top of page
icj 1.jpeg

[74] TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

  • Nguyễn Hoàng Trang, Phùng Đăng Khôi
  • 7 thg 9
  • 24 phút đọc

Tác giả: Nguyễn Hoàng Trang, Phùng Đăng Khôi


Dẫn nhập: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng hiện nay, các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ thương mại quốc tế nói riêng ngày càng phổ biến. Theo đó, các tranh chấp thương mại quốc tế phát sinh được giải quyết ngày càng gia tăng. Trọng tài thương mại quốc tế ("TTTMQT") - một phương thức giải quyết tranh chấp ("GQTC") trao cho các bên nhiều quyền định đoạt các vấn đề trong quá trình giải quyết tranh chấp, đã trở thành một trong những phương pháp chủ yếu nhằm giải quyết xung đột giữa các chủ thể tới từ nhiều quốc gia.


Từ khoá: trọng tài thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp.


1. Giới thiệu

1.1. Một số khái niệm căn bản liên quan đến TTTMQT

Từ điển Black’s Law định nghĩa trọng tài (arbitration) là: “Một phương pháp giải quyết tranh chấp có sự tham gia của một hoặc nhiều bên thứ ba trung gian, được chấp thuận bởi các bên trong tranh chấp và có quyền năng đưa ra quyết định có tính ràng buộc.”[1] Tác giả Jan Paulsson có quan điểm như sau: “Tư tưởng cốt lõi về trọng tài là việc giải quyết tranh chấp có giá trị ràng buộc mà các bên chấp nhận, bởi họ đã dành sự tín nhiệm đặc biệt đối với những người được lựa chọn làm trọng tài viên.”[2] Nói cách khác, trọng tài là một thủ tục hoặc phương pháp GQTC mà tại đó các bên trong tranh chấp, là cá nhân hoặc pháp nhân, cùng đồng thuận thông qua thỏa thuận trọng tài (agreement to arbitrate) để chọn ra các trọng tài viên trung lập, độc lập và vô tư mà họ tin tưởng. Theo đó, các bên trao cho trọng tài viên quyền lực GQTC và đưa ra phán quyết trọng tài (award) có tính ràng buộc và hiệu lực thi hành.


Về tính chất quốc tế, trọng tài là trọng tài quốc tế nếu (i) Các bên trong tranh chấp có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau; hoặc (ii) Có bất kỳ địa điểm nào mà tại đó một phần đáng kể nghĩa vụ của quan hệ thương mại được thực hiện hoặc địa điểm có mối liên hệ chặt chẽ nhất với đối tượng của tranh chấp nằm ở quốc gia khác so với quốc gia mà các bên cùng có trụ sở kinh doanh; hoặc (iii) Các bên đã thỏa thuận rõ ràng rằng đối tượng của thỏa thuận trọng tài có liên quan đến hơn một quốc gia.[3] Theo quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam, trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành GQTC ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.[4] Như vậy, hướng quy định này dẫn đến hệ quả rằng một tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài với đầy đủ các yếu tố của trọng tài quốc tế theo quan điểm của Luật mẫu vẫn được xem là phán quyết trọng tài trong nước tại Việt Nam, và ngược lại.


Xuất phát từ tính chất quốc tế, TTTMQT không đơn thuần GQTC bằng một nguồn luật duy nhất, mà cần thiết phải có sự tham gia điều chỉnh của ít nhất bốn nguồn luật khác nhau.[5] Cụ thể là các nguồn luật điều chỉnh (i) hiệu lực của thoả thuận trọng tài; (ii) thủ tục tố tụng trọng tài; (iii) nội dung tranh chấp; (iv) công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. Theo quy định của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết được tuyên trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi việc công nhận và thi hành phán quyết đó được yêu cầu.[6] Trong khi đó, pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam quy định theo hướng phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết được tuyên bởi trọng tài nước ngoài, bất kể địa điểm ra phán quyết là ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.[7]


Về tính chất thương mại, cụm từ “thương mại” trong TTTMQT từng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm nhưng không giới hạn trong các giao dịch về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá, dịch vụ; đầu tư; thỏa thuận khai thác.[8] Tuy nhiên, hiện này trọng tài đầu tư quốc tế là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập bên cạnh trọng tài thương mại quốc tế[9] do trọng tài đầu tư đang trở thành cơ chế GQTC quan trọng giữa nhà đầu tư và nhà nước tiếp nhận đầu tư.


1.2. Lịch sử phát triển của TTTMQT

Trọng tài đã xuất hiện rất lâu trước đây, trước cả khi mà pháp luật được quy định, toà án được hình thành.[10] Hình hài nguyên thuỷ của TTTMQT là khi hai thương nhân có tranh chấp cùng tìm tới một bên thứ ba mà họ tin tưởng nhằm tháo gỡ khúc mắc và đồng ý thực hiện theo quyết định của người thứ ba trung gian kia vì đó là thông lệ của giới thương nhân.[[11] Theo đó, GQTC bằng con đường trong tài còn được xem là một hệ thống công lý được sinh ra bởi các thương nhân.[12]


TTTMQT dần trở nên phổ biến hơn vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX,[13] đặc biệt là ở Châu Âu cùng với xu thế phát triển nhanh của thương mại quốc tế và sự xuất hiện của các trung tâm trọng tài.[14] Pháp luật về TTTMQT cũng dần dần được hình thành chặt chẽ hơn với sự ra đời của các điều ước quốc tế quan trọng, đã hình thành nên khung pháp lý cho pháp luật quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế.[15] Bên cạnh đó, tới nay, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (“UNCITRAL”) đã thành công xây dựng nhiều công cụ nhằm hài hòa hóa pháp luật thương mại quốc tế.[16] TTTMQT đã trở thành một phương thức GQTC phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu.


1.3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc (ad hoc) và trọng tài quy chế

Trước khi tranh chấp được tiến hành giải quyết, trước tiên các bên cần phải lựa chọn GQTC theo hình thức trọng tài vụ việc hay trọng tài quy chế. Về trọng tài vụ việc (ad hoc), các bên trong tranh chấp được phép phối hợp, tự thỏa thuận về bất cứ quy tắc tố tụng trọng tài và trọng tài viên nào phù hợp nhất với lợi ích của các bên và do đó không bị ràng buộc bởi quy tắc của bất cứ trung tâm trọng tài nào. Do đó, thỏa thuận quy tắc tố tụng trọng tài ad hoc giống như mặc một bộ suit may đo sẽ vừa vặn hơn so với một bộ suit may sẵn.[17] Về trọng tài quy chế, các bên thỏa thuận đưa tranh chấp của mình giải quyết tại một trung tâm trọng tài. Theo đó, trung tâm trọng tài sẽ cung cấp “dịch vụ trọng tài” và đảm bảo tranh chấp được giải quyết đúng thời trình tự và thủ tục.[18] Ưu điểm của hình thức này đó là mỗi trung tâm trọng tài quy chế thường có quy tắc trọng tài riêng của trung tâm và danh sách các trọng tài viên uy tín nên các bên trong tranh chấp không cần phải tự mình lựa chọn, giúp đỡ tốn kém thời gian. Bên cạnh đó, nếu quá trình GQTC bị cản trở bởi những vấn đề tư cách của trọng tài viên thì quy tắc tố tụng của trung tâm có thể trực tiếp giải quyết vấn đề này.[19]


2. Thỏa thuận trọng tài

Việc GQTC bằng Tòa án luôn bị ràng buộc bởi quy tắc tố tụng dân sự chặt chẽ do Nhà nước ban hành.[20] Trong khi đó, các bên chỉ có thể đưa một tranh chấp vào quá trình tố tụng trọng tài khi và chỉ khi đã tồn tại một thỏa thuận trọng tài (“TTTT”).[21] Một cách ngắn gọn, trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên đã có TTTT - một thỏa thuận ghi nhận sự đồng ý của các bên như một trong số các hình thức để GQTC hoặc đồng ý chọn trọng tài để GQTC.[22]


2.1. Thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài

TTTT có thể được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh hoặc sau khi khi tranh chấp đã phát sinh.[23]


Đối với thỏa thuận xác lập trước khi tranh chấp phát sinh, đây thông thường là một điều khoản arbitration clause nằm trong một hợp đồng chính, thông thường rất ngắn gọn, bên cạnh sự lựa chọn về pháp luật điều chỉnh nội dung hợp đồng hay nơi GQTC.[24] Điều khoản trọng tài độc lập đối với hợp đồng chính[25]. Giả sử hợp đồng chính vô hiệu, thì điều khoản trọng tài vẫn có hiệu lực.[26]


Thông thường, các trung tâm trọng tài sẽ công khai một điều khoản trọng tài mẫu mang tính chất tham khảo cho các bên. Ví dụ, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam ("VIAC") có điều khoản mẫu như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này.”.[27] Trong điều khoản này, các bên có thể thỏa thuận thêm về số lượng trọng tài viên (01 hoặc 03) và địa điểm GQTC. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có thể thỏa thuận bổ sung về luật áp dụng cho hợp đồng và ngôn ngữ GQTC.[28]


Đối với thỏa thuận xác lập sau khi tranh chấp phát sinh, TTTT submission agreement đáp ứng tình hình tranh chấp thực tế. Thỏa thuận này thông thường chỉ rõ nơi GQTC, luật nội dung, chỉ định trọng tài viên, xác định vấn đề tranh chấp, và thậm chí là các vấn đề thủ tục khác.[29]


2.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài

Hầu như các điều ước quốc tế liên quan đến trọng tài quốc tế đều quy định về việc hình thức của TTTT ở dạng văn bản. Trong đó, Công ước New York quy định TTTT là văn bản khi thỏa thuận đó là (i) hợp đồng, thỏa thuận trực tiếp được ký kết giữa các bên hoặc (ii) chứa đựng trong các thư tín là văn bản.[30]


Tuy nhiên, quy định của Luật Mẫu không yêu cầu các bên phải trực tiếp ký kết vào TTTT.[31] Thay vào đó, Luật Mẫu công nhận một TTTT có hình thức văn bản khi (i) TTTT được ghi nhận dưới bất kỳ hình thức nào miễn là nội dung thỏa thuận được ghi chép lại, (ii) TTTT phải được lập thành văn bản thông qua phương thức liên lạc điện tử nếu thông tin chứa trong đó có thể truy cập nhằm phục vụ mục đích xác định thỏa thuận, (iii) TTTT được lập thông qua trao đổi yêu cầu khởi kiện và biện hộ trong đó sự tồn tại của một thỏa thuận được một bên đưa ra và không bị bên kia phủ nhận, và (v) hợp đồng viện dẫn đến tài liệu chứa đựng TTTT dưới dạng văn bản.[32]


2.3. Pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài

Pháp luật điều chỉnh TTTT sẽ điều chỉnh các vấn đề thiết lập TTTT, điều kiện có hiệu lực, khả năng thực thi của TTTT, và chấm dứt của TTTT.[33]  Vì thế, thông thường, vấn đề xác định luật điều chỉnh được đặt ra khi có một trong các bên của tranh chấp phản đối thẩm quyền trọng tài. Chiếu theo nguyên tắc compétence de la compétence, chính hội đồng trọng tài sẽ phải xác định luật áp dụng đối với TTTT để xem xét liệu hội đồng trọng tài có thẩm quyền GQTC.[34]


Mặc dù không trực tiếp đề cập vấn đề TTTT, tuy nhiên Công ước New York quy định về trường hợp có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trước tòa án quốc gia với lý do TTTT vô hiệu. Theo đó, hiệu lực của thỏa thuận sẽ được xem xét theo luật mà các bên lựa chọn, nếu các bên không lựa chọn thì theo luật của quốc gia nơi phán quyết được đưa ra[35], hay là luật của seat of arbitration - nơi mà tố tụng trọng tài được coi là diễn ra về mặt pháp lý, bất kể vị trí địa lý của trọng tài và/hoặc bất kỳ phiên điều trần nào.[36]


Thông thường, đối với TTTT tồn tại dưới dạng một điều khoản của một hợp đồng, thì cũng có thể suy rằng pháp luật áp dụng đối với hợp đồng chính cũng chính là pháp luật áp dụng đối với TTTT.[37] Tuy nhiên, như đã đề cập ở bên trên thì TTTT độc lập với hợp đồng chính, do đó, pháp luật điều chỉnh TTTT hoàn toàn có thể khác pháp luật điều chỉnh hợp đồng chính.[38] Cụ thể, theo quy định của Luật Trọng tài Anh sửa đổi năm 2025, luật áp dụng cho TTTT sẽ là luật các bên đồng ý áp dụng cho TTTT. Nếu các bên không thể hiện rõ ràng sự lựa chọn pháp luật áp dụng cho TTTT, thì luật nơi diễn ra trọng tài (seat of arbitration) được áp dụng.


3. Tố tụng trọng tài thương mại quốc tế

Khác với tố tụng tại Tòa án vốn tuân theo những quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng dân sự, quy tắc tố tụng trọng tài có một sự linh hoạt nhất định - các bên trong tranh chấp có thể tự do thỏa thuận trong vấn đề tố tụng trọng tài.[39]


Quyền tự định đoạt của các bên (party autonomy) đã được ghi nhận trong Công ước New York "thành phần của cơ quan trọng tài hoặc thủ tục trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên"[40] và Luật Mẫu "các bên được tự do thỏa thuận về thủ tục mà tòa trọng tài phải tuân theo khi tiến hành tố tụng"[41]. Tuy vậy, quyền tự do định đoạt của các bên vẫn phải nằm trong khuôn khổ pháp luật của seat of arbitration[42], quy tắc trọng tài quy chế các bên đã lựa chọn,[43] và nguyên tắc đối xử bình đẳng và quyền được lắng nghe và trình bày về vụ kiện.[44]


Các bước thường thấy của quá trình tố tụng trọng tài thương mại quốc tế bao gồm: (i) Nộp đơn khởi kiện, trả lời đơn khởi kiện; (ii) Chỉ định trọng tài viên; (iii) Cuộc họp sơ bộ giữa Hội đồng Trọng tài và các bên; (iv) Trao đổi văn bản đệ trình; (v) Phiên điều trần; và (vi) Hội đồng Trọng tài thảo luận và ra phán quyết.[45]


3.1. Nộp đơn khởi kiện, trả lời đơn khởi kiện và phản tố

Quá trình tố tụng trọng tài bắt đầu vào thời điểm nguyên đơn gửi đơn khởi kiện đến đến tổ chức trọng tài (request for arbitration)[46], hoặc vào thời điểm bị đơn nhận được và phản hồi thông báo.[47] Ví dụ, theo quy định Phòng Thương mại Quốc tế ("ICC"), và một số cơ quan trọng tài quy chế như Tòa Trọng tài Quốc tế London ("LCIA"), Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore ("SIAC"), và VIAC, quy trình tố tụng trọng tài được xem là bắt đầu vào ngày cơ quan nhận được thông báo trọng tài của nguyên đơn.[48] Trong khi đó, Quy tắc trọng tài UNCITRAL quy định quá trình tố tụng trọng tài bắt đầu vào ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện.[49]


Sau khi nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn có nghĩa vụ trả lời đơn khởi kiện (Answer to the Request for Arbitration hoặc Statement of Defence) và có quyền phản tố (kiện ngược lại) nguyên đơn trong thời hạn do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của trọng tài quy chế.[50] Nhiều trung tâm trọng tài quy chế đều yêu cầu bị đơn phản tố nguyên đơn trong khi trả lời đơn khởi kiện của nguyên đơn,[51] tuy nhiên, cũng có trường hợp yêu cầu bản khởi kiện ngược được nộp cùng lúc và độc lập với bản trả lời đơn khởi kiện.[52]


3.2. Thành lập hội đồng trọng tài

Số lượng trọng tài viên thông thường là một hoặc ba người.[53] Phương thức lựa chọn trọng tài viên có thể dựa theo thỏa thuận của các bên hoặc dựa theo quy định của tổ chức trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp lựa chọn thành lập Hội đồng Trọng tài (“HĐTT”) có ba trọng tài viên, phương thức lựa chọn phổ biến nhất là mỗi bên trong tranh chấp lựa chọn một trọng tài viên, và hai trọng tài viên đó sẽ lựa chọn một trọng tài viên thứ ba để trở thành Chủ tịch Hội đồng trọng tài.[54]


Trọng tài viên có nghĩa vụ phải độc lập, vô tư, khách quan.[55] Nghĩa vụ vô tư, khách quan được hiểu là trọng tài viên không thiên vị với bất kỳ quan điểm nào về vấn đề đang giải quyết hay bất kỳ bên nào vì bất kỳ lý do gì.[56] Độc lập có nghĩa là trọng tài viên mô tả việc trọng tài viên không có mối liên hệ với bất kỳ bên nào trong tranh chấp, luật sư của các bên hoặc trọng tài viên khác.[57]


3.3. Họp sơ bộ (preliminary meetings)

Khi trọng tài viên đã được chỉ định, cuộc họp sơ bộ sẽ được tổ chức bởi hội đồng để đảm bảo rằng HĐTT và các bên có một cách hiểu thống nhất về các vấn đề liên quan.[58]


Tại phiên họp sơ bộ, bất kể là trọng tài quy chế hay vụ việc, thường giải quyết những vấn đề sơ bộ như: ghi nhận sự phản đối thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; về cấu trúc, độ dài của văn bản sẽ trao đổi; cung cấp tài liệu; các vấn đề liên quan đến nhân chứng; về thời gian và địa điểm của buổi thảo luận trước phiên điều trần và phiên họp đánh giá chứng cứ, và các vấn đề mang tính thủ tục khác như vai trò của Quy tắc IBA về việc thu thập chứng cứ, thẩm quyền của Chủ tịch HĐTT trong việc tự mình ra các chỉ thị về thủ tục, việc chỉ định thư ký trọng tài.[59]


3.4. Trao đổi văn bản đệ trình

Văn bản đệ trình (written submissions) là các văn bản được nộp tuần tự hoặc cùng lúc với nhau bởi nguyên đơn và bị đơn lên HĐTT trước khi phiên họp GQTC ra và thông thường là Bản trình bày yêu cầu khởi kiện (statement of claims/statement of defence) bao gồm đầy đủ lập luận của phía nguyên đơn hoặc bị đơn về các vấn đề pháp lý, đính kèm theo chứng cứ dạng văn bản, lời khai nhân chứng và ý kiến chuyên gia liên quan.[60] Nội dung và độ dài của nội dung mà các bên phải bao gồm trong văn bản đệ trình là do trọng tài viên hướng dẫn cụ thể và linh hoạt theo từng vụ việc.[61] Thời hạn nộp văn bản đệ trình được ấn định bởi trọng tài viên, có thể dài hoặc ngắn tùy thuộc vào mức độ phức tạp tranh chấp.[62] Đối với một số vụ việc với tính phức tạp cao, văn bản đệ trình sau phiên điều trần (post-hearing written submissions) được chấp nhận để các bên bình luận về các chứng cứ hoặc tóm tắt tổng quan các luận điểm được đưa ra trong phiên điều trần.[63]


3.5. Phiên họp giải quyết tranh chấp

Phiên họp GQTC (hearing) là cuộc họp kín giữa các trọng tài viên và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp một cách trực tiếp hoặc bằng hình thức tele-conference, video-conference hoặc hình thức khác[64] nhằm thực hiện tranh luận, thẩm vấn giữa các bên, được thực hiện sau khi đã hoàn tất quá trình nộp văn bản đệ trình, tài liệu chứng cứ, lời khai nhân chứng.[65] HĐTT phải tổ chức phiên họp GQTC tại thời điểm thích hợp trong quá trình tố tụng trọng tài, trừ trường hợp các bên tranh chấp thống nhất sẽ không tổ chức phiên điều trần.[66] Trên thực tế, rất hiếm có trường hợp HĐTT giải quyết tranh chỉ dựa trên nội dung văn bản đệ trình của các bên, do bởi phiên họp GQTC là cơ hội để các bên trong tranh chấp trực tiếp tranh luận, cũng như HĐTT có thể làm rõ những vấn đề còn hoang mang trong văn bản đệ trình.[67]. Trình tự của thông thường của một phiên họp GQTC bao gồm: (i) Trình bày khai mạc (opening statements); (ii) phiên họp với nhân chứng sự việc (hearing of witnesses of fact); (iii) phiên họp với nhân chứng chuyên gia (hearing of expert witnesses); (iv) Trình bày bế mạc (closing statements) mà trong đó, hoạt động thẩm tra nhân chứng có vai trò trung tâm.[68] [69]


3.6. Chấm dứt quá trình tố tụng

Khi phiên họp GQTC kết thúc, HĐTT bước vào giai đoạn nghị án (deliberation) nhằm đưa ra phán quyết trọng tài cuối cùng, giải quyết mọi vấn đề pháp lý trong tranh chấp của các bên. Theo đó, quá trình tố tụng trọng tài kết thúc khi phán quyết cuối cùng được đưa ra[70] và chỉ tiếp tục trong trường hợp phán quyết trọng tài có nhu cầu được sửa đổi hoặc giải thích.[71] Ngoài ra, Luật mẫu về TTTMQT cũng quy định tố tụng trọng tài cũng có thể kết thúc trong một số trường hợp sau:[72] (i) Nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu khởi kiện bị đình chỉ, mà không bị phản đối bởi bị đơn; (ii) Các bên trong tranh chấp đồng ý rút yêu cầu khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc; (iii) HĐTT thấy rằng việc tiếp tục tố tụng là không cần thiết hoặc bất khả thi. Tố tụng trọng tài kết thúc đồng nghĩa rằng nghĩa vụ GQTC của HĐTT đã chấm dứt.[73]


4. Phán quyết trọng tài thương mại quốc tế

Hiện nay, định nghĩa về phán quyết trọng tài chưa nêu rõ trong các văn bản pháp lý quốc tế[74] tuy nhiên, phán quyết trọng tài thông thường được hiểu là những phán quyết chung thẩm (final award) của HĐTT mà giải quyết toàn bộ các vấn đề trước đó được các bên đệ trình.[75] Trên thực tế, “phán quyết trọng tài” cũng được sử dụng để đề cập tới những phán quyết từng phần (partial award), là bất kỳ quyết định nào của HĐTT, có tính chất chung thẩm nhưng chỉ kết thúc giải quyết một số vấn đề cụ thể về nội dung, thẩm quyền hoặc bất kỳ vấn đề tố tụng nào khác.[76] Phán quyết từng phần được HĐTT đưa ra để giải quyết nhanh gọn những vấn đề phát sinh trong quá trình tố tụng mà không cần phải chờ tới khi kết thúc tố tụng trọng tài, chẳng hạn như vấn đề về thẩm quyền của HĐTT hay biện pháp khẩn cấp tạm thời.[77] Tuy nhiên cần lưu ý rằng, chỉ có phán quyết chung thẩm mới là đối tượng để công nhận và cho thi hành.[78]


Nhìn chung, phán quyết trọng tài có hai đặc điểm chính là chung thẩm và ràng buộc. Theo đó, các bên tự nguyện ràng buộc bản thân với phán quyết thông qua TTTT và phán quyết đưa ra là chung thẩm, hay nói cách khác là không thể kháng cáo, buộc các bên phải thực hiện nội dung phán quyết kể từ ngày có hiệu lực.[79]


Sau khi tố tụng trọng tài kết thúc, bên thắng kiện tiến hành giai đoạn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài tại tòa án quốc gia nơi có tài sản của bên thua kiện. Yêu cầu công nhận và yêu cầu thi hành thường song hành nhưng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau và cũng đưa đến hệ quả pháp lý khác nhau. Cụ thể, công nhận phán quyết đơn thuần là việc toà án quốc gia công nhận hiệu lực và khả năng ràng buộc của phán quyết trọng tài thì thi hành phán quyết. Trong khi đó, thi hành phán quyết là quá trình mà tại đó việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế sử dụng các biện pháp thi hành án trong pháp luật quốc gia, buộc bên thua kiện thực hiện nghĩa vụ trong phán quyết trọng tài.[80] Hiện nay, thủ tục yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài quốc tế phần lớn được thực hiện thông qua Công ước New York 1958 đã được 172 quốc gia thông qua,[81] và các tinh thần quy định của Công ước New York đã được thể hiện trong Phần thứ Bảy của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 của Việt Nam, trong đó bao gồm các quy định và công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.[82] Theo đó, các quốc gia ký kết Công ước có nghĩa vụ công nhận giá trị ràng buộc và khả năng thi hành của các phán quyết trọng tài tuân thủ nguyên tắc pháp luật tố tụng của quốc gia đó và nguyên tắc được đề ra trong Công ước.[83] Điều kiện cho việc công nhận, cho thi hành phán quyết trọng tài theo pháp luật sở tại không được nghiêm ngặt hơn điều kiện quy định trong Công ước[84] và chỉ thực hiện từ chối không công nhận trong một số trường hợp nhất định như TTTT vô hiệu hay phán quyết trọng tài vi phạm trật tự công cộng.[85] Ngoài ra, yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại các quốc gia không phải là thành viên Công ước New York có thể được thực hiện trên cơ sở có đi có lại.


5. Kết luận

Trọng tài thương mại quốc tế là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế được các bên tin tưởng lựa chọn bởi tính chất tôn trọng thỏa thuận của các bên, linh hoạt và phán quyết có giá trị ràng buộc. Với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại toàn cầu, trọng tài đã trở thành cơ chế giải quyết tranh chấp phổ biến, được xây dựng trên nền tảng các điều ước quốc tế quan trọng và sự hài hòa hóa pháp luật do UNCITRAL thúc đẩy. Các bên có thể tự định đoạt và thỏa thuận từ việc lựa chọn trọng tài thông qua thỏa thuận trọng tài, cho đến việc quyết định quá trình tố tụng, song vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của pháp luật.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Black’s Law Dictionary (8th edition, Thomas West 2004) p.112.

[2] Jan Paulsson, The Idea of Arbitration, (Oxford University Press 2013), p.1.

[3] UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration, 1985, Art. 1(3).

[4] Luật Trọng tài thương mại 2010, khoản 11 Điều 3.

[5] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 1.08.

[6] Công ước New York, Điều I(1)

[7] Luật Trọng tài thương mại năm 2010, khoản 12 Điều 3.

[8] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.38.

[9] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.5.

[10] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.7.

[11] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 1.13

[12] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.15.

[13] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 1.16.

[14] Ví dụ một số trung tâm trọng tài hàng đầu: Tòa trọng tài Quốc tế London (LCIA), Tòa trọng tài thường trực (PCA) hay Tòa Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC).

[15] Nghị định thư Geneva 1923 về Điều khoản trọng tài, Công ước Geneva 1927 về Thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài.

[16] Luật Mẫu UNCITRAL về thương mại quốc tế và Quy tắc Trọng tài UNCITRAL

[17] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.143.

[18] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.9.

[19] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para 1.150.

[20] TS. Bùi Thị Thu, 'Chọn luật áp dụng tại Tòa án và trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài - Một số khác biệt cơ bản' (Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, ngày 13 tháng 7 năm 2022),

[21] Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, ‘Đặc san tuyên truyền pháp luật số 07/2013 - Chủ đề Trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại’ <https://thuvienso.net/upload/library/359284/preview/dac-san-tuyen-truyen-phap-luat-so-07-2013-359284.pdf> truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.

[22] GS.TS. Đỗ Văn Đại, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2022) Đoạn 118

[23] GS.TS. Đỗ Văn Đại, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2022) Đoạn 117

[24] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.02, 2.03, 2.04

[25] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 16.1; Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010, Điều 19; Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Điều 1447; Luật Trọng tài Anh năm 1996, Điều 6; Luật Trọng tài Singapore năm 2001, Điều 21(1).

[26] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.101.

[27] 'Điều khoản trọng tài mẫu' (VIAC), <https://www.viac.vn/dieu-khoan-trong-tai-mau.html>, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2025.

[28] 'Điều khoản trọng tài mẫu' (VIAC), <https://www.viac.vn/dieu-khoan-trong-tai-mau.html>, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2025.

[29] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 2.03.

[30] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều II(1)

[31] Ghi chú giải thích của Ban Thư ký UNCITRAL về Luật Mẫu năm 1985 về trọng tài thương mại quốc tế sửa đổi năm 2006, Đoạn 19.

[32] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL, Điều 7.

[33] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật trọng tài thương mại (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2021) Trang 9.

[34] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 16(1).

[35] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V(I)(a).

[36] 'Seat of arbitration definition' (LexisNexis), <https://www.lexisnexis.co.uk/legal/glossary/seat-of-arbitration>, truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2025.

[37] Lew, ‘The law applicable to the form and substance of the arbitration clause’ (1999) 9 ICCA Congress Series 114.

[38] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 3.09.

[39] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 6.01

[40] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V(1)(d)

[41] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 19.1

[42] Đã giải thích ở Phần 2.3.

[43] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật trọng tài thương mại (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2021) Trang 91.

[44] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 18.

[45] Asia-Pacific, 322

[46] Asia-Pacific, 323

[47] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.158.

[48] ICC Rule, Art. 4(2); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 1.1; SIAC Rules 2025, Art. 6.2; VIAC Rules, Điều 5

[49] Quy tắc trọng tài UNCITRAL, Điều 3(2).

[50] ICC Rule, Art. 5(1); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 2.1; SIAC Rules 2025, Art. 7.1; VIAC Rules, Điều 9

[51] ICC Rule, Art. 5(1)(5); LCIA Arbitration Rules 2020, Art 2.1.iii; SIAC Rules 2025, Art. 7.1.e.

[52] VIAC Rules, Điều 10.

[53] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.24

[54] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.40.

[55] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 12; Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010, khoản 2 Điều 4; Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Điều 1456; Luật Trọng tài Anh năm 1996, Điều 33(1)(a); Luật Trọng tài Singapore năm 2001, Điều 14.

[56] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 4.80.

[58] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.41.

[59] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.47.

[60]  Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) Đoạn 6.72.

[61]  Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p. 166 - 167.

[62] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.69. 

[63]  Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.70.

[64] Quy tắc IBA về thu thập chứng cứ, Definitions.

[65]  Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para. 7.161- 7.162.

[66] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 24(1).

[67] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015) para 6.156.

[68] Gary Born, International Arbitration: Law and Practice, (2nd edition, Wolters Kluwer 2015), p. 174.

[69] Hoạt động thẩm tra trong phiên họp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế gồm ba giai đoạn. Đầu tiên, nhân chứng được thẩm tra trực tiếp (direct examination) bởi luật sư đại diện của cùng bên nhân chứng đó đại diện, sau đó được thẩm tra chéo (cross examination) bởi luật sư bên còn lại và cuối cùng tái thẩm tra (redirect examination) bởi luật sư cùng bên.

[70] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 32(1).

[71] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para 7.102.

[72] Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL Điều 32.

[73] Simon Greenberg, Christopher Kee, J. Romesh Weeramantry, International Commercial Arbitration: An Asia-Pacific Perspective (Cambridge University Press 2012), para 7.10.

[74] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.05.

[75] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p.190.

[76] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.06.

[77] Blackaby, Nigel/Partasides, Constantine/Redfern, Alan/Hunter, Martin, Redfern and Hunter on International Arbitration (6th edition, Oxford University Press 2015), para. 9.19

[78]Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration (2nd edition, Cambridge University Press 2012, p.192.

[79] Freya Baetens, ‘Arbitral Awards’ (Oxford Public International Law, April 2023) <https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law-mpeipro/e1238.013.1238/law-mpeipro-e1238?p=emailA8uLnlthY325M&d=/10.1093/law-mpeipro/e1238.013.1238/law-mpeipro-e1238> truy cập 25/07/2025.

[80] Margaret L. Moses, The Principles and Practice of International Commercial Arbitration (2nd edition, Cambridge University Press 2012), p. 212.

[81] ‘Contracting States’ (New York Convention) <https://www.newyorkconvention.org/contracting-states> truy cập 25/07/2025.

[82] Ngọc Trâm, 'Về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài trong BLTTDS 2015' (Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, ngày 25 tháng 6 năm 2018),

[83] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều III.

[84] Như trên.

[85] Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Điều V.  


Bình luận


bottom of page