top of page
icj 1.jpeg

[62] KHOẢNG TRỐNG PHÁP LÝ VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ CỦA AI TRÊN THẾ GIỚI. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM

  • Đặng Thị Vân Anh, Hồ Hằng Lê, Nguyễn Thị Mai Phương
  • 3 thg 8
  • 24 phút đọc

Bài viết này được đăng tại Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cho Sinh viên về Luật quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Trí tuệ Nhân tạo (AI) và những vấn đề pháp lý" của Khoa Luật Quốc tế - Học viện Ngoại giao năm 2024.


Tác giả: Đặng Thị Vân Anh, Hồ Hằng Lê, Nguyễn Thị Mai Phương[1]


Tóm tắt: Trong thế kỷ 21, Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) đang phát triển nhanh chóng và ngày càng trở thành một phần không thể thiếu trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống. Trong cuốn “Lược sử tương lai” của sử gia Israel Yuval Noah Harari đã đề cập đến việc AI sẽ giải quyết hầu hết vấn đề mà con người vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Khi nhìn về tương lai, AI dường như đem đến nguồn tiềm năng vô hạn, hứa hẹn những tiến bộ chưa từng có về công nghệ và giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ AI trong những năm gần đây đã thách thức sự hiểu biết của chúng ta về sở hữu trí tuệ (SHTT) và tạo ra một bối cảnh pháp lý phức tạp với ý nghĩa sâu rộng đối với quyền sở hữu công nghiệp (SHCN). Bài nghiên cứu nhằm mục đích khám phá sự giao thoa giữa quyền SHCN với sáng chế và AI trên kinh nghiệm quốc tế và thực trạng tại Việt Nam, xem xét các quy định pháp lý và các vụ kiện liên quan, từ đó tìm ra và nhìn nhận khoảng trống pháp lý đối với AI để làm rõ nhu cầu cần xây dựng một hệ thống pháp luật bảo hộ, đồng thời rút ra phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam.


Từ khóa: Trí tuệ nhân tạo; Sở hữu trí tuệ; Sở hữu công nghiệp; Sáng chế; Pháp luật.


1. Khái niệm về Trí tuệ nhân tạo và quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế

1.1.  Trí tuệ nhân tạo (AI)

Hiện nay, định nghĩa thường được sử dụng về AI là một lĩnh vực khoa học máy tính nghiên cứu cách mà máy móc có thể mô phỏng trí thông minh của con người.[2] Tuy nhiên, rất khó định nghĩa thế nào là thực thể thông minh nên cũng khó thống nhất định nghĩa AI. Hơn sáu thập kỷ phát triển và chứng kiến nhiều định nghĩa về AI, S. Russell và P. Norvig cung cấp bốn kiểu định nghĩa: tư duy như con người, hành vi như con người, tư duy hợp lý, hành vi hợp lý.[3] Các đặc điểm cơ bản của AI bao gồm:


Thứ nhất, AI là một chương trình máy tính, được lập trình và hoạt động theo một hay nhiều thuật toán khác nhau.[4] 


Thứ hai, AI có khả năng tự học, phân tích và áp dụng phù hợp với từng dạng dữ liệu.[5]


Thứ ba, AI được lập trình bởi con người. Các lập trình viên sử dụng ngôn ngữ lập trình và xây dựng những thuật toán nhằm hướng AI đến việc có khả năng tự học hỏi từ những dữ liệu đầu vào và đưa ra những hành động nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng.[6]


1.2. Quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế

Theo Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization - WIPO), định nghĩa một sáng chế là một sản phẩm hoặc quy trình cung cấp một cách mới để thực hiện điều gì đó hoặc đưa ra một giải pháp kỹ thuật mới cho một vấn đề vượt qua những giải pháp thông thường.[7] Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) Việt Nam định nghĩa rằng “sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.”[8] So với định nghĩa của WIPO, định nghĩa của Việt Nam cụ thể hơn khi nhấn mạnh đến việc ứng dụng các quy luật tự nhiên để giải quyết vấn đề, đồng thời khẳng định rằng sáng chế phải được thể hiện dưới hình thức sản phẩm hoặc quy trình kỹ thuật.


Quyền SHCN là một quyền SHTT, dùng để chỉ các loại tài sản đối với thành quả lao động sáng tạo của con người trong lĩnh vực công nghệ, kinh doanh và thương mại.[9] Khoản 2 Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ SHCN đưa ra thuật ngữ: “Đối tượng bảo hộ SHCN bao gồm sáng chế giải pháp hữu ích kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ và chúng cạnh tranh không lành mạnh”. Như vậy, quyền SHCN đối với sáng chế sẽ có một số đặc điểm chung của quyền SHTT.  


Đầu tiên, đối tượng là sản phẩm sáng tạo trí tuệ của con người, không được trùng hay tương tự với những gì đã được bảo hộ.[10]


Thứ hai, là quyền đối với tài sản vô hình, đó là quyền sở hữu đối với thông tin, tri thức, khoa học, kỹ thuật, công nghệ do con người tạo ra.[11]


Thứ ba, phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền cấp quyền bảo hộ trừ trường hợp ngoại lệ và phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật quy định.[12] 


Thứ tư, tạo ra cho chủ thể quyền độc quyền khai thác sử dụng đối tượng SHCN và quyền ngăn cản người khác sử dụng đối tượng đó.[13] 


Thứ năm, mang tính tạm thời và tính lãnh thổ. Quyền SHCN được bảo hộ có thời hạn, thông thường với sáng chế là 20 năm.[14] Về không gian, luật quốc gia chỉ có hiệu lực trong lãnh thổ quốc gia, nhưng các điều ước quốc tế song phương, đa phương thì có hiệu lực trên lãnh thổ của tất cả các quốc gia thành viên.[15]


2. Khoảng trống pháp lý về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế của AI trên thế giới

2.1. Quan điểm quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế của AI

Hiện nay, trên thế giới chưa tồn tại một quan điểm thống nhất về việc bảo vệ quyền SHCN với sáng chế do AI tạo ra. Các quốc gia và khu vực trên thế giới đang phân chia thành hai luồng ý kiến trái chiều: một bên ủng hộ việc công nhận quyền bảo hộ cho những sáng tạo của AI, trong khi bên còn lại vẫn hoài nghi và chưa chấp nhận việc trao quyền bảo vệ cho những tác phẩm này.[16]


2.1.1. Quan điểm của WIPO 

Nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống LSHTT trong thời đại công nghệ mới, WIPO đã tổ chức nhiều phiên tham vấn, thu hút sự quan tâm và đóng góp của nhiều học giả và chuyên gia trên toàn cầu. Những phiên tham vấn với các chủ đề đa dạng đã khám phá và bàn luận sâu về mối quan hệ giữa Luật SHTT và AI, nổi bật như Phiên tham vấn thứ 3 (2020) với chủ đề "Các vấn đề về sửa đổi chính sách Sở hữu trí tuệ và AI”, Phiên tham vấn thứ 8 (9/2023) "Đối thoại về GenAI và IP", và Phiên tham vấn thứ 9 (3/2024) "Đối thoại của WIPO về Sở hữu trí tuệ và công nghệ tiên phong". Mặc dù hiện tại WIPO vẫn chưa đưa ra quan điểm cụ thể nào về bảo hộ SHCN cho AI, nhưng thông qua các phiên tham vấn, WIPO đã đưa ra một số vấn đề nổi bật như: việc quy định loại công nghệ AI nào là đối tượng được bảo hộ sáng chế; cách diễn giải và áp dụng ba tiêu chí đánh giá khả năng bảo hộ sáng chế khi thẩm định công nghệ AI; có nên sửa đổi, bổ sung pháp luật sáng chế để phù hợp với đặc điểm riêng biệt của công nghệ AI.[17]


2.1.2. Quan điểm của trường phái từ chối thừa nhận quyền SHCN với sáng chế của AI

Một số quốc gia từ chối thừa nhận bảo hộ đối với tác phẩm do AI tạo ra, nguyên nhân chủ yếu liên quan đến tư cách pháp lý của AI.[18] Các khu vực pháp lý khác nhau đã áp dụng các cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề mà AI đặt ra về quyền SHCN cho sáng chế. 

Hoa Kỳ thiên về một cách tiếp cận truyền thống, nhấn mạnh sự tham gia của con người trong các quá trình sáng tạo và phát minh. Đạo luật Sáng chế Hoa Kỳ định nghĩa rằng “nhà sáng chế có nghĩa là cá nhân hoặc trong trường hợp sáng chế chung, các cá nhân cùng nhau đã phát minh hoặc phát hiện ra đối tượng sáng chế”.[19] Khi thông qua Đạo luật Sáng chế năm 1952, văn bản này đã xuất hiện một tuyên bố trước Quốc hội rằng đối tượng sáng chế bao gồm “mọi thứ dưới ánh mặt trời do con người tạo ra”.[20] Mặc dù tuyên bố không tạo ra giới hạn nào nhưng nó cung cấp cái nhìn về cách các nhà lập pháp hiểu về nhà sáng chế, đó là con người.[21] Cho đến hiện tại, Hoa Kỳ chưa có luật SHTT dành riêng cho AI, tuy nhiên đã có bước đầu trong việc tiếp cận xây dựng pháp luật quản lý qua việc ban hành sắc lệnh hành pháp về AI,[22] đặc biệt bang California tiên phong với việc thông qua dự luật Đạo luật Đổi mới an toàn và bảo mật cho các mô hình AI.[23] Những động thái ấy thể hiện nỗ lực của quốc gia trong việc quản lý AI một cách hiệu quả, cân bằng giữa phát triển công nghệ và bảo vệ quyền lợi của con người.


Cách tiếp cận của Liên minh Châu Âu (European Union - EU) cũng tương tự Hoa Kỳ, chủ thể của luật pháp phải là con người. Trong vụ “Food Container” về việc cấp bằng sáng chế cho hộp đựng thực phẩm do thực thể AI - DABUS tạo ra, Văn phòng Bằng Sáng chế châu Âu (European Patent Office - EPO) tại hội đồng phúc thẩm nhận định rằng yêu cầu đã vi phạm Điều 81 Hiệp ước Sáng chế Châu Âu (European Patent Convention - EPC). Hội đồng chỉ ra định nghĩa trong Oxford English Dictionary và Collins Dictionary of the English Language về từ “inventor”, cả hai đều định nghĩa nhà sáng chế là con người.[24] Thuật ngữ được EPC sử dụng theo nghĩa thông thường.[25] Dù vậy, EU đang có những cuộc thảo luận liên quan đến việc điều chỉnh các quy định pháp lý về SHTT để thích ứng với các sáng tạo của AI. Hiện tại, EU đã chính thức thông qua Đạo luật Trí tuệ nhân tạo Châu Âu, quy định toàn diện đầu tiên trên thế giới về AI.[26] Đây là một bước tiến quan trọng, không chỉ định hướng việc ứng dụng AI an toàn mà còn đặt nền tảng hoàn thiện các quy định SHTT cho AI nhưng vẫn đảm bảo quyền thuộc về con người. 


2.1.3. Quan điểm của trường phái thừa nhận bảo hộ quyền SHCN với sáng chế của AI

Stephen Thaler là chủ sở hữu AI - DABUS đã nộp đơn đăng ký sáng chế tại 17 khu vực pháp lý như Hoa Kỳ, EU, Vương quốc Anh và một số quốc gia khác nhưng hầu hết không được công nhận.[27] Tuy nhiên, vào tháng 7/2021 đã có một bước ngoặt mới khi Ủy ban Công ty và Sở hữu trí tuệ Nam Phi cấp bằng sáng chế cho phát minh “hộp đựng thực phẩm dựa trên hình học fractal” do DABUS tạo ra.[28] Đây là quốc gia đầu tiên công nhận AI như một nhà phát minh hợp pháp. Khác với EPO hay Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ, Văn phòng Sáng chế Nam Phi không áp dụng bất kỳ hình thức thẩm định nội dung nào đối với đơn xin cấp bằng sáng chế. Nói cách khác, các đơn xin cấp bằng sáng chế ở Nam Phi không cần kiểm tra về tính mới và tính sáng tạo mà chỉ tiến hành kiểm tra hình thức đối với các đơn sáng chế, nếu tất cả các yêu cầu về thủ tục được đáp ứng thì đơn sáng chế sẽ được thông qua.[29]


Ngay sau đó, vào ngày 30/7/2021 tại Tòa án Liên Bang Úc, Thẩm phán Jonathan Beach đã đưa ra phán quyết có lợi cho DABUS, bác bỏ quan điểm của phó ủy viên sáng chế về việc hủy bỏ đơn xin sáng chế vì không đạt yêu cầu. Khi phân tích các quy định pháp lý của Đạo luật Sáng chế của Úc và Hiệp ước Hợp tác Sáng chế, Thẩm phán Beach lưu ý rằng thuật ngữ “nhà sáng chế” không được định nghĩa trong cả hai văn bản này và ngôn ngữ liên quan đến quyền sở hữu, đơn xin cấp bằng sáng chế không rõ ràng loại trừ việc coi hệ thống AI là nhà sáng chế.[30] Tuy nhiên, DABUS không thể tự mình sở hữu các bằng sáng chế đối với những phát minh của nó, nhưng các điều khoản điều chỉnh quyền sở hữu lại hướng tới Tiến sĩ Thaler với tư cách là cá nhân có quyền trở thành người được chuyển nhượng bằng sáng chế.[31] Điều này sẽ khiến Tiến sĩ Thaler trở thành chủ sở hữu các phát minh của DABUS theo các nguyên tắc pháp lý về luật sở hữu. 

Có thể thấy rằng sự công nhận của Nam Phi và cách tiếp cận mới của Úc đã tạo ra một ngoại lệ để công nhận quyền sáng chế đối với các sản phẩm được tạo ra bởi một thực thể không phải con người.


2.2. Đánh giá khả năng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế của AI

Để có thể nhìn nhận và đưa ra giải pháp trong tương lai, trước hết cần xác định tư cách pháp lý của AI. Tuy nhiên thuật ngữ AI được định nghĩa như một lĩnh vực, do đó việc xác định tư cách pháp lý cần đặt trên: công nghệ về AI ở dạng vô hình (phần mềm, chương trình,...) và thực thể mang AI ở dạng hữu hình (robot, xe tự lái,...).

Hiện tại, trên thế giới có hai cách tiếp cận về tư cách pháp lý của AI. Thứ nhất, AI là một chủ thể của hệ thống pháp luật hiện đại, một số thực thể có gắn AI như robot có quyền như con người, tuy nhiên số lượng quốc gia theo cách tiếp cận này rất ít.[32] Năm 2017, Saudi Arabia là quốc gia đầu tiên trên thế giới thừa nhận và cấp quốc tịch cho robot Sofia dựa trên luật quốc tịch của họ.[33] Cách tiếp cận thứ hai coi AI là đối tượng riêng biệt trong pháp luật và được điều chỉnh bởi các quy định đặc thù, điều này có nghĩa là AI không được công nhận có quyền như con người.[34] AI được xem là một loại tài sản, sản phẩm; tuy nhiên, vì đặc thù về tính tự chủ, khả năng xử lý thông tin và khả năng phát triển kinh tế cao nên các quốc gia chỉ xem AI là đối tượng đặc biệt và đề ra một số quy định riêng nhằm điều chỉnh vấn đề phát sinh liên quan đến AI.[35]


Bằng sáng chế trao cho chủ sở hữu quyền ngăn cấm các hành vi sao chép hoặc sử dụng phát minh của họ mà không được phép trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời đảm bảo quyền độc quyền trong việc thương mại hóa sáng chế. Tuy nhiên khi đăng ký sáng chế, theo Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ (Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights - TRIPS) và Công ước Paris về bảo hộ SHCN, sản phẩm phải đạt điều kiện bảo hộ quyền SHCN với sáng chế, gồm các tiêu chí như tính mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Các tiêu chuẩn để xác định tính mới và tính sáng tạo gần như là “tuyệt đối” và mang tính toàn cầu.[36] Do đó, nếu một phát minh đáp ứng đủ ba điều kiện này thì theo Hiệp định TRIPS, sản phẩm có thể được cấp quyền bảo vệ sáng chế ở bất kỳ quốc gia nào trong 166 quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.[37] Câu hỏi đặt ra là liệu AI có đáp ứng được yêu cầu hay không. Một số chuyên gia cho rằng bản thân AI thiếu ý thức và tính tự chủ nên sẽ rất khó khăn trong việc sản xuất các phát minh có thể cấp bằng sáng chế một cách hiệu quả và tối ưu hơn.[38] Hơn nữa, việc công nhận AI là những nhà sáng chế độc lập đặt ra các câu hỏi phức tạp về pháp lý, trách nhiệm và đạo đức liên quan đến quyền sở hữu các phát minh AI. Tuy nhiên, trong tương lai, AI ngày càng trở nên tiên tiến và hiện đại. Xét đến khả năng của AI trong việc học hỏi, tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc đã thiết lập, xử lý khối lượng thông tin khổng lồ và biểu đạt chúng, không thể phủ nhận rằng AI có thể là một công cụ mạnh mẽ trong việc khám phá các sáng tạo mới. Cần phải thừa nhận rằng việc hạn chế công nhận vai trò của AI có thể sẽ cản trở sự tiến bộ và giới hạn những lợi ích mà các phát minh này có thể mang lại cho xã hội.[39] Xét từ góc độ lợi ích công cộng, các phát minh có sự hỗ trợ hoặc do AI tạo ra không nên bị loại trừ khỏi phạm vi quyền SHCN.


Trong tương lai, khi AI ngày càng trở nên hiện đại và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các sáng tạo mới thì vấn đề về xác định quyền sở hữu và trách nhiệm đối với những phát minh này cần có phương hướng giải quyết.


3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam

3.1. Thực trạng sử dụng AI hiện tại và trong tương lai tại Việt Nam

Tại Việt Nam, mặc dù khởi đầu muộn hơn so với các quốc gia phát triển, nhưng công nghệ AI cũng đang được ứng dụng rộng rãi và mang lại những đột phá về năng suất, chất lượng cuộc sống. Thực tế, những năm gần đây Việt Nam đã xuất hiện nhiều dự án hoạt động trong lĩnh vực AI, chủ yếu tập trung vào các khía cạnh trong cuộc sống như sáng chế, xử lý ngôn ngữ tự nhiên và các ứng dụng AI trong kinh doanh. Năm 2014, AI còn được sử dụng làm công cụ trợ lý ảo tiếng Việt với nhiều tính năng đột phá như đọc báo tự động, ngoài ra đây cũng là một trong những ứng dụng đầu tiên áp dụng công nghệ xử lý ngôn ngữ tự nhiên và nền tảng tạo chatbot/trợ lý ảo.[40] Trong lĩnh vực y tế, AI được sử dụng để trợ giúp các bác sĩ chẩn đoán bệnh tốt hơn.[41] Trong lĩnh vực ngân hàng, nhiều ngân hàng đã ứng dụng AI đã giúp xác thực thông tin, nhận diện khách hàng.[42] Hay trong lĩnh vực giáo dục, AI cũng được vận dụng trong những bài giảng, sáng tạo nội dung và thiết kế chương trình giảng dạy. Các báo cáo về tình trạng sử dụng AI cho thấy 93% người dùng AI tại Việt Nam thường xuyên bắt đầu ngày mới với AI và 88% lao động tri thức ở Việt Nam hiện đang sử dụng Generative AI[43] tại nơi làm việc.[44] Những tiến bộ về AI và tự động hóa đang tạo ra cơ hội trong tương lai cho các doanh nghiệp phát triển, giải quyết nhiều vấn đề phức tạp toàn cầu và đem lại tăng trưởng kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0.[45] Hiện nay, đã có nhiều chính sách được đưa ra để đảm bảo nguồn nhân lực AI được đào tạo chất lượng, bài bản, tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 


Trong bối cảnh công nghệ ngày càng phát triển, việc ứng dụng AI tại Việt Nam đã và đang mở ra nhiều cơ hội to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những bước tiến, thực trạng ứng dụng AI vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là các quy định pháp lý và đạo đức liên quan.


3.2. Thách thức pháp lý trong việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế do AI tạo ra tại Việt Nam.

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ AI đặt ra những thách thức đáng kể đối với khuôn khổ LSHTT Việt Nam hiện hành.


Thách thức lớn nhất đặt ra đó chính là về xác lập tư cách pháp lý của AI trong quyền SHCN đối với sáng chế. Thực tế AI không mang bản chất của con người, vậy nên khi AI trở thành chủ sở hữu đối với một sáng chế, rất nhiều câu hỏi được đặt ra như ai sẽ là chủ sở hữu của sáng chế khi AI không phải là một cá nhân hay tổ chức theo nghĩa pháp lý? Tại Việt Nam, chưa có một cách tiếp cận nào rõ ràng cho AI hay những thực thể mang AI. Luật pháp Việt Nam cụ thể tại Điều 1 Bộ luật Dân sự 2015 chỉ quy định cá nhân hoặc tổ chức là chủ thể, vì vậy không thể coi AI và các thực thể AI liên quan là chủ thể pháp lý có quyền tương đương con người. Tại Điều 86 LSHTT cũng đã quy định rất rõ về tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký sáng chế. Như vậy, để được bảo hộ quyền SHCN với sáng chế, tác giả phải là cá nhân hoặc tổ chức, ở đây được hiểu là con người. 


Thách thức về quyền SHCN đối với những sáng chế do thực thể AI tạo ra cũng là một vấn đề gây ra nhiều tranh cãi. Tại Việt Nam, LSHTT chưa có quy định pháp lý rõ ràng về vấn đề này. Như vậy, một sáng chế do AI tạo ra không rõ chủ sở hữu sẽ dẫn đến các tranh chấp về quyền sở hữu giữa các bên liên quan như nhà lập trình, nhà phát triển, người sử dụng AI. Đây là một khoảng trống pháp lý, ảnh hưởng đến sự phát triển của AI cũng như gây khó khăn trong quy trình đăng ký bảo hộ đối với sáng chế do AI tạo ra.

Ngoài ra, AI cũng đặt ra thách thức về việc chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành động của mình.[46] Các hệ thống AI thường rất phức tạp, bao gồm nhiều thuật toán, chương trình và khi được trao cho tính tự chủ thì khó có thể dự đoán cũng như kiểm soát những hành vi của AI; và khi xuất hiện những rủi ro, rất khó để có thể xác định chủ thể chịu trách nhiệm. Vậy nên Việt Nam không công nhận AI là một chủ thể của pháp luật, điều đó đặt ra khó khăn trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý.


Bên cạnh đó, vấn đề về quyền sở hữu dữ liệu và quyền riêng tư cũng đặt ra thách thức đối với khung pháp lý SHCN cho AI.[47] AI thường xuyên cập nhật dữ liệu lớn, phân tích dữ liệu sâu mà trong đó dữ liệu thu thập được có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm cả mục đích thương mại, mà người dùng không hề hay biết. Vấn đề này gây nên nhiều lo ngại khi cấp bằng sáng chế cho AI, bởi có thể sẽ vi phạm những quy định về bảo vệ quyền riêng tư, dữ liệu cá nhân được quy định trong pháp luật Việt Nam.


3.3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Trong bối cảnh Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghệ 5.0, việc hoàn thiện khung pháp luật về cấp bằng sáng chế cho AI đang trở thành một trong những vấn đề cấp thiết để đảm bảo công bằng, minh bạch và khuyến khích sáng tạo. 


Thứ nhất, từ những kinh nghiệm của các nước trên thế giới, cần thiết lập các tiêu chí chính xác và linh hoạt để đánh giá vai trò của AI như đồng phát minh hay đồng sáng tạo. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu và định nghĩa lại các quy định về quyền sáng chế. Các sửa đổi này cần làm rõ sự đóng góp của AI trong quá trình sáng tạo, đảm bảo ghi nhận vai trò của AI một cách công bằng. Hơn nữa, cần xem xét đến các sáng chế hoàn toàn do AI tạo ra, xây dựng thang đo phù hợp đối với việc xác định các tiêu chí để được cấp bằng sáng chế ví dụ như tính mới, tính sáng tạo, khả năng áp dụng công nghiệp. Đây là nền tảng để làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định cụ thể về chủ thể sở hữu quyền sáng chế đối với các phát minh của AI. Ngày 13/3/2024 vừa qua, EU chính thức thông qua đạo luật quản lý AI, đặt nền tảng pháp lý đầu tiên trên thế giới quản lý lĩnh vực công nghệ mới nổi và các hoạt động đầu tư có liên quan.[49] Đây là một tín hiệu cho thấy sự cần thiết của việc thiết lập những quy định rõ ràng về AI tại Việt Nam.


Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật SHTT cho AI là một trong những mục tiêu cần phải đặt ra. Đây là giải pháp chiến lược, có tính chất định hướng, nhằm tổ chức và chỉ đạo những bước phát triển tiếp theo của AI tại Việt Nam. Cần bổ sung hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới điều chỉnh vấn đề quyền sáng chế của sản phẩm không phải do con người tạo ra. Các quy định đó phải xác định rõ ràng chủ thể chịu trách nhiệm với các vấn đề liên quan đến AI. Ở Brazil, quốc gia này đã thúc đẩy nhanh chóng việc thiết lập một khung pháp lý dành cho AI dựa trên nền tảng những quy định lập pháp về SHTT đã được chính phủ phê duyệt từ trước.[50] Đây có thể xem là một trong những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, trong bối cảnh các nước đang tập trung hoàn thiện khung pháp lý, nước ta cũng cần nhanh chóng lấp đầy khoảng trống pháp lý về SHTT, định hình và áp dụng các chính sách linh hoạt để thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng AI trong xã hội. Dù có nhiều quan điểm ủng hộ vấn đề này vẫn chưa được thông qua, nguyên nhân chủ yếu do chúng ta chưa xác định được mục tiêu hướng tới của một đạo luật và phạm vi điều chỉnh. Công tác hoàn thiện khung pháp lý về SHTT cũng được nhà nước chỉ đạo thực hiện một cách nhất quán, xuyên suốt thông qua các quan điểm, đây được xác định là một trong những nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.[51]


Thứ ba, trước những thách thức về quyền sở hữu dữ liệu và quyền riêng tư, Việt Nam cần xây dựng cơ chế xác định trách nhiệm pháp lý rõ ràng, minh bạch và công bằng, xác định rõ những nguyên tắc chịu trách nhiệm và đảm bảo rằng công nghệ AI là “an toàn, bảo mật và đáng tin cậy”. 


Thứ tư, cần có những quy định chặt chẽ về việc thu thập, sử dụng, chia sẻ và lưu trữ dữ liệu cá nhân đối với AI. Đại hội đồng Liên Hợp quốc cũng đã thông qua những quyết định đầu tiên về AI, nhằm giải quyết những thách thức còn tồn đọng như trách nhiệm pháp lý của AI và vấn đề về quyền sở hữu dữ liệu và quyền riêng tư mà AI tạo ra. Các nghiên cứu này cho thấy rằng cần có các sáng kiến nhằm định hình và điều chỉnh sự phát triển của AI trong bối cảnh lo ngại nó có thể làm gia tăng rủi ro.


Thứ năm, cần nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng. Những nhà hoạch định chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của công chúng và giáo dục cộng đồng về AI và quyền SHCN. Các chiến dịch nhằm nâng cao nhận thức, giúp người dùng nhận thức được giá trị của quyền SHCN với sáng chế, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới không ngừng thay đổi.


Cuối cùng, cần xây dựng hành lang pháp lý hài hòa với thế giới. Khi AI và quyền SHCN vượt qua ranh giới quốc gia, điều đó đòi hỏi phải hợp tác quốc tế. Việc xây dựng luật trong nước hài hòa trên quy mô toàn cầu sẽ thúc đẩy tính nhất quán trong việc bảo vệ quyền SHCN với sáng chế. Việc hợp tác quốc tế có thể giảm thiểu sự chênh lệch trong bảo vệ quyền và tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới.


Kết luận: Nghiên cứu đã đi sâu phân tích sự giao thoa phức tạp giữa AI và quyền SHCN với sáng chế, làm sáng tỏ các thách thức và xu hướng tiềm năng trong lĩnh vực đầy biến động này. Việc xác định quyền sở hữu sáng chế của AI vẫn là một vấn đề gây tranh cãi khi đánh giá tư cách pháp lý của AI, đòi hỏi phải có sự cải cách pháp lý mạnh mẽ và thiết lập các tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Với cách tiếp cận toàn diện, nghiên cứu không chỉ tập trung làm rõ mối quan hệ giữa AI và SHCN mà còn nhấn mạnh những rào cản pháp lý và đạo đức cần giải quyết. Đồng thời, bài nghiên cứu đã đề xuất các khuyến nghị thực tiễn hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà phát triển AI và các bên liên quan nhằm thúc đẩy sự cân bằng giữa đổi mới công nghệ và bảo vệ quyền SHCN. Bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa đổi mới AI và bảo vệ quyền SHCN với sáng chế, nghiên cứu này hướng tới việc xây dựng một tương lai nơi sáng tạo, đổi mới và đạo đức cùng tồn tại hài hòa trong kỷ nguyên AI.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đặng Thị Vân Anh - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao; Hồ Hằng Lê - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao; Nguyễn Thị Mai Phương - Sinh viên Khoa Luật quốc tế - Học viện Ngoại giao.

[2] Simanta Shekhar Sarmah, ‘Concept of Artificial Intelligence, its Impact and Emerging Trends’ ( November 2019), Vol.06, International Research Journal of Engineering and Technology, p.2164, IRJET <https://www.researchgate.net/publication/337704931_Concept_of_Artificial_Intelligence_its_Impact_and_Emerging_Trends> truy cập ngày 11/11/2024.

[3] Stuart Russell, Peter Norvig,  Artificial Intelligence: A Modern Approach (3rd Global Edition, Pearson 2016.). 

[4] [5] [6] Nguyễn Thùy Dung, ‘Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’, (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, <https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/

[8]  Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi năm 2022 , khoản 12 Điều 4.

[9] World Intellectual Property Organization, ‘Understanding Industrial Property’ (2016) <https://www.wipo.int/

[10] [12] [13] [14]  Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ 1994, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 33. 

[11] Monisha Roy, ‘Intellectual property rights: An overview’ (2023) Vol 11  IJCRT <https://ijcrt.org/papers/IJCRT23A5424.pdf> truy cập ngày 18/11/2024.

[15] Vũ Mạnh Chu, ‘Quyền sở hữu trí tuệ và vai trò của quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam’ (2020) số 2 Tạp chí  Lý luận chính trị và truyền thông, Cục bản quyền tác giả <https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/uploads/file/2021/

[16]  Nguyễn Thùy Dung, ‘Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’,” (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, <https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/&doc=43560882331119138020990188062575278919&bitsid=1c196854-02a3-45d1-8eff-968d1ac30f06&uid=> truy cập ngày 18/11/2024.

[17] Văn Chiến, ‘Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) nhìn từ góc độ pháp luật sở hữu trí tuệ một số nước trên thế giới và Việt Nam’ (2024), Tạp chí điện tử pháp lý <https://phaply.net.vn/cong-nghe-tri-tue-nhan-tao-ai-nhin-tu-goc-do-phap-luat-so-huu-tri-tue-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-va-viet-nam-a256438.html> truy cập ngày 11/11/2024.

[18] Nguyễn Thùy Dung, ‘Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’,” (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, <https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/

[19] 35 U.S. Code § 100 (Definitions), United States Code, Title 35 (Patent Law).

[20] [21] Ralph D Clifford, ‘Simultaneous Copyright and Trade Secret Claims: Can the Copyright Misuse Defense Prevent Constitutional Doublethink?’ (2000) Vol 104 Dickinson Law Review 247, p.35.

[22]  Phong Du, ‘Quy định AI năm 2024: Những điểm đáng chú ý’ (2024) Bài đăng số 1277-1279 (số 5-7/2024) Tạp chí Khoa học phát triển <https://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc/quy-dinh-ai-nam-2024-nhung-diem-dang-chu-y/20240129093654668p1c160.htm> truy cập này 07/12/2024.

[23]  Bích Liên, ‘Bang California (Mỹ) thông qua luật quản lý AI’ (Thông tấn xã Việt Nam, 29/08/2024) <https://baotintuc.vn/the-gioi/bang-california-my-thong-qua-luat-quan-ly-ai-20240829131750750.htm> truy cập ngày 07/12/2024.

[24] [25]  Food Container (Thaler, Stephen L.), 21 December 2021, Legal Board of Appeal, European Patent Office.

[26] Alex D’Elia, ‘EU Passes AI Act, World's First Comprehensive AI Law, By Overwhelming Majority’ Law.com (13/03/2024). <https://www.law.com/legaltechnews/2024/03/13/european-parliament-passes-landmark-ai-act-worlds-first-comprehensive-law-regulating-artificial-intelligence-397-83402/?slreturn=20241207145333> truy cập ngày 07/12/2024.

[27] [28] Utkarsh Patil, ‘South Africa Grants A Patent With An Artificial Intelligence (AI) System As The Inventor – World's First’ (19 October 2021), Mondap, <https://www.mondaq.com/india/patent/1122790/south-africa-grants-a-patent-with-an-artificial-intelligence-ai-system-as-the-inventor--worlds-first#authors> truy cập ngày 14/11/2024.

[29] Claire Gibson, ‘Intellectual Property Law: The South African Patents Office Issues the Worlds First Patented Invention Listing AI as an Inventor’ (08/9/2021), DKVG Attorneys, <https://dkvg.co.za/intellectual-property-law-the-south-african-patents-office-issues-the-worlds-first-patented-invention-listing-ai-as-an-inventor/> truy cập ngày 9/11/2024.

[30] [31]  Thaler v Commissioner of Patents (30/7/2021), Federal Court of Australia, para 120, para 189.

[32] Author Sneha Kashyape, ‘Establishing Rights for AI – a practical solution or an unattainable dream?’ Casedo (23/07/2023) <https://www.casedo.com/insights/legal-technology/legal-personhood-granting-legal-rights-to-ai/> truy cập ngày 07/12/2024.

[33] Lâm Anh, ‘Saudi Arabia trao quyền công dân cho robot’, Báo Quân đội Nhân dân (20/10/2017) <https://www.qdnd.vn/quoc-te/doi-song/saudi-arabia-trao-quyen-cong-dan-cho-robot-522110>  truy cập ngày 10/11/2024.

[34] [35] Nguyễn Thùy Dung, ‘Bảo hộ tác phẩm từ AI- xu hướng mới tại Việt Nam trong kỷ nguyên số’,” (2021) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, <https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php?subfolder=43/56/08/

[36] [39]  Irena Mizisa, ‘Patent Rights in AI-Generated Data’ ( Master thesis, Riga Graduate School of Law 2024).

[37] World Trade Organization, Members and Observers <https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_

[38] Nick Alonso, ‘An Introduction to the Problems of AI Consciousness’ The Gradient (30/8/2023) <https://thegradient.pub/an-introduction-to-the-problems-of-ai-consciousness/> truy cập ngày 07/12/2024.

[40] ‘Chatbot AI – Trợ lý ảo đắc lực thay con người trả lời tự động hàng nghìn câu hỏi’ FPT.AI (08/01/2020) <https://fpt.ai/vi/bai-viet/chatbot-ai-tro-ly-ao-dac-luc-thay-con-nguoi-tra-loi-tu-dong-hang-nghin-cau-hoi/> truy cập ngày 12/11/2024. 

[41] [42]  Bảo Bình, Hoàng An ‘Ứng dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ AI: Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội’ (2023) số 25-2023 Tạp chí Kinh tế Việt Nam <https://vneconomy.vn/ung-dung-va-phat-trien-manh-me-cong-nghe-ai-viet-nam-dang-dung-truoc-nhieu-co-hoi.htm> truy cập ngày 12/11/2024.

[43] Generative AI hay còn được gọi là Gen AI. Là một phần của trí tuệ nhân tạo, một mô hình học sâu, giúp tạo ra nội dung hoặc dữ liệu nhân tạo mới bao gồm Hình ảnh, Video, Nhạc hoặc thậm chí là mô hình 3D mà không cần bất kỳ nỗ lực nào của con người. 

[44] Phạm Lê ‘93% người dùng AI tại Việt Nam thường xuyên bắt đầu ngày mới với AI’ (2024) Tạp chí điện tử VNMedia <https://vnmedia.vn/cong-nghe/202405/93-nguoi-dung-ai-tai-viet-nam-thuong-xuyen-bat-dau-ngay-moi-voi-ai-d8a35a5/> truy cập ngày 16/11/2024.

[45] Hồ Đắc Lộc, Huỳnh Châu Duy ‘Phát triển trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp’ (2020) Tạp chí Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam <https://vjst.vn/vn/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=2677&tieude=phat-trien-tri-tue-nhan-tao-tai-viet-nam--thuc-trang-va-giai-phap.aspx> truy cập ngày 12/11/2024.

[46] [47]  Paulius Cerka, J. Grigiene, Gintarė Sirbikytė, ‘Liability for damages caused by artificial intelligence’ (2015) Volume 31, Issue 3 p. 376-389 Published in Computer Law & Security Review, <https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S026736491500062X?via%3Dihub> truy cập ngày 13/11/2024.

[48] [49] Lê Phúc, Trần Dương, ‘Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý về AI: Kinh nghiệm của các nước và một số đề xuất cho Việt Nam’ (2024) Tạp chí điện tử Pháp lý <https://phaply.net.vn/su-can-thiet-xay-dung-khung-phap-ly-ve-ai-kinh-nghiem-cua-cac-nuoc-va-mot-so-de-xuat-cho-viet-nam-a258209.html> truy cập ngày 14/11/2024. 

[50] Phòng Pháp chế và Chính sách, ‘Hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ - góp phần đưa hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam lên chuẩn mực thế giới’ Bộ Khoa học và Công nghệ Cục sở hữu trí tuệ (Hà Nội, 26/07/2022) <https://ipvietnam.gov.vn/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/content/hoan-thien-chinh-sach-phap-luat-gop-phan-ua-he-thong-so-huu-tri-tue-cua-viet-nam-len-chuan-muc-quoc-te> truy cập ngày 15/11/2024.

[51]  Lê Phúc, Trần Dương, ‘Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý về AI: Kinh nghiệm của các nước và một số đề xuất cho Việt Nam’ (2024) Tạp chí điện tử Pháp lý. <https://phaply.net.vn/su-can-thiet-xay-dung-khung-phap-ly-ve-ai-kinh-nghiem-cua-cac-nuoc-va-mot-so-de-xuat-cho-viet-nam-a258209.html> truy cập ngày 17/11/2024. 


 
 
 

Bình luận


bottom of page