộc.[5] Chính sự đa dạng này, cùng với các chính sách đồng hóa do các đế chế áp dụng, đã làm gia tăng mạnh mẽ yêu cầu về quyền tự trị và chính phủ tự quản của từng nhóm dân tộc. Quyền dân tộc tự quyết có nguồn gốc từ mục đích bảo vệ lợi ích của các nhóm dân tộc trước các chính sách đồng hóa của các đế chế này.[6] Trong khi đó tại Tây Âu và Hoa Kỳ, khái niệm này có xuất phát từ mục đích bảo vệ lợi ích cho từng cá nhân trong khuôn khổ quốc gia đã tương đối thống nhất như Vương Quốc Anh, Pháp.[7]  Tuy nhiên, trong giai đoạn hình thành, quyền dân tộc tự quyết chưa được thừa nhận như một quyền pháp lý phổ quát mà chủ yếu đóng vai trò “công cụ chính trị” phục vụ việc hình thành nhà nước, bảo vệ lợi ích của cá nhân hoặc các nhóm dân tộc, và được các quốc gia chiến thắng sử dụng như một công cụ để định hình lại trật tự thế giới sau các cuộc chiến tranh.[8] 1.2. Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã đề cao quyền dân tộc tự quyết trong bài phát biểu của mình (Chương trình 14 Điểm) trước Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 1 năm 1918.[9] Trong đó, ông cho rằng quyền dân tộc tự quyết gắn với dân tộc thiểu số,[10] trao cho họ quyền lựa chọn sự gắn kết chính trị thông qua trưng cầu dân ý .[11] Hay nói cách khác, theo Wilson, dân tộc tự quyết đồng nghĩa với “tự quản trị”, tức là quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn chính phủ của mình.[12] Ý tưởng của Wilson đã được áp dụng khá trực tiếp vào việc giải thể các đế chế Áo–Hung và Ottoman sau Thế chiến I, dẫn đến sự hình thành của hàng loạt quốc gia nhỏ hơn như Áo, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Tiệp Khắc, Nam Tư, Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania và Ba Lan.[13] Tuy nhiên, trong việc giải quyết các yêu sách thuộc địa, Wilson cho rằng quyền dân tộc tự quyết phải được dung hòa với lợi ích của các cường quốc thực dân.[14] Trước đó, Vladimir Ilyich Lenin (V.I.Lênin) đã có những quan điểm riêng về quyền dân tộc tự quyết. Trong một số tác phẩm tiêu biểu như: Về cương lĩnh dân tộc của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (1913), Cách mạng xã hội và quyền dân tộc tự quyết (1916), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản (1920), V.I.Lênin cho rằng quyền dân tộc tự quyết là các dân tộc có quyền tự mình quyết định về vận mệnh, con đường phát triển của bản thân, có quyền độc lập về chính trị, tức tự quyết định thể chế chính trị của mình thoát khỏi ách áp bức của dân tộc khác. [15]   Có thể thấy, bối cảnh mà V.I.Lênin xây dựng và phát triển lý luận về vấn đề quyền dân tộc tự quyết ở giai đoạn tiền Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi nước Nga Sa hoàng là nhà tù của các dân tộc. V.I.Lênin từng nhận xét: “ở nước Nga, sự áp bức mà những người dị tộc ấy phải chịu đựng, còn nặng nề hơn nhiều so với ở các quốc gia lân cận”.[16] Vì vậy, trong lý luận về quyền dân tộc tự quyết, V.I.Lênin rất đề cao yếu tố người dân bị đặt dưới ách áp bức, nô dịch của dân tộc khác đến mức “cuộc sống chung tuyệt đối không thể chịu được”.[17] Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, quan điểm của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết không mang ý nghĩa ủng hộ các dân tộc trong quốc gia thống nhất tự tách mình thành quốc gia riêng biệt mà V.I.Lênin chỉ ủng hộ việc đó khi dân tộc đang bị áp bức, bóc lột bằng biện pháp bạo lực.[18] Xuất phát từ chính bối cảnh đó, lý luận của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết cũng nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân.[19] Bởi vì, V.I.Lênin cho rằng trong các giai tầng trong xã hội, giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản là lực lượng tiên phong, đấu tranh triệt để trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bao gồm cả việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết.[20] Do đó, V.I.Lênin đã đặt ra điều kiện quyết định bảo đảm độc lập và quyền tự quyết cho các dân tộc là thắng lợi của của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giai cấp.[21] Ngoài ra, theo V.I.Lênin, quyền dân tộc tự quyết có mối quan hệ mật thiết với việc thực hiện bình đẳng dân tộc. Bởi lẽ, mục đích của việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết là nhằm bảo đảm bình đẳng dân tộc, trong đó bình đẳng về chính trị là điều kiện tiên quyết.[22]  1.3. Sau chiến tranh thế giới thứ 2  Trên thực tế, trong Thế chiến II, phe Đồng Minh đã từng có nhiều nỗ lực đưa quyền dân tộc tự quyết vào một số văn kiện từ năm 1941 đến năm 1944, điển hình trong Hiến chương Đại Tây Dương (1941) được tuyên bố bởi Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill. [23] Trong đó, văn bản nhấn mạnh quyền của mọi dân tộc được tự do lựa chọn thể chế chính trị và được bày tỏ nguyện vọng một cách tự do.[24] Bản hiến chương này đã tác động hội nghị San Francisco (1945) giữa các cường quốc thắng trận sau Thế chiến II, đưa quyền dân tộc tự quyết vào Hiến chương Liên hợp quốc.[25] Tại thời điểm ấy, bốn cường quốc chưa đưa ra một cơ chế hiệu quả để thực thi và mở rộng nguyên tắc này, tuy nhiên điều đó đã tượng trưng cho sự công nhận nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết bằng một thể chế mới, đồng thời nhấn mạnh vai trò của nó trong trật tự thế giới hậu chiến - một trật tự được xây dựng trên lý tưởng rằng mọi dân tộc đều có quyền quyết định vận mệnh chính trị của chính mình.[26] Đặc biệt, trong giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới thứ hai,  việc truyền bá và áp dụng thành công quyền dân tộc tự quyết đã tạo nền tảng cho quá trình phi thực dân hóa và củng cố quyền này thành một chuẩn mực của luật pháp quốc tế cũng như một quyền con người.[27] Có thể thấy, quyền dân tộc tự quyết xuất phát từ một tư tưởng chính trị trở thành một nguyên tắc pháp lý, ảnh hưởng sâu sắc đến các quốc gia trên thế giới.  2. Nội hàm của nguyên tắc dân tộc tự quyết 2.1. Nguồn của nguyên tắc  Nguyên tắc dân tộc tự quyết được ghi nhận lần đầu trong Điều 1(2) của Hiến chương Liên hợp quốc về mục đích của tổ chức, rằng phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia dựa trên việc tôn trọng quyền bình đẳng và nguyên tắc dân tộc tự quyết. Ngoài ra nguyên tắc còn được ghi nhận tại Điều 1(1) Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) và Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR).  Sau năm 1945, trong bối cảnh phi thực dân hóa, nguyên tắc dân tộc tự quyết tiếp tục được phát triển. Nghị quyết 1514 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ghi nhận nội dung của nguyên tắc này nhằm trao trả lại quyền tự quyết cho các dân tộc còn chưa có được độc lập, thúc đẩy hòa bình và sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới.[28] Nghị quyết này cũng đồng thời là cơ sở bắt đầu tiến trình phi thực dân hóa trên phạm vi toàn cầu. Trong Ý kiến tư vấn về Vụ Hệ quả pháp lý của việc chia tách quần đảo Chagos khỏi Mauritius  vào năm 1965, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) nhận định rằng nguyên tắc dân tộc tự quyết tồn tại trong tập quán quốc tế.[29] Ngoài ra, nguyên tắc dân tộc tự quyết còn có tính chất erga omnes ,[30] và là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế đương đại.[31] 2.2. Nội dung của nguyên tắc Nội hàm của nguyên tắc được giải thích cụ thể trong Tuyên bố về những Nguyên tắc của Luật Quốc tế điều chỉnh Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác giữa các Quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc  năm 1970 (Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên hợp quốc), cụ thể:  Tất cả các dân tộc đều có quyền tự do quyết định chế độ chính trị và mưu cầu phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa mà không có sự can thiệp từ bên ngoài; Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền này, thúc đẩy việc hiện thực hóa quyền này, và hỗ trợ Liên hợp quốc trong việc chấm dứt chủ nghĩa thuộc địa; Việc cưỡng bức và bóc lột các dân tộc là hành vi vi phạm nguyên tắc này, đi ngược lại các quyền con người cơ bản và Hiến chương; Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy thực thi và tôn trọng phổ quát các quyền con người và tự do cơ bản; Các dân tộc có quyền tự do quyết định việc thành lập một quốc gia độc lập, liên kết hay sáp nhập vào một quốc gia khác hay bất kỳ dàn xếp chính trị nào; Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ không có hành vi vũ lực ngăn cản các dân tộc thực thi quyền này; Lãnh thổ của các thuộc địa hay của Vùng Lãnh thổ không tự trị có quy chế tách biệt với lãnh thổ của quốc gia quản lý, cho đến khi dân tộc của thuộc địa hay lãnh thổ đó thực thi quyền tự quyết của mình; Không có nội hàm nào ở đây được phép giải thích theo hướng cho phép hay khuyến khích các hành động nhằm làm tan rã, tổn hại toàn bộ hay một phần sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất chính trị của các quốc gia độc lập có chủ quyền – các quốc gia đang tuân thủ quyền tự quyết dân tộc như trên và do đó, có một chính phủ đại diện cho toàn bộ dân tộc thuộc lãnh thổ đó trên cơ sở không phân biệt chủng tộc, dòng dõi hay màu da; Tất cả các quốc gia không được có hành vi nhằm làm tan rã toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia khác. Nhìn chung, nguyên tắc dân tộc tự quyết có ba nội dung chính. Thứ nhất, các quốc gia có quyền tự quyết định thể chế chính trị, kinh tế và văn hóa mà không bị can thiệp bởi quốc gia khác. Việc thực hiện quyền tự quyết cần đảm bảo rằng dân tộc thực hiện quyền tự quyết cần tồn tại một chính phủ đại diện cho toàn bộ người dân mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào. Ngoài ra, theo Ủy ban Loại trừ Phân biệt Chủng tộc, nguyên tắc dân tộc tự quyết có thể được chia thành quyền tự quyết bên trong và quyền tự quyết bên ngoài, tương ứng với quyền quyết định các vấn đề nội bộ của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất chính trị và quyền được đảm bảo sự độc lập, không bị can thiệp bởi quốc gia bên ngoài.[32] Thứ hai, các quốc gia có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền tự quyết của một dân tộc, không được có hành vi ngăn cản việc thực thi hay lợi dụng quyền này để phá hoại sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất chính trị của quốc gia khác. Các quốc gia cần hỗ trợ và giúp đỡ các dân tộc, cũng như Liên hợp quốc trong việc chấm dứt chủ nghĩa thực dân, ngăn chặn việc một quốc gia cưỡng ép hay bóc lột một dân tộc khác.  Thứ ba, nguyên tắc này tạo cơ hội cho các dân tộc thuộc địa hay lãnh thổ không tự trị được thực thi quyền tự quyết của mình. Nghị quyết 1514 của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1960 đưa ra các sự lựa chọn cho các dân tộc thuộc địa nhằm thực thi nguyên tắc, bao gồm (i) thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền riêng, (ii) liên kết tự do với một quốc gia khác hoặc (iii) sát nhập vào quốc gia khác.[33] 3. Giá trị và sự đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn không chỉ là văn kiện lập quốc, tuyên bố chấm dứt gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp và ách thống trị của phát xít Nhật, mà còn mang ý nghĩa vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Trong đó, điểm nổi bật là tư tưởng về quyền con người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết, một nguyên tắc nền tảng của luật quốc tế hiện đại. 3.1. Kế thừa và phát huy tư tưởng tiến bộ về quyền con người  Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, đồng thời phát triển lối tư duy về quyền con người.[34] Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Người đã trích dẫn câu bất hủ từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776): “ Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng từ “ tất cả mọi người ” trong lời trích của mình thể hiện cái nhìn đổi mới về quyền con người so với bản Tuyên ngôn của Hoa Kỳ trước đó.[35]  Cụ thể, đoạn trích trên trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (1776) có nguyên văn như sau: “ We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness ”.[36] Đặt trong bối cảnh lịch sử Mỹ cuối thế kỷ XVIII, từ “ all men ” ở đây được sử dụng mang hàm nghĩa chỉ những người đàn ông Mỹ da trắng thời đó, không bao gồm phụ nữ, nô lệ và người Mỹ bản địa.[37] Trường hợp dùng từ tương tự cũng xuất hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), với nguyên văn: “ Les hommes naissent et demeurent libres et égaux en droits ”, khi dịch sang tiếng Anh mang nghĩa: “ Men are born and remain free and equal in rights ”[38]. Bằng việc dịch và diễn đạt “ all men ” thành “ tất cả mọi người ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng phạm vi từ quyền của một nhóm xã hội thành quyền phổ quát của mọi người, không phân biệt giới tính, màu da, dân tộc, giai cấp hay tôn giáo. Đây là bước phát triển quan trọng, phản ánh tầm nhìn nhân văn và tư duy cách mạng biến quyền con người thành giá trị chung của toàn nhân loại.  Như vậy, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa tinh hoa tư tưởng Khai sáng về quyền con người,[39] vừa khéo léo trong cách dùng từ nhằm khẳng định tính phổ quát, bất khả xâm phạm của quyền con người trong thời đại mới. Qua đó, bản Tuyên ngôn là lời khẳng định những giá trị nhân quyền, đồng thời thể hiện tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng nhằm đấu tranh cho các giá trị nhân văn bất khả xâm phạm mà các cuộc cách mạng trước đó đã giương cao.[40] 3.2. Phát triển từ quyền con người thành quyền dân tộc tự quyết  Bên cạnh sự kế thừa và tái khẳng định những giá trị nhân quyền phổ quát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển tư duy từ quyền con người thành quyền của các dân tộc. Ngay sau lời trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “ phát triển ”[41] ngữ nghĩa của câu này: “ Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do ”. Học giả người Nhật Bản Shingo Shibata, trong tác phẩm của mình, cho rằng đóng góp nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập chính là sự phát triển quyền con người vào quyền dân tộc rằng tất cả các dân tộc đều có quyền quyết định vận mệnh của mình và thực hiện việc tự cai quản nền độc lập của mình.[42] Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển từ quyền con người từ phạm vi hẹp “ all men ”, gắn với bối cảnh cuối thế kỷ XVIII khi chế độ nô lệ và nạn phân biệt chủng tộc còn tồn tại, ám chỉ những người đàn ông da trắng, thành quyền con người phổ quát dành cho “ tất cả mọi người ”, và rộng hơn nữa là “ tất cả các dân tộc ”. Nội hàm của quyền dân tộc đối với Hồ Chí Minh đã được mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, quyền dân tộc, bên cạnh quyền dân tộc tự quyết, còn bao hàm quyền bình đẳng với các dân tộc khác, quyền tự do, và hạnh phúc.[43] Những tư tưởng nền tảng về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập, đã nhanh chóng được thể chế hóa thành quy phạm pháp lý trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946. Theo đó, Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định, “ Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo ”. Đồng thời, Hiến pháp năm 1946 cũng ghi nhận quyền bình đẳng của mọi công dân Việt Nam về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, bình đẳng trước pháp luật.[44] Tinh thần ấy tiếp tục được kế thừa và khẳng định mạnh mẽ hơn trong các bản Hiến pháp sau này, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 với quy định nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ[45], và các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm ở Việt Nam[46]. Hiến pháp 2013 cũng quy định quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật.[47] Nhìn theo dòng thời gian, có thể thấy sự phát triển liên tục trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết. Cụ thể, từ bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc đã dám đứng lên trước các cường quốc thắng trận sau chiến tranh thế giới thứ nhất tại Hội nghị Versailles năm 1919, đòi quyền một số quyền tự do cơ bản cho dân tộc mình, trong bối cảnh quyền tự quyết dân tộc đang trong quá trình phát triển.[48] Đến Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tái khẳng định những giá trị nhân quyền phổ quát, cũng như mở rộng cách hiểu về quyền dân tộc tự quyết. Cuối cùng, các giá trị nhân quyền ấy được hiến định trong Hiến pháp 1946, và kế thừa trong Hiến pháp 2013.  Một điểm đáng chú ý về mặt lý luận về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hai quyền này được đặt trong mối quan hệ biện chứng, liên hệ chặt chẽ với nhau.[49] Theo đó, quyền dân tộc tự quyết là cơ sở để thực thi quyền con người, còn bảo vệ quyền con người chính là hiện thực hóa giá trị của độc lập dân tộc.[50] Tư tưởng này mang ý nghĩa đi trước thời đại của Người. Cụ thể đến năm 1966, quyền dân tộc tự quyết mới được đưa vào nội dung của hai điều ước quốc tế về nhân quyền bao gồm ICCPR và ICESCR. Theo đó, Điều 1 của cả hai điều ước quốc tế trên đều xác định “ Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết ”. Việc đưa một quyền tập thể vào Điều 1 đã phản ánh tầm quan trọng của quyền dân tộc tự quyết là quyền có tính nền tảng, cốt yếu vì việc thực hiện quyền này là điều kiện tiên quyết, thiết yếu để đảm bảo và tuân thủ hiệu quả các quyền con người mang tính cá nhân được đề cập trong hai Công ước.[51] Như vậy, việc phát triển lý luận từ những quyền cơ bản của con người thành quyền dân tộc và gắn chặt quyền con người với quyền dân tộc tự quyết là một cống hiến lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào dòng chảy tư tưởng nhân quyền của nhân loại.[52] 3.3. Là ngọn cờ giương cao ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới Giá trị và đóng góp của Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của quyền dân tộc tự quyết còn được thể hiện ở chỗ đây là văn kiện đánh dấu một “kỷ nguyên” mới của giải phóng dân tộc khỏi sự bóc lột của thực dân trên toàn thế giới.[53] Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nguồn động viên to lớn đối với các dân tộc đang bị áp bức trên thế giới với tinh thần “ đem sức ta mà giải phóng cho ta ”.[54] Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nguồn động lực trực tiếp cho nhân dân Lào đứng lên giành chính quyền và tuyên bố độc lập ngày 12/10/1945, đồng thời tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, dẫn tới việc Philippines, Myanmar, Indonesia và Malaysia lần lượt giành được độc lập vào các năm 1946, 1948, 1950 và 1957.[55] Ở Đông Bắc Á, cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là sự cổ vũ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc với sự thắng lợi của Cách mạng Trung Quốc năm 1949.[56] Ảnh hưởng này còn vang xa tới Nam Á và châu Phi. Phong trào giành độc lập Ấn Độ chuyển từ yêu sách tự trị sang tuyên bố độc lập hoàn toàn (1950); nhiều nước Bắc Phi như Ai Cập (1952), Algeria (1954) vùng lên đấu tranh, mở đầu làn sóng giải phóng mà riêng năm 1960 đã có tới 17 quốc gia châu Phi giành độc lập.[57] Ở Mỹ Latinh, tinh thần từ Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam cũng truyền cảm hứng cho phong trào đấu tranh, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Cuba năm 1959.[58] Như vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, mà còn trở thành ngọn cờ tiên phong cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu, góp phần đánh bại chủ nghĩa thực dân - đế quốc và thúc đẩy sự phát triển quyền dân tộc tự quyết trong luật pháp quốc tế. Kết luận:  Như vậy, tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết manh nha từ cuối thế kỷ XVIII, được phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai với các luận thuyết của Lênin, Wilson và đặc biệt, cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc và làn sóng đấu tranh giải phóng dân tộc, nguyên tắc này từng bước được pháp điển hóa, phát triển và trở thành một trong những nền tảng của luật quốc tế hiện đại. Nội hàm của quyền không chỉ khẳng định sự tự do lựa chọn thể chế chính trị, con đường phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc mà còn đặt ra nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm quyền ấy như điều kiện thiết yếu để duy trì hòa bình và hợp tác quốc tế. Trong dòng chảy phát triển của quyền dân tộc tự quyết, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là lời khẳng định quyền sống, quyền tự do của dân tộc Việt Nam, vừa là đóng góp có ý nghĩa phổ quát khi phát triển từ quyền con người thành quyền dân tộc tự quyết, trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1][2] Trần Nam Tiến, ‘Quyền dân tộc tự quyết (Self-determination)’ ( Nghiên cứu Quốc tế , 23/04/2016)   https://nghiencuuquocte.org/2016/04/23/quyen-dan-toc-tu-quyet-self-determination/  truy cập ngày 24/08/2025. [3] Nguyễn Tiến, Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,   http://www.tuyengiao.vn/Home/Bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-Dang/60263/Tat-ca-quyen-luc-Nha-nuoc-thuoc-ve-Nhan-dan  truy cập ngày 24/08/2025. [4] GS.TS Lê Minh Tâm, PGS.TS Nguyễn Minh Doanh ( đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật , (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010), trang 24. [5] Thomas D. Musgrave (2000), Self Determination and National Minorities, Oxford University Press, trang 13. [6][7] Rhona K.M. Smith (2003), Textbook on International Human Rights, Oxford University Press, trang 269. [8] Sanakoev IB, Kulumbegova LT, and Ivleva ML, National Self‑determination: Features of the Evolution and Functioning of the Phenomenon , RUDN Journal of Philosophy  27.1 (2023) 155, DOI:10.22363/2313‑2302‑2023‑27‑1‑153‑162.  [9], [25] Daniel Thürer, Thomas Burri, “Self-Determination”, [2012] Max Planck Encyclopedia of Public International Law (Oxford Public International Law), < https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e873 >, truy cập ngày 23/8/2025. [10], [12], [14], [23] Cassese, Antonio. Self-Determination of Peoples: A Legal Reappraisal . Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1995, p19, p21, p38.  [11] , [13] Milena Sterio, “Self-Determination: Historical Underpinnings”, [2018] Secession in International Law, p13-14.  [15]   V.I.Lênin: Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.327; Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận , số 273 (3/2018), trang 41 < https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf > truy cập ngày 23/8/2025.  [16]    V.I.Lênin: Toàn tập, t.25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.317.  [17]   V.I.Lênin: Những vấn đề chính sách dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, trang 83.  [18], [19], [20], [22]   Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận , số 273 (3/2018), trang 42 < https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf > truy cập ngày 23/8/2025; n.d., “Tư tưởng của V.I. Lênin về quyền dân tộc tự quyết và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị , số 4 [2020], < https://hvdt.edu.vn/nghien-cuu/nghien-cuu-trao-doi/tu-tuong-cua-v-i-lenin-ve-quyen-dan-toc-tu-quyet-va-y-nghia-doi-voi-viet-nam-hien-nay >, truy cập ngày 23/8/2025. [21] V. I. Lenin, ‘The Revolutionary Proletariat and the Right of Nations to Self-Determination’ (written October 16 [29] 1915, first published in Lenin Miscellany VI, Collected Works vol 21, Progress Publishers Moscow) < https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1915/oct/16.htm > Truy cập ngày 24/8/2025; Nguyễn Anh Tuấn, ‘Quan điểm Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết – giá trị và sự vận dụng, phát triển hiện nay’, [2018] Tạp chí Giáo dục lý luận , số 273 (3/2018), trang 42 < https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/217345/1/CVv355S2732018040.pdf > truy cập ngày 23/8/2025 [24]  Hiến chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter), Điều 2,3.  [26], [27]  Sam K.N. Blay, “Self-Determination: An Historical and Analytical Inquiry into Its Origins and Evolution, 1400–1945” [1996] Australian Journal of Legal History  2, 117–162, p160, p161; Cassese, Antonio. Self-Determination of Peoples: A Legal Reappraisal . Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1995, p38.  [28]  Preamble, 1514 UN Resolution. [29] Vụ Hệ quả pháp lý của việc chia tách quần đảo Chagos khỏi Mauritius vào năm 1965  [2019] (Ý kiến tư vấn) ICJ Reports, tr.131-135. [30] Vụ  Đông Timor  (Bồ Đào Nha v. Australia) [1995] (Phán quyết) ICJ Reports, tr.102. [31] Vụ Tây Sahara [1975] (Ý kiến tư vấn) ICJ Reports, tr.31 [32]  Ủy ban Loại trừ Phân biệt Chủng tộc, Khuyến nghị chung số 21 (1996) trong Report of the Committee on the Elimination of Racial Discrimination to the General Assembly. [33]  Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nghị quyết 1514 (1960), Phụ lục, Nguyên tắc VI. [34], [35]  Trần Nghị, “Giá trị và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết qua bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, < https://tcnn.vn/news/detail/51835/Gia-tri-va-y-nghia-thoi-dai-cua-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-quyen-con-nguoi-quyen-dan-toc-tu-quyet-qua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap-nam-1945.html >, truy cập ngày 21/8/2025.  [36] Declaration of Independence - 1776 < https://docs.house.gov/meetings/GO/GO00/20220929/115171/HHRG-117-GO00-20220929-SD010.pdf >, truy cập ngày 21/8/2025. [37] Trần Nghị, “Giá trị và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết qua bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, < https://tcnn.vn/news/detail/51835/Gia-tri-va-y-nghia-thoi-dai-cua-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-quyen-con-nguoi-quyen-dan-toc-tu-quyet-qua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap-nam-1945.html >, truy cập ngày 21/8/2025;  Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, ( Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình , 01/9/2021), < https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm >, truy cập ngày 22/8/2025; Xem thêm: Morgan Keith, “What does “All men are created equal” Mean?”, Compass: An Undergraduate Journal of American Political Ideas: Vol. 2 : Iss. 1 , Article 3, < https://digitalcommons.jsu.edu/compass/vol2/iss1/3 >, truy cập ngày 21/8/2025; Xem thêm: Hannah Spahn, “How White Was Jefferson’s Declaration of Independence?”, ( OLL , 15/6/2021), < https://oll.libertyfund.org/publications/liberty-matters/2021-07-15-how-white-was-jefferson-s-declaration-of-independence >, truy cập ngày 21/8/2025, (Tài liệu này đề cập đến sự không chắc chắn rằng liệu Jefferson có ý định bao gồm những người nô lệ và phụ nữ của ông ấy vào “all men” hay không, hay liệu nó chỉ đơn thuần mang nghĩa nhấn mạnh sự bình đẳng giữa người Mỹ da trắng và người Anh.) [38] The Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, ( La Maison Élysée ), < https://www.elysee.fr/en/french-presidency/the-declaration-of-the-rights-of-man-and-of-the-citizen >, truy cập ngày 21/8/2025. [39] Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, < https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html >, truy cập ngày 21/8/2025. [40], [43], [50] Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, ( Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình , 01/9/2021), < https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm >, truy cập ngày 22/8/2025. [41] David Armitage, “The Declaration of Independence in Global Perspective”, ( The Gilder Lehrman Institute of American History ), < https://www.gilderlehrman.org/history-resources/essays/declaration-independence-global-perspective >, truy cập ngày 22/8/2025. [42] Shingo Shibata,  Lessons of the Vietnam War , Amsterdam, 1973, p.141; Xem thêm:  Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, < https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html >, truy cập ngày 21/8/2025. [44]  Hiến pháp năm 1946, Điều 6, 7. [45]  Hiến pháp 2013, Điều 1. [46] Hiến pháp 2013, Điều 14.  [47] Hiến pháp 2013, Điều 16. [48] Đặng Kim Oanh, Vũ Thị Ngọc Liên, “Bản yêu sách của nhân dân An Nam 100 năm với những âm hưởng hào hùng”, ( Tạp chí Lịch sử Đảng , 17/11/2020), < https://tapchilichsudang.vn/ban-yeu-sach-cua-nhan-dan-an-nam-100-nam-voi-nhung-am-huong-hao-hung.html >, truy cập ngày 28/8/2025. [49] Lê Thị Hằng, “Tuyên ngôn Độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị, tư tưởng tiến bộ của thời đại”, ( Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình , 01/9/2021), < https://ubmt.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-su-ke-thua-phat-trien-nhung-gia-tri-tu-tuong-tien-bo-cua-thoi-dai.htm >, truy cập ngày 22/8/2025; Xem thêm: Vũ Dương Ninh, “Tuyên ngôn độc lập - Từ quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc”, [2021] 9 Tạp chí Lịch sử Đảng, < https://tapchilichsudang.vn/tuyen-ngon-doc-lap-tu-quyen-tu-nhien-cua-con-nguoi-den-quyen-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc.html >, truy cập ngày 21/8/2025. [51] PAUL M. TAYLOR, A Commentary on the International Covenant on Civil and Political Rights , (Cambridge University Press, 2020), tr. 57; Ben Saul, David Kinley, Jaqueline Mowbray, The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights: Commentary, Cases, and Materials , (Oxford Scholarly Authorities on International Law [OSAIL], 2014), tr. 12-123.  [52] Đào Văn Quang, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người”, ( Tạp chí Điện tử Lý luận Chính trị , 19/5/2017), < https://lyluanchinhtri.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoi-571.html >, truy cập ngày 28/8/2025. [53], [55], [56], [57], [58] Hoang Thi Tham, “The Declaration of Independence (1945) of the Democratic Republic of Vietnam  and its Role in the Struggle for Independence of the People Worldwide”, [2024] Vol 13 No 4 Academic Journal of Interdisciplinary Studies, < https://www.richtmann.org/journal/index.php/ajis/article/view/13871/13424 >, truy cập ngày 23/8/2025. [54] Phùng Thanh, “Giá trị dân tộc và thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập”, [2021] Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, < https://tcnn.vn/news/detail/51837/Gia-tri-dan-toc-va-thoi-dai-cua-ban-Tuyen-ngon-Doc-lap.html >, truy cập ngày 23/8/2025.

Xem tất cả

Trang khác (28)

  • Nguyễn Thị Minh Hằng | Juris Exploratores

    NHIỆM KỲ 2023 - 2024 BAN BIÊN TẬP VÀ CỐ VẤN Dư Vũ Quỳnh Anh Trưởng Ban Biên tập - Sinh viên Khoá 48 Phạm Quốc Hào Phó Trưởng Ban Biên tập - Sinh viên Khoá 49 Trịnh Bình Minh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Tạ Quang Minh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Nguyễn Phương Linh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Dương Duy Khang Biên tập viên - Sinh viên khoá 49 ĐỘI NGŨ XÂY DỰNG NỘI DUNG Nguyễn Quỳnh Diệp Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Chu Trang Anh Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Hoàng Hải Vân Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Nguyễn Khánh Linh Thành viên - Sinh viên Khoá 47 Nguyễn Vũ Khôi Việt Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Phạm Dũng Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lê Hoàng Dũng Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Phạm Thanh Huyền Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Dương Hải Anh Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Tăng Bảo Đan Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Phan Nguyễn Quỳnh Nhi Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lê Thị Hiền Hạnh Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Đinh Văn Khiêm Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Nguyễn Thị Minh Hằng Sinh viên Khoá 49 Lê Nhật Quỳnh Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lương Vũ Khánh Ly Thành viên - Sinh viên Khoá 48 NHIỆM KỲ 2024 - 2025

  • Lê Hoàng Dũng | Juris Exploratores

    NHIỆM KỲ 2023 - 2024 BAN BIÊN TẬP VÀ CỐ VẤN Dư Vũ Quỳnh Anh Trưởng Ban Biên tập - Sinh viên Khoá 48 Phạm Quốc Hào Phó Trưởng Ban Biên tập - Sinh viên Khoá 49 Trịnh Bình Minh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Tạ Quang Minh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Nguyễn Phương Linh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Dương Duy Khang Biên tập viên - Sinh viên khoá 49 ĐỘI NGŨ XÂY DỰNG NỘI DUNG Nguyễn Quỳnh Diệp Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Chu Trang Anh Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Hoàng Hải Vân Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Nguyễn Khánh Linh Thành viên - Sinh viên Khoá 47 Nguyễn Vũ Khôi Việt Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Phạm Dũng Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lê Hoàng Dũng Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Phạm Thanh Huyền Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Dương Hải Anh Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Tăng Bảo Đan Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Phan Nguyễn Quỳnh Nhi Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lê Thị Hiền Hạnh Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Đinh Văn Khiêm Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Nguyễn Thị Minh Hằng Sinh viên Khoá 49 Lê Nhật Quỳnh Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lương Vũ Khánh Ly Thành viên - Sinh viên Khoá 48 NHIỆM KỲ 2024 - 2025

  • Đinh Văn Khiêm | Juris Exploratores

    NHIỆM KỲ 2023 - 2024 BAN BIÊN TẬP VÀ CỐ VẤN Dư Vũ Quỳnh Anh Trưởng Ban Biên tập - Sinh viên Khoá 48 Phạm Quốc Hào Phó Trưởng Ban Biên tập - Sinh viên Khoá 49 Trịnh Bình Minh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Tạ Quang Minh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Nguyễn Phương Linh Cố vấn - Sinh viên khoá 48 Dương Duy Khang Biên tập viên - Sinh viên khoá 49 ĐỘI NGŨ XÂY DỰNG NỘI DUNG Nguyễn Quỳnh Diệp Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Chu Trang Anh Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Hoàng Hải Vân Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Nguyễn Khánh Linh Thành viên - Sinh viên Khoá 47 Nguyễn Vũ Khôi Việt Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Phạm Dũng Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lê Hoàng Dũng Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Phạm Thanh Huyền Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Dương Hải Anh Thành viên - Sinh viên Khoá 49 Tăng Bảo Đan Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Phan Nguyễn Quỳnh Nhi Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lê Thị Hiền Hạnh Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Đinh Văn Khiêm Thành viên - Sinh viên Khoá 50 Nguyễn Thị Minh Hằng Sinh viên Khoá 49 Lê Nhật Quỳnh Thành viên - Sinh viên Khoá 48 Lương Vũ Khánh Ly Thành viên - Sinh viên Khoá 48 NHIỆM KỲ 2024 - 2025

Xem tất cả
bottom of page