top of page
icj 1.jpeg

[75] CÁC CÁCH THỨC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ THEO LUẬT QUỐC TẾ

  • Phạm Thị Lan Hương, Nguyễn Hà Minh Thu
  • 15 thg 9
  • 26 phút đọc

Tác giả: Phạm Thị Lan Hương, Nguyễn Hà Minh Thu

 

Tóm tắt: Trong suốt quá trình phát triển của các quốc gia, lãnh thổ luôn giữ vai trò quan trọng gắn liền với chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, do các biến động lịch sử như chiến tranh, di cư, và thỏa thuận chính trị, ranh giới lãnh thổ của nhiều quốc gia thường thay đổi. Chính vì vậy, ngành luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ ra đời nhằm điều chỉnh những biến động này một cách hợp pháp. Bài viết tập trung phân tích 05 cách thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản theo luật quốc tế, bao gồm: (1) chuyển nhượng; (2) chiếm hữu; (3) chiếm hữu theo thời hiệu; (4) bồi tụ; (5) sử dụng vũ lực/xâm lược - phương thức đã bị cấm sau năm 1945.

Từ khóa: Luật Quốc tế, thụ đắc lãnh thổ, cách thức thụ đắc lãnh thổ, chuyển nhượng, chiếm hữu, chiếm hữu theo thời hiệu, bồi tụ, xâm lược.


Mở đầu

Theo luật quốc tế “Thụ đắc lãnh thổ” là quá trình một quốc gia xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mới, hay nói cách khác, là việc một quốc gia mở rộng lãnh thổ hiện có một cách hợp pháp thông qua các hành động mà luật quốc tế cho phép. Truyền thống phân loại các phương thức thụ đắc lãnh thổ bắt nguồn từ luật La Mã cổ đại,[1] theo đó có 05 cách thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản: chuyển nhượng; chiếm hữu; chiếm hữu theo thời hiệu; bồi tụ; và xâm lược - phương thức hiện đã bị cấm sau năm 1945 theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc.


Tuy nhiên cách phân loại này hiện nay được đánh giá là chưa đầy đủ và không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện đại[2] do tính phức tạp của các tranh chấp lãnh thổ, vì vậy không thể chỉ dựa vào một phương thức thụ đắc đơn lẻ mà cần xem xét toàn diện nhiều yếu tố, bao gồm sự công nhận của cộng đồng quốc tế và các hành vi thực thi chủ quyền của quốc gia liên quan.[3] Vì vậy, các phương thức thụ đắc lãnh thổ chỉ nên được xem như những cách phân loại thuận tiện để nghiên cứu, còn thực tế việc xác định chủ quyền lãnh thổ đòi hỏi phải xét đến nhiều yếu tố phức tạp và đa chiều hơn.


1. Thụ đắc lãnh thổ theo hình thức chuyển nhượng (Cession)

 Chuyển nhượng là phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng cách chuyển nhượng lãnh thổ của quốc gia này sang quốc gia khác dựa trên sự đồng thuận giữa các quốc gia, thông thường qua việc ký kết các điều ước quốc tế có hiệu lực pháp lý.[4] Cơ sở cho phương thức này chính là ý định của các quốc gia.[5] Đồng thời các quốc gia không thể chuyển nhượng nhiều hơn những gì mình có, trừ trường hợp thụ đắc bằng phương thức bồi tụ (accretion).[6] Trong Vụ Đảo Palmas (Hoa Kỳ v. Hà Lan), tòa đã nhấn mạnh điểm này và các bên chấp nhận rằng Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng cho người Mỹ nhiều hơn những quyền họ đang sở hữu.[7]


Trong lịch sử từng tồn tại những trường hợp cưỡng ép chuyển nhượng lãnh thổ bằng việc đe dọa hay sử dụng vũ lực, ví dụ như trong vụ Iloilo (Hoa Kỳ v. Philippines), Philippines đã chuyển nhượng khu vực này cho Mỹ theo Điều ước Paris 1898 mặc dù quân đội Mỹ đã chiếm cứ Iloilo 2 tháng trước đó.[8] Sau này trong Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969, các điều ước quốc tế cần phải có hiệu lực theo luật quốc tế để bảo để bảo đảm tính hợp pháp, bao gồm những điều ước quốc tế về việc chuyển nhượng, điều này đồng nghĩa với việc các điều ước này không thuộc những trường hợp bị vô hiệu hoá trong công ước.[9]


Ngoài ra, chuyển nhượng khác với việc cho thuê lãnh thổ hay còn được hiểu là chuyển nhượng quyền hành chính (administrative cession) của một lãnh thổ.[10] Điển hình của việc chuyển nhượng quyền hành chính là trường hợp Trung Quốc cho Anh thuê toàn bộ Hồng Kông hiện nay theo Hiệp ước về Mở rộng Lãnh thổ Hồng Kông năm 1898 trong vòng 99 năm kể từ ngày 01/07/1898. Trong Tuyên bố chung Anh-Trung về Vấn đề Hồng Kông ngày 19/12/1984, các bên công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hồng Kông và lên tiến trình bàn giao khôi phục việc thực thi chủ quyền của Trung Quốc tại Hồng Kông.[11] Trong khi đó, các hiệp ước chuyển nhượng thường sẽ nêu rõ quốc gia gia này chuyển chủ quyền lãnh thổ sang quốc gia khác. Ví dụ, ngay tại Điều 1 hiệp ước chuyển nhượng tài sản của Nga ở Bắc Mỹ, hiệp ước đã ghi nhận sự đồng ý thành văn của Sa hoàng Nga về chuyển nhượng tài sản ở Bắc Mỹ cho Mỹ:


“Sa hoàng Nga đồng ý nhượng cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ toàn bộ lãnh thổ và quyền thống trị hiện đang có theo hiệp ước này, ngay sau khi trao đổi các văn kiện phê chuẩn.”[12]


Lịch sử thế giới cũng ghi nhận nhiều trường hợp chuyển nhượng lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau thông qua mua bán như Hoa Kỳ mua lại Louisiana từ Pháp,[13]  Anh và Đức đã trao đổi hai vùng Heligoland và Zanzibar.[14] Ngày nay, do tính chất nhạy cảm của chủ quyền lãnh thổ và phản ứng của dư luận, việc chuyển nhượng giữa các quốc gia trở nên hiếm hoi và chủ yếu tại các vùng cận biên liên quan đến thiết lập biên giới như Hoa Kỳ nhượng lại quần đảo Swans cho Honduras năm 1971.[15]


Tóm lại, chuyển nhượng là một phương thức thụ đắc mang tính chất hòa bình, dựa trên sự đồng thuận của các quốc gia có chủ quyền, thông qua một hoặc nhiều điều ước quốc tế và tuân thủ luật pháp quốc tế nói chung mặc dù trước Công ước viên 1969, còn tồn tại trường hợp đe doạ sử dụng vũ trang hoặc sử dụng vũ trang để cưỡng ép chuyển nhượng. Thực tiễn quốc tế cho thấy, việc chuyển nhượng không chỉ dừng lại ở chuyển giao chủ quyền, mà còn bao gồm các hình thức chuyển giao quyền hành chính có giới hạn về thời gian, như trường hợp Hồng Kông nói trên. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, do tính nhạy cảm về vấn đề chủ quyền nên các trường hợp chuyển nhượng ngày càng trở nên hiếm hoi, nếu có thì chủ yếu xảy ra ở khu vực biên giới nhằm giải quyết tranh chấp hoặc hoàn thiện đường biên.

 

2. Thụ đắc lãnh thổ bằng hình thức chiếm hữu (Occupation)

Một trong những phương thức thụ đắc lãnh thổ lâu đời trong lịch sử luật quốc tế là chiếm hữu (occupation),[16] xuất phát từ khái niệm occupatio từ thời La Mã cổ đại. Khái niệm này vốn không đề cập trực tiếp về thụ đắc đất đai, lãnh thổ mà liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật bị từ bỏ quyền sở hữu hoặc vật của người khác đánh mất nhưng bản thân đã sử dụng trong khoảng thời gian lâu dài, hợp lý.[17] Chiếm hữu là cách thức pháp lý hoà bình xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ vô chủ, không thuộc về bất kỳ một ai tại thời điểm thụ đắc (terra nullius).[18]


Lãnh thổ vô chủ là điều kiện cơ bản cho phép quốc gia xác lập chủ quyền bằng phương thức thụ đắc chiếm hữu.[19] Lãnh thổ vô chủ hay lãnh thổ không thuộc về một ai tại thời điểm thụ đắc có thể là các vùng lãnh thổ và đảo không có người sinh sống,[20] hoặc một số trường hợp khác như quốc gia trước đó từ bỏ chủ quyền.[21] Trước đây, một số học giả phương Tây cho rằng lãnh thổ có cư dân bản địa sinh sống nhưng không được quản lý bởi một nhà nước vẫn có thể được coi là terra nullius,[22] quan điểm này sau đó bị bác bỏ bởi tòa ICJ trong Ý kiến tư vấn trong Vụ Tây Sahara.[23] Nhận định của Tòa rằng “Mặc dù các luật gia có những ý kiến khác nhau, thực tiễn chung trong thời điểm đó không công nhận những lãnh thổ có sự sinh sống của bộ tộc hoặc nhóm người có một tổ chức chính trị - xã hội là terra nullius”,[24] đã phản ánh việc cần có những đòi hỏi chặt chẽ hơn để xác minh lãnh thổ vô chủ. Trên thực tế, thế giới hiện nay gần như không có khu vực nào đủ “trống”[25] hay nằm ngoài chủ quyền một quốc gia nhất định[26] để được công nhận là terra nullius. Biển cả nằm ngoài phạm vi của phương thức này do là res communis (dành cho tất cả các quốc gia).[27] Đối với trường hợp lãnh thổ đã từng thuộc chủ quyền của một quốc gia nhưng sau đó bị từ bỏ, cần xét đến hai yếu tố: (i) không có những hành động thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó và (ii) ý định từ bỏ chủ quyền của quốc gia trước đó.[28]


Nhằm xác lập chủ quyền lãnh thổ, các quốc gia từng sử dụng cách thức phát hiện hay khám phá (discovery).[29] Nhìn lại lịch sử, cùng với sự phát triển của ngành hàng hải từ thế kỷ XII, các quốc gia Châu Âu đã đặt chân đến những vùng đất mới nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ. Khoảng giữa thế kỷ XV đến XVI, các quốc gia có thể thiết lập chủ quyền trên lãnh thổ vô chủ được quốc gia đó phát hiện. Điển hình, Hiệp ước Tordesillas giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1494 đã pháp điển hoá sắc lệnh của Giáo hoàng Alexander VI, cho phép Bồ Đào Nha lập chủ quyền đối với các đảo và đất liền tìm thấy và sẽ tìm thấy ở phía Đông của một đường cách đường nối từ Cực Nam với Cực Bắc thông qua phía Tây đảo Cape Verde 370, các vùng lãnh thổ ở phía Tây đường này thuộc về Tây Ban Nha.[30] Tuy nhiên theo thời gian, cách thức này bộc lộ nhiều hạn chế.[31] Nhiều lập luận cho rằng, cách thức này chỉ tạo ra “danh nghĩa ban đầu” (inchoate title) chứ không thể thiết lập chủ quyền,[32] luật pháp quốc tế đòi hỏi cách thức xác lập chủ quyền thực chất hơn. Thông qua việc để lại bằng chứng mang tính biểu tượng trên các vùng lãnh thổ vô chủ như cắm cờ hay ra tuyên bố quốc tế,[33] cách thức chiếm hữu tượng trưng có nhiều ưu điểm hơn cách thức phát hiện nhưng dễ dẫn đến tranh chấp do nhiều điều kiện như thông tin chưa phát triển lúc bấy giờ.[34]


Thế kỷ XIX, những điều kiện mới xuất hiện đã đặt ra yêu cầu cách thức chiếm hữu bằng phát hiện hiện cần song hành với thời gian hợp lý bởi chiếm hữu thực sự (effective occupation).[35] Hai yếu tố cần xét đến để chứng minh sự hữu hiệu của chiếm hữu (occupation) chính là sự chiếm hữu (possession) và sự quản lý hành chính (administration).[36] Nói một cách dễ hiểu, chiếm hữu hữu hiệu được thể hiện thông qua sự chiếm hữu về mặt lãnh thổ và động thái quản lý của chính quyền nhà nước.


Sự chiếm hữu (possession) ở đây bao gồm hai điều kiện: (i) chiếm hữu hữu hình (corpus), có thể được biểu hiện tùy thuộc vào đặc điểm lãnh thổ; và (ii) ý định chiếm hữu lãnh thổ (animus), thường được chứng minh thông qua những động thái chính thức thể hiện ý định xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ mới được chiếm hữu của quốc gia có yêu sách chủ quyền.[37] Phân tích về chiếm hữu thực sự, James Crawford[38] trích dẫn nhận định của tòa trong Vụ Eastern Greenland (Đan Mạch v. Na Uy): “Một yêu sách chủ quyền không dựa trên một số hành động cụ thể hay danh nghĩa chủ quyền được thiết lập dựa trên điều ước chuyển nhượng mà chỉ dựa trên việc tiếp tục thể hiện thẩm quyền, bao gồm hai yếu tố mà mỗi yếu tố phải được chứng minh là tồn tại: ý định và ý chí hành động với tư cách chủ quyền, và một số hành động thực tế hoặc sự thể hiện thẩm quyền đó.”[39] Lập luận về chiếm hữu thực sự này sau đó tiếp tục được đề cập tới trong một số vụ việc như Eritrea v. Yemen.[40] Theo đó, ý định của quốc gia trong việc thiết lập chủ quyền đối với lãnh thổ và những động thái trên thực tế là hai điều kiện tối quan trọng để quốc gia thụ đắc lãnh thổ theo cách thức chiếm hữu thực sự.


Yếu tố quản lý (administration) đòi hỏi quốc gia chiếm hữu cần có các động thái quản lý tiếp sau khi chiếm hữu lãnh thổ terra nullius để được cấu thành thành chiếm hữu thực sự.[41] Trong Định ước Berlin năm 1885, mặc dù chỉ giới hạn giữa các thành viên tham gia Hội nghị Berlin và lãnh thổ châu Phi, cũng quy định hai điều kiện công nhận tính hợp pháp của hành động chiếm hữu với các vùng lãnh thổ châu Phi là phải thông báo cho các quốc gia tham gia hội nghị và nước chiếm hữu phải duy trì sự hiện diện của nhà nước tại vùng lãnh thổ mới chiếm hữu.[42]


Mối tương quan giữa phát hiện và chiếm hữu thực sự có thể được nhìn thấy trong Vụ Đảo Palmas. Trong vụ việc này, Hoa Kỳ cho rằng theo Hiệp ước Paris năm 1898, Tây Ban Nha đã nhượng lại toàn bộ chủ quyền của Tây Ban Nha đối với đảo này dựa trên việc Tây Ban Nha đã phát hiện đảo vào thế kỷ XIV, trong khi Hà Lan khẳng định nước này đã xác lập chủ quyền thông qua việc thực thi chủ quyền trong thời gian dài.[43] Tòa trọng tài nhận định sự phát hiện chỉ tạo ra danh nghĩa ban đầu (inchoate title), không có những động thái chiếm hữu trên thực tế.[44] Danh nghĩa này chỉ được hoàn thiện đầy đủ với “việc chiếm hữu thực chất khu vực được cho là được phát hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (a reasonable period)”.[45] Như vậy Tây Ban Nha đã không thể xác lập chủ quyền đầy đủ đối với đảo Palmas, do đó không thể chuyển nhượng cho Hoa Kỳ nhiều hơn những gì Tây Ban Nha có.[46]


Như vậy, chiếm hữu từ lâu đã xuất hiện trong buổi bình minh của luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ và sau này được phát triển và hoàn thiện bởi những đòi hỏi chặt chẽ về chiếm hữu thực sự. Tuy theo thời gian, việc chứng minh tiền đề terra nullius ngày càng khó khăn và phức tạp do sự trái biệt về các học thuyết và tiến bộ công nghệ - kic thuật. Thực tiễn quốc tế cho thấy chính sự khó khăn này dẫn đến việc khó phân biệt rạch ròi giữa cách thức chiếm hữu và chiếm hữu theo thời hiệu.


3. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức chiếm hữu theo thời hiệu (Prescription)

Chiếm hữu theo thời hiệu là cách thức xác lập chủ quyền lãnh thổ dựa trên các hoạt động thực thi chủ quyền thực chất, hòa bình, liên tục trong một khoảng thời gian hợp lý.[47] Đối tượng của chiếm hữu theo thời hiệu là lãnh thổ được giành từ một quốc gia khác một cách bất hợp pháp, không phải là lãnh thổ vô chủ, hoặc những trường hợp không xác minh được tính hợp pháp của hành vi thụ đắc lãnh thổ.[48] Chiếm hữu theo thời hiệu yêu cầu bên xác lập chủ quyền phải đáp ứng quá trình thụ đắc các yếu tố thực thi chủ quyền phải thực chất, phải hoà bình, không bị các quốc gia khác phản đối[49] dẫn đến sự gián đoạn tiến trình thụ đắc.


Paul Fauchille chỉ ra bốn điều kiện để thụ đắc lãnh thổ bằng cách thức chiếm hữu theo thời hiệu trong luật quốc tế như sau: (i) việc chiếm hữu cần phải được thực thi với tư cách chủ quyền (à titre de souverain), quốc gia thụ đắc không chỉ cần thực thi chủ quyền mà còn cần không thừa nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào khác tại vùng lãnh thổ được thụ đắc; (ii) sự chiếm hữu cần hòa bình và không bị gián đoạn, hay được hiểu là yêu sách chủ quyền của một quốc gia trên vùng lãnh thổ liên quan không bị thách thức; (iii) chiếm hữu phải công khai; (iv) chiếm hữu phải liên tục (persist).[50][51] Các điều kiện trên nhận được sự đồng tình của nhiều học giả như James Crawford,[52] hay David Johnson.[53] Tòa trọng tài trong Vụ Chamizal (Hoa Kỳ v. Mexico) cũng sử dụng những điều kiện này để phủ nhận lãnh thổ El Chamizal trong vụ việc được Hoa Kỳ thụ đắc bằng cách thức chiếm hữu theo thời hiệu khi các trọng tài đồng thuận rằng không có gì chắc chắn quá trình chiếm hữu của Mỹ tại khu vực này không bị xáo trộn, gián đoạn và thách thức kể từ ngày ký thỏa thuận thành lập tòa trọng tài.[54] Mặt khác, sự chiếm hữu vật chất của công dân Hoa Kỳ và sự kiểm soát chính quyền của chính quyền địa phương và chính phủ liên bang đã luôn bị thách thức và hoài nghi thông qua các nhà ngoại giao của Mexico.[55]


Phản đối ngoại giao hay các hành động hay phát biểu khác có tính chất phản đối đối với tình trạng chiếm hữu hữu hiệu sẽ vô hiệu hóa việc chiếm hữu theo thời hiệu[56] khi gián đoạn quá trình chiếm hữu. Trong một số trường hợp, sự chấp thuận của bên đối lập cũng trở thành một yếu tố quan trọng trong đánh giá yêu sách của một quốc gia dựa trên chiếm hữu theo thời hiệu.[57] Sự chấp thuận ở đây là sự im lặng hoặc không có sự phản đối của các quốc gia trong điều kiện cần thiết phải có những động thái phản đối rõ rệt.[58] Vụ Chamizal nêu trên là một ví dụ điển hình.


Yêu cầu về “một khoảng thời gian hợp lý” không phải điều kiện mang yếu tố quyết định mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác và tình tiết vụ việc.[59] Trên thực tế, thời hiệu chỉ đóng vai trò bổ trợ chứng minh sự kiểm soát hiệu quả của một quốc gia đối với vùng lãnh thổ đó.[60]

Trong một số vụ việc cụ thể, không dễ để phân biệt cách thức thụ đắc là chiếm hữu theo thời hiệu hay chiếm hữu thực sự do sự ngặt nghèo trong việc chứng minh terra nullius, liệu có hay không vùng lãnh thổ đó thật sự là terra nullius hay từng thuộc chủ quyền một quốc gia “thứ nhất” trước khi quốc gia “thứ hai” đưa ra yêu sách chủ quyền. Chẳng hạn, trong Vụ Đảo Palmas, phán quyết trọng tài không khẳng định liệu hòn đảo có thuộc chủ quyền Tây Ban Nha[1]  trước khi Hà Lan tiến hành kiểm soát hay không.[61] Trong trường hợp từ bỏ chủ quyền lãnh thổ[62] khi cần chứng minh quốc gia ban đầu đã từ bỏ cả về lãnh thổ (corpus) và ý định chiếm hữu lãnh thổ đó (aminus).[63]


Tóm lại, cách thức chiếm hữu theo thời hiệu là cách thức thụ đắc lãnh thổ đối với lãnh thổ không phải vô chủ (terra nullius), dựa trên chiếm hữu thực sự, hòa bình, liên tục trong một khoảng thời gian hợp lý.


4. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức bồi tụ (Accretion)

Bồi tụ (Accretion) là phương thức thụ đắc lãnh thổ thông qua các hiện tượng tự nhiên như bồi đắp phù sa, chuyển dòng chậm rãi của sông, hoạt động núi lửa hoặc do quá trình kiến tạo đất liền làm phát sinh phần lãnh thổ gắn liền với lãnh thổ hiện hữu của một quốc gia.[64] Theo đó, quốc gia có quyền xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mới hình thành này với điều kiện quá trình bồi tụ phải diễn ra một cách khách quan, tự nhiên và từ từ, và không làm phát sinh tranh chấp từ các quốc gia lân cận.[65] Một ví dụ điển hình về việc công nhận lãnh thổ mới do hoạt động của núi lửa là sự công nhận một hòn đảo mới nổi lên trong vùng biển lãnh hải của đảo Iwo Jima thuộc Nhật Bản năm 1986, sự kiện này đã được chính phủ Anh công nhận ngay lập tức là một phần lãnh thổ của Nhật Bản mà không cần các hành động chiếm hữu chính thức nào.[66]


Trái ngược với bồi tụ (accretion), thuật ngữ xói mòn hay chuyển dịch đột ngột (avulsion) cũng thường được đề cập đến khi nói về cách thức thụ đắc lãnh thổ này, đặc biệt là các dòng sông biên giới.[67] Sự chuyển dịch tự nhiên của dòng sông, qua thời gian có thể làm thay đổi đường biên giới đã vạch ra trước đó, và đặt ra câu hỏi đường biên giới giữa hai quốc gia có dịch chuyển theo dòng chảy mới không? Câu trả lời phụ thuộc vào cách thức dịch chuyển của dòng sông. Trường hợp dòng sông thay đổi một cách đột ngột, mạnh mẽ và đáng kể (avulsion) thì sẽ không được xem là thay đổi đường biên giới; nói cách khác, đường biên giới sông lúc này không được tính theo dòng nước mà theo phần đất bên dưới.[68] Ngược lại, trường hợp thay đổi của dòng sông là sự tích lũy trầm tích và không dễ nhận thấy, có thể dẫn đến việc mở rộng chủ quyền của quốc gia ven sông.[69] Tính chất từ từ của quá trình bồi tụ dẫn đến sự giả định về chiếm hữu của quốc gia ven sông và sự mặc nhiên chấp nhận của các quốc gia khác; do đó biên giới lúc này được xem là chuyển dịch với sự thay đổi dòng sông.[70] Điều này cũng được áp dụng đối với các hồ biên giới.[71]


Ví dụ trong vụ Nebraska v. lowa, 143 U.S. 359 (1892), Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã xác định biên giới giữa hai bang là dòng sông Missouri vốn có sự thay đổi dòng chảy theo thời gian và là thay đổi đột ngột (avulsion), do đó ranh giới giữa bang Nebraska và bang lowa vẫn được giữ nguyên tại dòng chảy cũ.[72] Tương tự, vụ Chamizal (Mexico v. Hoa Kỳ) là một ví dụ điển hình cho quá trình bồi tụ liên quan đến sự dịch chuyển dòng chảy tự nhiên của sông Rio Grande. Theo đó, phán quyết trọng tài đã xác định rằng những thay đổi ở Rio Grande trong khoảng thời gian từ năm 1852 đến năm 1864 là kết quả của quá trình xói mòn dần dần và lắng đọng phù sa, trong khi vào năm 1864 là sự thay đổi đột ngột.[73] Do đó đường biên giới sông được giữ nguyên tại trung tâm dòng sông như đã được xác định vào thời điểm trước trận lũ năm 1864, ngược lại sự thay đổi đột ngột trong trận lũ năm 1864 không được xem là cơ sở hợp pháp cho việc thay đổi biên giới.[74] Như vậy phần diện tích đất hình thành trước năm 1864 được xác định là kết quả của quá trình bồi tụ tự nhiên và dần dần, nên được xem là thụ đắc hợp pháp theo nguyên tắc bồi tụ.


Tóm lại, trong thực tiễn quốc tế, bồi tụ vừa là kết quả của các quá trình tự nhiên, vừa là cơ sở để quốc gia ven biên xác lập và mở rộng chủ quyền một cách hòa bình. Khác với sự thay đổi đột ngột (avulsion), quá trình bồi tụ chậm rãi, khách quan và liên tục thường dẫn đến sự mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của quốc gia ven sông hoặc vùng lãnh thổ tiếp giáp. Các phán quyết quốc tế như vụ Nebraska v. Iowa hay Chamizal được nhắc đến ở trên đã làm rõ sự phân biệt giữa hai khái niệm này và khẳng định nguyên tắc: sự dịch chuyển lãnh thổ do bồi tụ có thể làm thay đổi đường biên giới, với điều kiện không có tranh chấp và được các bên mặc nhiên chấp nhận.


5. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức sử dụng vũ lực/xâm lược

Phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng xâm lược là một khái niệm từng tồn tại trong luật quốc tế, khi các quốc gia sử dụng vũ lực để chiếm đóng và sáp nhập lãnh thổ của một quốc gia khác.[75] Về mặt lịch sử, xâm lược từng được coi là một phương thức hợp pháp để thụ đắc lãnh thổ. Bởi trước thế kỷ XX, luật pháp quốc tế không phân biệt nguyên nhân chính đáng và không chính đáng của các hành vi xâm lược, cũng như không cấm việc sử dụng vũ lực để mở rộng lãnh thổ; do đó, việc chiếm đoạt lãnh thổ bởi các hành vi xâm lược không bị xem là injuria (hành vi sai trái).[76] Điều này có thể thấy qua lịch sử mở rộng quyền lực của Anh ở Ấn Độ; của chủ quyền Hà Lan tại Đông Ấn; của quyền lực đế quốc Nga ở Bắc và Trung Á; và của sự cai trị của Pháp ở Đông Dương.[77]


Tuy nhiên, sự phát triển của luật quốc tế đã nghiêm cấm hành vi xâm lược và coi việc thụ đắc lãnh thổ do sử dụng vũ lực là bất hợp pháp.[78] Quá trình phát triển của nguyên tắc này bắt đầu từ sau Thế chiến I với sự ra đời của Hiệp ước Thành lập Hội Quốc Liên (1919). Trong đó Điều 10 của Hiệp ước nêu rõ:


Các thành viên của Liên minh cam kết tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị hiện có của tất cả các thành viên của Liên minh trước sự xâm lược từ bên ngoài.”[79]


Hiệu quả của điều khoản này là cấm tuyệt đối việc chiếm hữu lãnh thổ bằng vũ lực và buộc thành viên của Hiệp ước phải cam kết ngăn chặn mọi hành vi xâm lược khi chúng xảy ra.[80] Tuy nhiên Hiệp ước năm 1919 không hoàn toàn coi tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược trở thành bất hợp pháp, do các điều khoản chủ yếu nhằm ngăn chặn chiến tranh bằng cách khuyến khích quốc gia giải quyết tranh chấp bằng các phương thức hòa bình.[81]


Tiếp sau Hiệp ước năm 1919, Hiệp ước Kelogg-Briand năm 1928 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc pháp điển hóa nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, khi hầu hết các cường quốc trên thế giới đều bỏ quyền sử dụng chiến tranh như một công cụ của chính sách quốc gia.[82] Tuy nhiên, chiến tranh vẫn được coi là hợp pháp trong trường hợp tự vệ - một ngoại lệ không được nêu rõ trong văn bản của Hiệp ước nhưng đã được ngầm hiểu trong các cuộc trao đổi ngoại giao trước kí kết.[83] Theo các học giả như McMahon và Brownlie phân tích, việc các quốc gia khác tham gia vào “chiến tranh trừng phạt” để khôi phục hòa bình, có thể đẫn đến sự thay đổi lãnh thổ và được cộng đồng quốc tế công nhận nếu thấy đây là biện pháp cần thiết để ngăn chặn sự tái phát xâm lược trong tương lai.[84] Do đó, Hiệp ước Kelogg-Briand chỉ tăng cường hạn chế đối với hành vi mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực, mà không loại bỏ hoàn toàn khả năng thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức này, đặc biệt khi đi kèm với vấn đề trừng phạt kẻ xâm lược và duy trì an ninh tập thể.[85]


Với sự phát triển của luật pháp quốc tế sau Thế chiến II, sự ra đời của Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định rõ ràng và dứt khoát Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực nhằm mở rộng lãnh thổ. Cụ thể Điều 2(4) của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định tất cả các quốc gia thành viên phải từ bỏ đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực nhằm chống lại toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào.[86] Tương tự, Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhấn mạnh “sự không thể chấp nhận của việc chiếm lãnh thổ bằng chiến tranh”.[87] Và Tuyên bố Các Nguyên tắc Pháp lý Quốc tế năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng quy định: “Lãnh thổ của một quốc gia sẽ không phải là đối tượng của việc chiếm đoạt bởi một quốc gia khác thông qua đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Không có sự chiếm đoạt lãnh thổ nào từ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực sẽ được công nhận là hợp pháp”.[88]


Sau năm 1945, Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực không chỉ được quy định trong các văn kiện pháp lý mà còn được được củng cố trong thực tiễn thông qua phản ứng của cộng đồng quốc tế và được công nhận là một quy phạm tập quán quốc tế trong phán quyết kinh điển Vụ Nicaragua v. Mỹ năm 1986.[89] Bên cạnh đó, Nguyên tắc trên liên tục được khẳng định thông qua các trường hợp cụ thể khi một số quốc gia tìm cách chiếm đóng lãnh thổ bằng vũ lực, song đều không được cộng đồng quốc tế công nhận.[90] Một ví dụ điển hình của việc bác bỏ hành vi sử dụng vũ lực là trường hợp Iraq xâm lược Kuwait năm 1990. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã nhanh chóng lên án hành vi xâm lược và quyết định rằng việc Iraq tuyên bố sáp nhập Kuwait “dưới bất kỳ hình thức nào và với bất kỳ lý do nào đều không có giá trị pháp lý và bị coi là vô hiệu”.[91] Sự kiện này đã tái khẳng định rằng việc chiếm lãnh thổ bằng vũ lực là bất hợp pháp và không thể tạo ra quyền thụ đắc lãnh thổ theo luật quốc tế hiện nay.


Như vậy, mặc dù trong lịch sử, xâm lược từng được coi là phương thức hợp pháp để thụ đắc lãnh thổ, song sự phát triển của luật pháp quốc tế hiện đại đã từng bước xóa bỏ tính chính danh của phương thức này. Từ Hiệp ước thành lập Hội Quốc Liên năm 1919, Hiệp ước Kellogg-Briand năm 1928, đến Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 và các văn kiện tiếp theo, nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực nhằm mở rộng lãnh thổ đã được xác lập một cách rõ ràng, dứt khoát, và được củng cố bằng thực tiễn pháp lý quốc tế. Việc thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực không chỉ bị lên án về mặt pháp lý mà còn không được cộng đồng quốc tế công nhận trong mọi hình thức. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, cũng như bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong thời đại hiện nay.

 

Kết luận: Trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ vẫn đang diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới, việc hiểu rõ các phương thức thụ đắc lãnh thổ mang ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ chủ quyền, cũng như thúc đẩy giải quyết tranh chấp một cách hòa bình trên nền tảng pháp lý vững chắc. Trên cơ sở đó, bài viết đã tập trung phân tích năm phương thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản trong luật quốc tế: chuyển nhượng, chiếm hữu, chiếm hữu theo thời hiệu, bồi tụ, và xâm lược (đã không còn hợp pháp). Mỗi phương thức được làm rõ thông qua cơ sở pháp lý, điều kiện áp dụng, cũng như các ví dụ minh họa từ án lệ và thực tiễn quốc tế, như  Vụ Đảo Palmas hay Vụ Chamizal. Qua đó, bài viết giúp người đọc có cái nhìn hệ thống và thực tiễn về cách thức các quốc gia có thể mở rộng hoặc xác lập chủ quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế, phù hợp với sự phát triển của luật pháp quốc tế hiện đại.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Robert Jennings and Arthur Watts (biên tập), Oppenheim’s International Law, vol 1 (9th edn, Longman 1992) p. 677. Xem thêm James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, OUP 2012), p.221.

[2] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008) p.495. Xem thêm O’Connell, Law, p. 405

[3] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, OUP 2012), p.221-222.

[4] [5] [6] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 499.

[7] [46] Island of Palmas (1928) 2 RIAA, p. 829 (1928); 4 AD, p.103.

[8] Ida Robinson Smith Putnam (USA) v United Mexican States 4 RIAA, p.158 (1925); 3 AD, p. 336

[9] Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, Điều 43 - 53.

[10] Oliver Dörr, ‘Cession’ (Oxford Public International Law, August 2019), <https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e1377?prd=MPIL> truy cập ngày 11/05/2025.

[11] Joint declaration of the government of the United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland and The Government of The People's Republic of China on the question of Hongkong 1984, Điều 3(1).

[12] Hiệp định về Chuyển nhượng của Nga hoàng các tài sản của Nga tại Bắc Mỹ cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Điều 1, <http://avalon.law.yale.edu/19th_century/treatywi.asp> truy cập ngày 13/05/2025.

[13] Louisiana Purchase Treaty, 1803.

[14] Anglo - German Treaty, 1890.

[15] Surya Prakash Sharma, Territorial Acquisition, Disputes, and International Law (Martinus Nijhoff Publishers, 1997), p.62.

[16] [21] [22] Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p.148.

[17] Randall Lesaffer, ‘Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription’, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.40, <http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf> truy cập ngày 10/05/2025.

[18] Western Sahara, Advisory opinion 1975, p.38-39, para. 79 - 83.

[19] [39] Legal Status of Eastern Greenland, Judgement, P.C.I.J. 1933 (Series A/B, No. 53).

[20] [27] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p.503.

[23] James Crawford, The Creation of States in International Law (2nd ed., Oxford University Press, 2006), p.259.

[24] Western Sahara, Advisory opinion 1975 p.38-39, para. 80.

[25] “In the modern context, it has fallen into disuse. This is because there remains on the surface of the earth no truly ‘vacant’ territory” trích từ James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, Oxford University Press 2012) p.220.

[26] [28] [32] Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p.148 - 150.

[29] Surya Prakash Sharma, Territorial Acquisition, Disputes, and International Law (Martinus Nijhoff Publishers, 1997), p.40 - 46.

[30] Phạm Lan Dung (Chủ biên), Giáo trình Công pháp Quốc tế, (Nhà xuất bản Thanh niên 2024), tr. 200.

[31] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, Oxford University Press 2012) p.223.

[33] [48] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 504.

[34] Phạm Lan Dung (Chủ biên), Giáo trình Công pháp Quốc tế, (Nhà xuất bản Thanh niên 2024), tr. 200. Xem thêm Trần Thị Thuỳ Dương, Nguyễn Thị Yên (Chủ biên), Giáo trình công pháp quốc tế, quyển 1 (Nhà xuất bản Công an nhân dân), tr. 247.

[35] Island of Palmas (1928) 2 RIAA, p. 829, 846; 4 AD, p. 103, 108.

[36] [37] [41] Robert Jennings and Arthur Watts, Oppenheim’s International Law (Oxford University Press, 1996), p. 688 - 689.

[38] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, Oxford University Press 2012), p.222.

[40] Eritrea v. Yemen (1998) 114 ILR 1, p.69.

[42] General Act of the Berlin Conference on West Africa 1885, Article 34, 35.

[43] Island of Palmas (1928) 2 RIAA.

[44] [45] Island of Palmas (1928) 2 RIAA, p. 846.

[47] I.A. Shearer (ed.), Starke’s International Law (11th ed., 1994), at 153.

[49] Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p. 150 - 154.

[50] Paul Fauchille, Traité de droit international public (8th ed., 1925), p. 760-761.

[51] Fauchille rút những điều kiện này từ Bộ luật Dân sự Pháp. Trích từ Randall Lesaffer, “Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription”, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.40. Retrieved from <http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf> truy cập ngày 10/05/2025.

[52] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th ed., Oxford University Press 2012) p.231.

[53] David Johnson, ‘Acquisitive Prescription in International Law’ [1950] The British Year Book of International Law, p.343.

[54] [55] Chamizal (1911) 11 RIAA 309, p.328. Xem thêm Randall Lesaffer, ‘Argument from Roman Law in Current International Law: Occupation and Acquisitive Prescription’, [2005] 16(1) The European Journal of International Law, p.51, <http://www.ejil.org/pdfs/16/1/289.pdf> truy cập ngày 13/05/2025.

[56] Trần Hữu Duy Minh, ‘Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ’ (Công pháp Quốc tế, 2024) <https://iuscogens-vie.org/2017/09/22/35/#_ftnref8> truy cập ngày 20/04/2025.

[57] I.C. MacGibbon, ‘The Scope of Acquiescence in International Law’, [1954] The British Year Book of International Law, p.154.

[58] I.C. MacGibbon, ‘The Scope of Acquiescence in International Law’, [1954] The British Year Book of International Law, p.143 - 186.

[61] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, Oxford University Press 2012) p.230. Peter Malanckzuk, Akehurst’s Modern Introduction to International Law (7th ed., Routledge, 1997), p. 150.

[59] [60] [62] Malcolm N. Shaw, International Law (6th ed., Cambridge University Press, 2008), p. 504 - 507.

[63] Charles L O Buderi, Luciana T Ricart, ‘Modes of Acquisition and Effective Control of Territory’ [2018] The Iran-UAE Gulf Islands Dispute, p.158.

[64] [65] [67] Malcolm N. Shaw, International Law (6th edn, Cambridge University Press 2008)​ p.498.

[66] Geoffrey Marston, ‘United Kingdom Materials on International Law 1986’ (1986) 57 British Yearbook of International Law 487, 563.​ Trích từ James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, Oxford University Press 2012) 240.

[68] [69] [70] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, Oxford University Press 2012) 240-241.

[71] “Đối với các hồ biên giới, nguyên tắc được áp dụng là đường trung tuyến (median line), nhưng như thường lệ, các thỏa thuận rõ ràng hoặc sự mặc nhiên chấp nhận cũng có thể dẫn đến những cách phân chia khác.” Trích từ James Crawford, (8th edn, Oxford University Press 2012) p.240-241.

[72]  Nebraska v. Iowa, 143 U.S. 359 (1892).

[73] [74]  Chamizal (1911) 11 RIAA 309, p.316. Đọc thêm tại Ram Prakash Anand, “Accretion” trong Rüdiger Wolfrum, Anne Peters (biên tập), The Max Planck Encyclopedias of Public International Law (Oxford University Press 2006).

[75]  Malcolm N. Shaw, International Law (6th edn, Cambridge University Press 2008), p.​ 500 - 501.

[76] [77] Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice (Oxford University Press 1996), p.12, p.64.

[78] James Crawford, Brownlie’s Principles of Public International Law (8th edn, Oxford University Press 2012) 243.

[79]  Covenant of the League of Nations (1919), Điều 10.

[80] [81] [83]  Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice (Oxford University Press 1996), p.180-193.

[84] Ibid, p. 193-198.

[85] Ibid, p. 197-199.

[86]  Hiến chương Liên Hợp Quốc 1 UNTS XVI, Điều 2(4).

[87]  Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (ngày 22/11/1967) UN Doc S/RES/242.

[88] Tuyên bố về Các Nguyên tắc Pháp lý Quốc tế liên quan đến Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác giữa Các Quốc gia UNGA Res 2625 (XXV) (1970). Xem thêm Điều 5(3) của Định nghĩa đồng thuận về xâm lược được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1974. Xem thêm Malcolm N. Shaw, International Law (6th edn, Cambridge University Press 2008)​ 502. 

[89] Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua v. United States of America). Merits, Judgment. I.C.J. Reports 1986, p. 14

[90]  Xem Vụ Israel sáp nhập Đông Jerusalem (1967) và Cao nguyên Golan (1981). Xem thêm trong Vụ chiến tranh Falklands (1982); Trường hợp Ấn Độ sáp nhập Goa (1961), Indonesia sáp nhập Đông Timor (1976).

[91] Nghị quyết 662 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc UN Doc S/RES/662 (1990). Xem thêm Sharon Korman, The Right of Conquest: The Acquisition of Territory by Force in International Law and Practice (Oxford University Press 1996), p. 292-301.


Bình luận


bottom of page