top of page
icj 1.jpeg

[58] QUYỀN ĐÁNH BẮT CÁ THEO UNCLOS VÀ THỰC TIỄN TRÊN BIỂN ĐÔNG

  • Chu Trang Anh, Nguyễn Hà Minh Thu
  • 5 ngày trước
  • 20 phút đọc

Tác giả: Chu Trang Anh, Nguyễn Hà Minh Thu 


Mở đầu

Biển Đông là một trong những khu vực có tranh chấp phức tạp nhất thế giới,[1] những mâu thuẫn trên Biển Đông đã diễn ra dai dẳng suốt nhiều thập kỷ và vẫn chưa ngã ngũ. Ngay sau khi được thông qua, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) đã trở thành khuôn khổ pháp lý chung điều chỉnh về các hoạt động trên biển và đại dương toàn diện nhất, tạo cơ sở quan trọng để các bên liên quan giải quyết những bất đồng và tranh chấp trên Biển Đông một cách hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó nổi bật là những vấn đề liên quan đến quyền đánh bắt cá.

 

Chào mừng Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (01 - 08/06) nhằm hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới (05/06) và Ngày Đại dương Thế giới (08/6), bài nghiên cứu sẽ nhìn lại chặng đường hơn ba thập kỷ UNCLOS đóng góp quan trọng và tích cực trong giải quyết tranh chấp trên Biển Đông nhằm đánh giá bước tiến và những thách thức đặt ra. Đồng thời, bài nghiên cứu dưới đây sẽ cung cấp cho người đọc tổng quan về quyền đánh bắt cá tại từng vùng biển được phân định theo quy định của UNCLOS.


Từ khóa: quyền đánh bắt cá, UNCLOS, Biển Đông.


1. Quyền đánh bắt cá theo quy định của UNCLOS

1.1. Khái niệm quyền đánh bắt cá theo UNCLOS

Đánh bắt cá là một trong hoạt động lâu đời nhất trong lịch sử sinh hoạt và lao động của con người. Nhắc đến “quyền đánh bắt cá” (fishing rights), thuật ngữ này thường đề cập đến một cá nhân hoặc một tập thể có thể thu được nguồn lợi thông qua được tiếp cận với nguồn cá hoặc sản lượng khai thác từ nguồn cá đó. [2] Trong Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) không có định nghĩa cụ thể về “quyền đánh bắt cá” mà có xu hướng nhắc chung hoạt động đánh bắt cá vào chủ quyền hoặc các quyền lợi khai thác tài nguyên của các quốc gia tại các vùng biển được phân định cụ thể trong công ước.[3] Do các vùng biển gắn chặt với nguồn lợi thủy hải sản của các quốc gia, bất kỳ thay đổi nào về ranh giới vùng biển đều sẽ ảnh hưởng đến quyền đánh bắt cá của quốc gia đó và các nước khác. Ví dụ, quyền đánh bắt cá tự do của các quốc gia ven biển có thể bị thu hẹp nếu như một quốc gia láng giềng có sự mở rộng ranh giới lãnh hải.[4]


Quyền đánh bắt cá dưới cách hiểu là quyền thuộc chủ quyền quốc gia có sự khác biệt với “quyền đánh bắt cá truyền thống” (traditional fishing rights) được quy định tại Điều 51(1) và Điều 62(3) UNCLOS.[5] Quyền này còn được biết tới là “quyền đánh bắt cá thủ công” (artisanal fishing rights)[6] hay “quyền đánh bắt cá lịch sử” (historic fishing rights)[7] được Tòa trọng tài phụ lục VII UNCLOS trong Vụ kiện Biển Đông nhắc đến trong Vụ Eritrea v. Yemen.[8] Theo đó, quyền đánh bắt cá truyền thống là quyền tư (private rights) của một cộng đồng ngư dân đánh bắt cá truyền thống, không phải quyền của một quốc gia[9] do đó không phụ thuộc vào sự thay đổi ranh giới lãnh thổ theo luật quốc tế.[10] Hoạt động đánh bắt cá thủ công truyền thống được định nghĩa là hoạt động đánh bắt cá bằng những tàu cá nhỏ và ngư cụ đơn giản, thực tiễn của hoạt động này sẽ khác nhau tùy vùng miền, phù hợp với phong tục bản địa của những ngư dân đánh bắt như một truyền thống lịch sử lâu dài.[11]


1.2. Quyền đánh bắt cá trong các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển

Nội thủy và Lãnh hải

Trong UNCLOS, các quy định về nội thuỷ và lãnh hải chỉ nhắc đến “chủ quyền” và khuyết thiếu những thuật ngữ “quyền đánh bắt cá”, “khai thác tài nguyên thuỷ hải sản” hay “khai thác tài nguyên”.[12] Câu hỏi đặt ra là liệu UNCLOS có để ngỏ quyền này trong quy chế về nội thuỷ và lãnh hải hay không? Căn cứ Điều 2 UNCLOS, quốc gia ven biển có chủ quyền tuyệt đối đối với nội thuỷ tương tự như chủ quyền trên đất liền, do đó quốc gia ven biển có toàn quyền quyết định nguồn lợi thuỷ hải sản tại nội thuỷ, đồng nghĩa với việc quốc gia ven biển có toàn quyền đánh bắt cá trên vùng biển này mà không chịu sự điều chỉnh khác của UNCLOS.[13] Trên lãnh hải, sự thừa nhận quyền qua lại vô hại là giới hạn chủ yếu đối với chủ quyền của quốc gia ven biển,[14] tuy nhiên việc qua lại không được phương hại đến hoà bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển bao gồm việc đánh bắt hải sản trên lãnh hải quốc gia đó.[15] Hiểu theo cách khác, quyền đánh bắt cá của quốc gia ven biển tại nội thuỷ và lãnh hải được UNCLOS công nhận và bảo vệ thông qua việc thừa nhận chủ quyền kể cả khi các thuật ngữ không trực tiếp đề cập đến.


Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)

Quy chế pháp lý của UNCLOS về vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) bao gồm quy định quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về thăm dò và khai thác; bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật.[16] Điều này đồng nghĩa với việc quốc gia ven biển có quyền đánh bắt cá tại EEZ song phải tuân thủ những điều kiện nhất định. Theo công ước, quốc gia ven biển được toàn quyền ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được,[17] phải tối ưu nguồn lợi tài nguyên sinh vật sống tại EEZ,[18] và xác định khả năng khai thác các tài nguyên sinh vật của mình, các quốc gia khác có thể khai thác số dư nguồn lợi đã được tính toán thông qua quy trình và thủ tục được ghi trong công ước,[19] cho phép cho các quốc gia có toàn quyền định đoạt nguồn lợi sinh vật của mình tại EEZ. Quy định này thể hiện sự quan tâm đến các quốc gia đang phát triển được nhắc đến trong Điều 69 và Điều 70.[20] Quốc gia khác khi tiến hành đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế phải tuân theo các biện pháp bảo tồn và tuân thủ các quy định phù hợp với UNCLOS được đặt ra bởi quốc gia có quyền chủ quyền đối với vùng biển đó.[21] Các quốc gia không có biển được một số quyền tham gia khai thác các nguồn lợi trên EEZ được quy định tại Điều 69, riêng các quốc gia phát triển không có biển chỉ được hưởng quyền đánh bắt các tài nguyên sinh vật theo điều này.[22]


Thềm lục địa

Điều 76 UNCLOS đề cập đến “thềm lục địa” như một khái niệm pháp lý đặc biệt được áp dụng vào vùng đáy biển nằm ngoài lãnh hải thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển.[23] Vùng thềm lục địa có tầng sinh dưỡng màu mỡ nhờ các lớp trầm tích luôn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều và sự bức xạ mặt trời, trở thành môi trường rất thuận lợi cho lượng lớn tài nguyên sinh vật biển phong phú về giống loài sinh sống và phát triển.[24] Theo Điều 77, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình và không một quốc gia nào có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thoả thuận rõ ràng với quốc gia ven biển đó.[25] Tuy nhiên cần lưu ý, tài nguyên được nhắc đến ở đây là những sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc là nằm bất động ở đáy và dưới lòng đáy, hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không thường xuyên tiếp xúc với lòng đất dưới đáy biển, có sự khác biệt với các tài nguyên sinh vật bơi trong cột nước EEZ.[26] 


Bên cạnh đó, Điều 77(3) quy định quyền của quốc gia ven biển sẽ không phụ thuộc vào việc chiếm hữu thực sự hay chiếm hữu tượng trưng hoặc bất kỳ tuyên bố chủ quyền nào khác. Đây là một tuyên bố quan trọng về bản chất của thềm lục địa, vốn thuộc về quốc gia ven biển một cách tự nhiên như đối với lãnh hải.[27] Bản chất vốn có của thềm lục địa dẫn đến tính hồi tố của học thuyết thềm lục địa, hệ quả của điều này là “vô hiệu hóa bất kỳ ưu tiên nào về thời gian hoặc yêu sách với các quyền của quốc gia ven biển; do đó, ví dụ, các học thuyết về quyền lịch sử hay chiếm hữu theo thời hiệu sẽ không có giá trị”.[28] Như vậy, quyền đánh bắt cá của quốc gia ven biển tại vùng thềm lục địa là quyền chủ quyền tự nhiên do thềm lục địa mặc nhiên thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển mà không cần quốc gia đó tuyên bố.


1.3. Quyền đánh bắt cá trong vùng biển quốc tế và các vùng biển chồng lấn

Biển cả 

Bản chất của tự do biển cả chính là không quốc gia nào có thể xác lập chủ quyền tại vùng biển này[29] và tất cả quốc gia có biển hay không có biển đều có thể tự do thực hiện các hoạt động trên biển, bao gồm quyền tự do đánh bắt cá.[30] Nên chú ý rằng, mặc dù các quốc gia có quyền tự do đánh bắt cá nhưng việc thực hiện quyền đó cần tuân thủ những điều kiện về bảo tồn môi trường và tài nguyên sinh vật được quy định tại Điều 116 - 119, chủ yếu đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia phải thực hiện các biện pháp bảo tồn và phải hợp tác với nhau để bảo tồn tài nguyên sinh vật trên biển cả để được quyền cho công dân của mình tham gia đánh bắt cá trên biển cả.[31]


Nguy cơ cạn kiệt tài nguyên sinh vật biển chính là nguyên nhân chủ chốt lý giải cho sự cần thiết phải có những điều khoản trên trong UNCLOS. Trước đây do điều kiện hạn chế, ngư dân các quốc gia chủ yếu đánh bắt tại vùng biển lân cận nơi sinh sống, giờ đây với sự tiến bộ trong công nghệ tàu thuyền, các quốc gia có thể ra khơi xa bờ đến biển cả để khai thác nguồn lợi hải sản. Một ví dụ điển hình là “Donut Hole” ở biển Bering - một vùng biển quốc tế nằm giữa EEZ của Nga và Mỹ đã bị khai thác quá mức dẫn đến hậu quả vào năm 1992, nguồn lợi cá minh thái (pollock) ở khu vực này bị thiệt hại hoàn toàn.[32] 


Các vùng biển chồng lấn

Vùng biển chồng lấn là một khu vực biển mà hai hay nhiều quốc gia đều có yêu sách hợp pháp theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển năm 1982.[33] Vùng biển chồng lấn thường xuất hiện giữa các quốc gia có bờ biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau, nhưng khoảng cách giữa bờ biển các nước này không đủ để mỗi nước xác lập chiều rộng tối đa cho các vùng biển của mình mà không chồng lấn lên nhau.[34]


UNCLOS có quy định riêng về hoạch định ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển kề hoặc đối diện nhau, trong đó nội dung hai Điều 74 và 83 quy định về EEZ và thềm lục địa về cơ bản là giống nhau.[35] Theo đó các quốc gia cần thực hiện các biện pháp được quy định tại Điều 38 Quy chế của Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) để đạt được thỏa thuận công bằng. Điều 74(3) và Điều 83(3) đặt ra hai nghĩa vụ cho các quốc gia: (i) các quốc gia cần phải nỗ lực hết sức để đạt được những thỏa thuận tạm thời có tính khả thi trong lúc chờ đợi thỏa thuận cuối cùng “trên tinh thần thấu hiểu và hợp tác”; và (ii) các quốc gia không được gây nguy hiểm hoặc phương hại đến việc đạt được thỏa thuận cuối cùng trong thời gian chuyển tiếp (transitional period).[36] Theo những quy định trên, quyền đánh bắt cá nằm trong thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan về khai thác chung. Tuy nhiên, cần phải đảm bảo các hành vi đánh bắt cá trên vùng biển chồng lấn cần đảm bảo không phương hại đến vùng biển và tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng hòa bình và nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ trang.[37]

  

2. Thực tiễn áp dụng quyền đánh bắt cá trên Biển Đông

Biển Đông giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là về mặt kinh tế và thương mại.[38] Biển Đông là một trong những ngư trường lớn nhất thế giới, chiếm trên 10% tổng sản lượng thuỷ sản khai thác toàn cầu và khoảng 23% sản lượng khai thác tại châu Á.[39] Nguồn lợi thuỷ sản dồi dào ở Biển Đông cung cấp sinh kế cho vô số ngư dân và có vai trò thiết yếu trong việc đảm bảo an ninh lương thực của các quốc gia ven biển.[40] Hoạt động đánh bắt thuỷ sản ở Biển Đông cũng vì thế mà rất được chú ý. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nguồn lợi thủy sản ở Biển Đông đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, chủ yếu liên quan đến (1) đánh bắt cá bất hợp pháp, không được báo cáo và không được kiểm soát;[41] và (2) các tranh chấp về quyền đánh bắt cá trên Biển Đông.[42]


2.1. Hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát

Hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát (Illegal, unreported and unregulated fishing hay IUU) là thuật ngữ được hợp thành bởi 3 hành vi, gồm:


Thứ nhất, đánh bắt cá bất hợp pháp (illegal fishing) là một trong những hoạt động sau: (1) do công dân hoặc tàu thuyền của quốc gia khác thực hiện trong vùng biển thuộc chủ quyền hoặc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển mà không có giấy phép hoặc được cho phép theo pháp luật của quốc gia đó; (2) do tàu thuyền mang cờ quốc gia thành viên của một tổ chức quản lý nghề cá khu vực (regional fisheries management organization hay RFMO) thực hiện nhưng không tuân thủ các biện pháp quản lý và bảo tồn mà RFMO này đã ban hành hoặc các quy định pháp luật quốc tế có liên quan mà quốc gia mang cờ có nghĩa vụ thực hiện; hoặc (3) vi phạm các quy định pháp luật quốc gia hay nghĩa vụ quốc tế, bao gồm các nghĩa vụ mà quốc gia đã cam kết trong khuôn khổ RFMO.[43]


Thứ hai, đánh bắt cá không báo cáo (unreported fishing) là một trong những hoạt động sau: (1) không thực hiện nghĩa vụ báo cáo hoặc báo cáo không đầy đủ, không chính xác cho các cơ quan có thẩm quyền, vi phạm quy định pháp luật của quốc gia liên quan; hoặc (2) thực hiện hoạt động khai thác trong khu vực thuộc phạm vi quản lý của một RFMO nhưng không tuân thủ nghĩa vụ báo cáo hoặc báo cáo sai lệch, không đúng với các quy định của RFMO đó.[44]


Thứ ba, đánh bắt cá không theo quy định (unregulated fishing) là một trong những hoạt động sau: (1) khai thác tại khu vực thuộc phạm vi quản lý của một RFMO, nhưng do tàu thuyền không có quốc tịch hoặc tàu mang cờ của quốc gia không phải là thành viên của RFMO, hoặc do tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động đánh bắt không tuân thủ các biện pháp bảo tồn và quản lý của RFMO đó; hoặc (2) khai thác tại những khu vực hoặc đối với những nguồn lợi thủy sản chưa được điều chỉnh bởi bất kỳ biện pháp bảo tồn hoặc quản lý nào, và được thực hiện theo cách thức vi phạm trách nhiệm bảo tồn tài nguyên sinh vật biển của quốc gia theo luật pháp quốc tế.[45]


IUU không phải là một vấn đề mới phát sinh. Trong báo cáo gửi Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1999, cố Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan đã tuyên bố rằng IUU là “một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất hiện đang ảnh hưởng đến ngành thủy sản thế giới”.[46] Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với sự gia tăng về nhu cầu thủy sản, sự phát triển nhanh chóng của các đội tàu cá có cường độ và năng lực khai thác cao, IUU đã trở thành một thách thức lớn đối với các quốc gia ven biển trong việc thực thi các quyền chủ quyền và quyền tài phán được pháp luật quốc tế công nhận.[47] Tàu thuyền khai thác IUU thường sử dụng các biện pháp đánh bắt tận diệt hoặc đánh bắt vượt mức cho phép, làm cạn kiệt nguồn lợi biển, từ đó làm mất sinh kế của những ngư dân hợp pháp và gây ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực của quốc gia ven biển.[48] Bên cạnh đó, việc khai thác sử dụng các ngư cụ hủy diệt, như xung điện, kích điện, hóa chất, còn góp phần làm suy giảm đa dạng sinh học và phá huỷ môi trường biển.[49]


Các quốc gia khu vực Biển Đông, bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei, đối mặt với vấn nạn IUU ở cả hai chiều. Một mặt, các quốc gia này là nạn nhân của IUU khi tàu cá nước ngoài có hành vi IUU trong vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền hay quyền tài phán của họ. Mặt khác, tàu cá của chính các quốc gia đó cũng thực hiện IUU đối với quốc gia khác.[50] Ví dụ, Philippines đã nhiều lần lên án việc tàu cá Trung Quốc xâm nhập, khai thác thuỷ sản bằng các biện pháp tận diệt ở khu vực quanh Bãi cạn Scarborough, gây thiệt hại nghiêm trọng đến môi trường biển.[51] Năm 2024, Viện Phát triển Hải ngoại (ODI) cho biết đã xác định được 77 tàu treo cờ Trung Quốc hoạt động trong EEZ của Philippines, nhiều tàu trong số này có liên quan đến hoạt động đánh bắt IUU, góp phần làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản địa phương và làm GDP của Philippines này giảm 0,02% trong giai đoạn từ giữa năm 2021 đến giữa năm 2022.[52] Mặt khác, theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Philippines nằm trong nhóm quốc gia có mức đánh bắt IUU cao nhất khu vực Đông Nam Á.[53] Tháng 9/2014, Uỷ ban châu Âu (EC) đã ra quyết định áp “thẻ vàng” đối với thủy sản Philippines, nhằm cảnh báo mức độ IUU đáng báo động.[54] Đến tháng 4/2015, “thẻ vàng” này mới được gỡ bỏ.[55] 


Tại Việt Nam, hoạt động đánh bắt IUU của tàu cá Việt Nam trước kia khá phổ biến. Điều này dẫn đến việc thuỷ sản Việt Nam đã phải chịu phạt “thẻ vàng” của EU từ năm 2017 và cho đến nay vẫn chưa được gỡ bỏ.[56] Theo đó, EU đã tăng cường việc kiểm soát nguồn gốc xuất xứ của thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang EU, làm gia tăng các chi phí thực tế, đồng thời thủy sản Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ bị trả lại nếu bị xác định là có nguồn gốc từ IUU.[57] Trong những năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực khắc phục tình trạng IUU nhằm gỡ bỏ “thẻ vàng”, bao gồm ban hành Luật Thủy sản năm 2017,[58] Nghị định số 26/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản,[59] Nghị định số 38/2024/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thuỷ sản,[60] và một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý hoạt động khai thác thủy sản trong thời gian qua cho thấy vẫn còn một số hạn chế, các tàu cá của Việt Nam vẫn có dấu hiệu đánh bắt IUU tại các vùng biển của các quốc gia khác.[61] Trước tình hình đó, cần học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia, bao gồm Philippines, và tìm ra các giải pháp giúp Việt Nam gỡ bỏ được “thẻ vàng” trong thời gian tới.  


2.2. Các tranh chấp về quyền đánh bắt cá trên Biển Đông

Các tranh chấp về quyền đánh bắt cá trên Biển Đông về cơ bản xuất phát từ các tranh chấp phức tạp về chủ quyền, về quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các thực thể địa lý và vùng biển trong khu vực Biển Đông.[62] Cốt lõi của các tranh chấp này là việc xác lập phạm vi các vùng biển được tính từ các thực thể địa lý có tranh chấp. Theo Điều 121(3) UNCLOS, chỉ các đảo đá có khả năng duy trì sự cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế riêng mới có thể có EEZ và thềm lục địa.[63] Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn duy trì yêu sách “Đường chữ U” hay “Đường chín đoạn”, bao phủ gần như toàn bộ Biển Đông, vượt xa giới hạn 200 hải lý EEZ và thềm lục địa từ đất liền.[64] Theo Tòa Trọng tài phụ lục VII UNCLOS trong Vụ kiện Biển Đông, mặc dù một phần yêu sách “Đường chữ U” nằm trong phạm vi các vùng biển theo đúng quy định của UNCLOS, phần khác lại vượt quá mọi giới hạn cho phép của UNCLOS.[65]


Một ví dụ nổi bật của tranh chấp về quyền đánh bắt cá là tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc tại một số thực thể và vùng biển trên Biển Đông. Trung Quốc tuyên bố có “quyền lịch sử” khi áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trên gần như toàn bộ Biển Đông.[66] Trong phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa trọng tài phụ lục VII UNCLOS đã bác bỏ toàn bộ yêu sách “quyền lịch sử” của Trung Quốc, khẳng định sự vô giá trị về mặt pháp lý của “Đường chữ U”, đồng thời khẳng định Trung Quốc vi phạm nghĩa vụ không cản trở quyền đánh bắt cá của ngư dân Philippines tại Bãi Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây nằm hoàn toàn trong EEZ và thềm lục địa của Philippines.[67] Tuy nhiên, Trung Quốc không tham gia tiến trình tố tụng và vẫn duy trì kiểm soát thực địa, làm phức tạp thêm việc thực thi quyền đánh bắt hợp pháp của Philippines.


Bên cạnh Philippines và Trung Quốc, các quốc gia khác trong khu vực Biển Đông cũng đang có những tuyên bố chồng lấn đối với các vùng biển trên Biển Đông. Những tranh chấp về quyền đánh bắt cá tại Biển Đông không chỉ gây tổn hại đến sinh kế của ngư dân mà còn đe dọa an ninh khu vực. Các hành vi cản trở, ngăn chặn hoặc sử dụng biện pháp cưỡng chế để loại bỏ tàu cá nước khác có khả năng vi phạm nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo Điều 279 UNCLOS.[68] Đồng thời, các hành động này cũng vi phạm nghĩa vụ bảo tồn nguồn lợi thủy sản và hợp tác quốc tế trong quản lý các loài di cư và nguồn lợi xuyên biên giới theo UNCLOS.[69]


3. Kết luận

Biển Đông có ý nghĩa quan trọng về mặt vị trí địa lý và thương mại đối với các quốc gia trong khu vực. Các quốc gia ven biển trong khu vực Biển Đông đang phải đối mặt với hai thách thức lớn, gồm các hoạt động đánh bắt IUU và các tranh chấp phức tạp về quyền đánh bắt cá. Do đó, cần tăng cường hợp tác khu vực, xây dựng các cơ chế pháp lý chung, và tuân thủ luật quốc tế để bảo vệ quyền đánh bắt cá hợp pháp, duy trì hòa bình và an ninh tại Biển Đông.


Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bạn có bất kỳ thắc mắc/ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đặng Đình Quý (Chủ biên), Tranh chấp Biển Đông: Luật pháp, (Nhà xuất bản Thế giới 2012), trang 9.

[2] Philip A. Neher, Ragnar Arnason and Nina Mollet, ‘Rights Based Fishing’ [1989], 169 Series E.Applied SciencesVol, trang 5-10. 

[3] Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), Điều 2, Điều 62, Điều 69, Điều 87, 116–119.

[4] Shigeru Oda, ‘Fisheries under the United Nations Convention on the Law of the Sea’ [1983], 77(4) The American Journal of International Law, trang 739.

[5] UNCLOS, Điều 51(1), Điều 62(3).

[6] Eritrea v. Yemen (Award of the Arbitral Tribunal in the First Stage – Territorial Sovereignty and Scope of the Dispute) [1998] 114 ILR 1; (Award of the Arbitral Tribunal in the Second Stage – Maritime Delimitation) [1999] 119 ILR 417.

[7] Sophia Kopela, ‘Historic fishing rights in the law of the sea and Brexit’, [2019], 32 Leiden Journal of International Law, p. 695–713.

[8] Vụ kiện Biển Đông (Philippines v. Trung Quốc) [2016] (Phán quyết) Tòa trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS, trang 311, Chú thích 1, đoạn 795 – 796.

[9] Ibid, đoạn 798.

[10] Ibid, đoạn 799.

[11] Ibid, đoạn 798

[12] UNCLOS, Điều 2.

[13] UNCLOS, Điều 2(3).

[14] UNCLOS, Điều 17.

[15] UNCLOS, Điều 19(2).

[16] UNCLOS, Điều 58.

[17] UNCLOS, Điều 61.

[18] UNCLOS, Điều 62(1).

[19] [20] UNCLOS, Điều 61(2).

[21] UNCLOS, Điều 61(4).

[22] UNCLOS, Điều 69.

[23] Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường, Thềm lục địa trong pháp luật quốc tế, (Nhà xuất bản thông tin và truyền thông 2012) trang 42.

[24] Ibid, trang 249.

[25] UNCLOS, Điều 77(1), 77(2).

[26] UNCLOS, Điều 77(4).

[27] UNCLOS, Điều 77(3).

[28] Donald Rothwell &, Tim Stephens, The international law of the sea, trang 113.

[29] UNCLOS, Điều 89.

[30] UNCLOS, Điều 87.

[31] UNCLOS, Điều 116 - 119.

[32] David A Balton, The Bering Sea Doughnut Hole Convention: Regional Solution, Global Implications trích từ Olav Schram Stokke (ed), Governing High Seas Fisheries: The Interplay of Global and Regional Regimes (Oxford University Press 2001) p.144–149.

[33] Trần Hữu Duy Minh, “Nghĩa vụ trong vùng biển chồng lấn thềm lục địa và đặc quyền kinh tế theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982” [2015] 5 (325) Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.

[34] Nguyễn Bá Diến, ‘Vấn đề phân định biển trong Luật biển quốc tế hiện đại’, [2007] T.XXIII, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế – Luật.

[35] UNCLOS, Điều 83.

[36] The Guyana/Suriname Arbitration Award, 30 RIAA, p. 132, para. 460 and para. 465; Virginia Commentary, vol. 2, p. 815: “khoảng thời gian sau khi tranh chấp phân định biển được thiết lập trước khi một sự phân định cuối cùng được xác lập bởi thỏa thuận hoặc phán quyết”

[37] Ibid.

[38] Cảnh sát biển Việt Nam, ‘Vai trò của Biển Đông đối với các nước có tuyên bố chủ quyền, khu vực và thế giới hiện nay’ (2017) <https://canhsatbien.vn/nghien-cuu-trao-doi/3884/87> truy cập ngày 6/6/2025.

[39] [41] [50] [62] Nguyễn Khắc Vượt, ‘Luật quốc tế về phòng, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và thực tiễn tại Biển Đông’ (Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao).

[40] Wenzhou Wu, Peng Zhang, Qi Wang, Lu Kang and Fenzhen Su, ‘Analysis of fishing intensity in the South China Sea based on automatic identification system data: A comparison between China and Vietnam’ (2022) Marine and Coastal Fisheries: Dynamics, Management, and Ecosystem Science, p. 2. 

[42] Leonardo Bernard, ‘The Right to Fish and International Law in the South China Sea’ (2016) 4(1) Journal of Political Risk, p. 2.

[43] FAO, International Plan of Action to Prevent, Deter and Eliminate Illegal, Unreported and Unregulated Fishing (FAO 2001) para 3.1.

[44] FAO, International Plan of Action to Prevent, Deter and Eliminate Illegal, Unreported and Unregulated Fishing (FAO 2001) para 3.2.

[45] FAO, International Plan of Action to Prevent, Deter and Eliminate Illegal, Unreported and Unregulated Fishing (FAO 2001) para 3.3.

[46] United Nations, ‘Oceans and the Law of the Sea: Report of the Secretary-General’ (30 September 1999) UN Doc A/54/429, p. 42.

[47] [57] Trần Hữu Duy Minh, ‘[191] Đánh bắt cá bất hợp pháp, không được báo cáo và không được kiểm soát (IUU) trong luật quốc tế và thực tiễn của một số quốc gia’ <https://iuscogens-vie.org/2020/05/27/191-danh-bat-ca-iuu-luat-quoc-te-va-thuc-tien-cua-mot-so-quoc-gia/> truy cập ngày 4/6/2025.

[48] Andrew J Temple and others, ‘Illegal, Unregulated and Unreported Fishing Impacts: A Systematic Review of Evidence and Proposed Future Agenda’ (2022) 139 Marine Policy 105033.

[49] Báo Quảng Trị, ‘Cần ngăn chặn, xử lý hành vi đánh bắt thủy sản bằng xung điện, thuốc nổ’ (2024) <https://baoquangtri.vn/can-ngan-chan-xu-ly-hanh-vi-danh-bat-thuy-san-bang-xung-dien-thuoc-no-188083.htm> truy cập ngày 4/6/2025.

[51] Reuters, ‘China says Scarborough Shoal waters 'excellent', dismisses Philippine concerns’ <https://www.reuters.com/world/china-says-scarborough-shoal-waters-excellent-dismisses-philippine-concerns-2024-07-10/> truy cập ngày 5/6/2025.

[52] China Global South, ‘A Fight for Food and Sovereignty: How the South China Sea Crisis Impacts Filipino Fishermen” truy cập ngày 5/6/2025.

[53] [55] [56] Phạm Thị Diệp Hạnh & Phùng Khánh Như, “Kinh nghiệm của Thái Lan và Philippines về gỡ “Thẻ Vàng” IUU và gợi mở cho Việt Nam’ (2025) Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (422), trang 76, 79. 

[54] Commission Decision of 10 June 2014 on notifying a Third Country that the Commission considers as possible of being identified as non-cooperating Third Countries pursuant to Council Regulation (EC) No 1005/2008 establishing a Community system to prevent, deter and eliminate illegal, unreported and unregulated fishing [2014] OJ C185/3.

[58] Luật Thủy sản 2017 số 18/2017/QH14.

[59] Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản.

[60] Nghị định số 38/2024/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản.

[61] Nguyễn Thị Hà, ‘Đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam’ (2024) Tạp chí Công thương <https://tapchicongthuong.vn/danh-bat-ca-bat-hop-phap--khong-bao-cao-va-khong-theo-quy-dinh--iuu--trong-phap-luat-quoc-te-va-phap-luat-viet-nam-116875.htm> truy cập ngày 4/6/2025.

[63] UNCLOS, Điều 121(3).

[64] [66] Trần Hữu Duy Minh, ‘[80] Phán quyết ngày 12.7.2016 trong Vụ kiện Biển Đông: Hiểu đúng một phần bản chất của Đường chữ U’ <https://iuscogens-vie.org/2018/05/27/80/> truy cập ngày 4/6/2025.

[65] Vụ kiện Biển Đông (Philippines v. Trung Quốc) [2016] (Phán quyết) Tòa trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS, đoạn 278.

[67] Trần Hữu Duy Minh, ‘[118] Vụ kiện Biển Đông: “Huyền thoại pháp lý” kiểu Trung Quốc <https://iuscogens-vie.org/2019/03/01/118/> truy cập ngày 4/6/2025.

[68] UNCLOS, Điều 279. 

[69] UNCLOS, Điều 61, 62, 63, 64.


bottom of page