top of page
icj 1.jpeg

[56] CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI (KỲ 04): TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ NGOẠI LỆ AN NINH

  • Nguyễn Quỳnh Diệp, Phạm Minh Ngọc, Đặng Quốc Dũng
  • 23 thg 5
  • 29 phút đọc

Tác giả: Nguyễn Quỳnh Diệp, Phạm Minh Ngọc, Đặng Quốc Dũng


Tóm tắt: Trong bối cảnh chiến tranh thương mại căng thẳng, việc đảm bảo thi hành các nghĩa vụ theo các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đặc biệt là Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) đang trở nên ngày càng khó khăn. Một trong những vấn đề pháp lý đáng chú ý là việc viện dẫn ngoại lệ về an ninh (security exceptions), một điều khoản cho phép các quốc gia áp dụng các biện pháp thương mại trái với các nghĩa vụ theo WTO. Tuy nhiên, việc sử dụng các ngoại lệ này trong bối cảnh chiến tranh thương mại hiện tại gây ra nhiều tranh cãi, khi các quốc gia thành viên có thể viện dẫn an ninh quốc gia nhằm áp đặt các biện pháp mang tính bảo hộ. Tiếp nối chuỗi bài về chiến tranh thương mại, bài viết này sẽ phân tích các khía cạnh của các ngoại lệ về an ninh trong GATT, đưa ra các phân tích về các công cụ pháp lý mà Hoa Kỳ sử dụng trong chiến tranh thương mại, đồng thời nhận xét về tính khả thi của việc viện dẫn các ngoại lệ về an ninh của quốc gia này.


Từ khóa: chiến tranh thương mại, công cụ pháp lý, WTO, ngoại lệ an ninh.


1. Khái quát chung về ngoại lệ an ninh trong WTO

1.1. Giới Thiệu Chung Về Ngoại Lệ An Ninh 

Đối với bất kỳ quốc gia nào, an ninh quốc gia luôn được đặt lên hàng đầu - do đó quan trọng hơn so với lợi ích kinh tế đem lại từ việc giao thương với các quốc gia khác.[1] Bởi vậy, ngoại lệ an ninh là một điều khoản thường thấy trong các hiệp định về thương mại quốc tế.[2] GATT cũng chứa đựng các quy định về ngoại lệ an ninh được thể hiện tại Điều XXI. Điều khoản này của GATT cho phép các quốc gia bảo vệ các biện pháp vi phạm của mình khi quốc gia đó cho rằng việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết thực sự ảnh hưởng tới những lợi ích an ninh thiết yếu của mình.[3] Tuy vậy, Điều XXI rất hiếm khi được các nước viện dẫn trong suốt nhiều năm.[4] Song, trong những năm gần đây, thế giới đang chứng kiến một bước chuyển ngoặt lớn trong cách tiếp cận với ngoại lệ này khi nó đang trở nên ngày càng quan trọng, sau những lần được các quốc gia viện dẫn.[5] Một trong số các vụ kiện hiếm hoi mà quốc gia thành viên, chủ yếu là bị đơn, viện dẫn thành công là vụ Nga - Giao thông quá cảnh,[6] bên cạnh một số các vụ kiện khác như vụ Hoa Kỳ - Sản phẩm thép và nhôm[7] hay vụ Ả Rập Xê-Út - IPRs.[8]


Điều XXI GATT quy định cụ thể như sau:[9]

Không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là

a)     Áp đặt với một bên ký kết nghĩa vụ phải cung cấp những thông tin mà quốc gia thành viên đó cho rằng nếu bị điểm lộ sẽ đi ngược lại lợi ích an ninh thiết yếu của mình; hoặc 

b)     Ngăn không cho bất kỳ quốc gia thành viên nào thực hiện các biện pháp mà quốc gia thành viên đó cho rằng cần thiết để bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu của mình

(i) Liên quan đến nguyên liệu phân hạch hạt nhân hoặc các nguyên liệu sản sinh ra chúng;

(ii) Liên quan đến việc mua bán vũ khí, đạn dược và các thiết bị quân sự và việc buôn bán các hàng hoá và nguyên liệu khác trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm mục đích trang bị cho quân đội;

(iii) Diễn ra trong thời gian chiến tranh hoặc các tình trạng khẩn cấp trong quan hệ quốc tế.

c)     Để ngăn cản một bên ký kết có những biện pháp thực thi các cam kết nhân danh Hiến Chương Liên hợp quốc, nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.


Theo nghĩa đen, có thể thấy rằng Điều XXI đưa ra năm trường hợp để viện dẫn ngoại lệ an ninh, bao gồm (i) trường hợp phải cung cấp thông tin mà khi điểm lộ sẽ đe dọa tới đến an ninh quốc gia, (ii) chất phóng xạ, (iii) vũ khí, đạn dược chiến tranh và các hoạt động cung ứng cho quân đội, (iv) trong thời kỳ chiến tranh và tình huống khẩn cấp trong quan hệ quốc tế, (v) cam kết nhân danh Hiến chương Liên hợp quốc. Trong đó, chỉ có duy nhất một trong số các trường hợp mà quốc gia thành viên viện dẫn ngoại lệ an ninh không mang tính chất tự đánh giá (self-judging) - đó là Điều XXI(c) yêu cầu quốc gia viện dẫn phải tuân thủ theo một tiêu chuẩn khách quan trong trường hợp các quốc gia “có những biện pháp, thực thi các cam kết nhân danh Hiến chương Liên hợp quốc, nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế”.[10] Bốn trường hợp viện dẫn còn lại đều mang tính ‘tự đánh giá’, bởi lẽ các quốc gia thành viên có quyền năng tự xem xét (which it considers) tình huống đó có ảnh hưởng tới các lợi ích an ninh thiết yếu của mình hay không. Ngôn ngữ được sử dụng ở trong khoản (a) và (b) có tính chất tương tự nhau, như ‘mà quốc gia thành viên đó cho rằng [cần thiết/ sẽ đi ngược lại]’ và ‘lợi ích an ninh thiết yếu’.[11] Trên thực tế, khoản (b) được coi là trung tâm của Điều XXI.[12] Vì thế, bài viết sẽ đi sâu vào phân tích các tiêu chuẩn để viện dẫn khoản (b) - khoản được viện dẫn nhiều nhất của Điều XXI.  


Có thể nói, tiêu chuẩn viện dẫn dành cho khoản (b) của Điều XXI bao gồm hai phần đó là tồn tại một “lợi ích an ninh thiết yếu” đối với quốc gia thành viên đó và việc áp dụng biện pháp thương mại đó là cần thiết (necessary) để bảo vệ lợi ích an ninh này. 


1.2. Tiêu chuẩn viện dẫn ngoại lệ an ninh

Như đã trình bày tại phần 1 của bài viết, để thành công viện dẫn ngoại lệ an ninh theo Điều XXI(a) và (b), quốc gia thành viên cần chứng minh được hai yếu tố: tồn tại một ngoại lệ an ninh, sau đó chứng minh biện pháp thương mại là cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh đó. Thông thường, nghĩa vụ chứng minh cho việc viện dẫn ngoại lệ an ninh thường thuộc về bị đơn, như trong vụ Hoa Kỳ - Biện pháp thương mại ảnh hưởng tới Nicaragua.[13] 


Thứ nhất, “lợi ích an ninh thiết yếu” tại Điều XXI(a) có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các lợi ích gắn với an ninh quốc gia, bao gồm tất cả các khía cạnh liên quan đến vũ trang và ảnh hưởng trực tiếp đến bình ổn an ninh của quốc gia đó.[14] Đối với Điều XXI(b), lợi ích an ninh thiết yếu bị giới bạn bởi ba trường hợp được liệt kê tại khoản (b), đó là: (i) chất phóng xạ; (ii) vũ khí, đạn dược chiến tranh và các hoạt động cung ứng cho quân đội, (iii) trong thời kỳ chiến tranh và tình huống khẩn cấp trong quan hệ quốc tế. Quốc gia thành viên có quyền xác định những gì là lợi ích an ninh thiết yếu.[15] Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là một quốc gia thành viên có thể tự do nâng bất kỳ mối quan ngại nào thành ‘lợi ích an ninh thiết yếu’, mà phải tuân thủ tiêu chuẩn thiện chí (good faith) khi viện dẫn và diễn giải.[16]


Thứ hai, để có thể viện dẫn ngoại lệ an ninh theo Điều XXI GATT, các quốc gia thành viên cũng cần đáp ứng yếu tố thứ hai - tính cần thiết (necessity).[17] Quốc gia thành viên cần chứng minh biện pháp thương mại là cần thiết để bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu của mình. Ở đây, có ba cách hiểu cho cụm “mà quốc gia cho là cần thiết”.[18] Cách hiểu thứ nhất là coi quốc gia có toàn quyền quyết định xem hành động đó có cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh của mình và có liên quan đến một trong các điều kiện được liệt kê [tại Điều XXI(b)] hay không.[19] Với cách hiểu thứ hai, quốc gia vẫn được toàn quyền định đoạt, song cần áp dụng một tiêu chuẩn thiện chí mà có thể được xem xét bởi cơ quan tài phán.[20] Ngoài hai cách hiểu trên, tồn tại một cách hiểu thứ ba đó là cho phép các quốc gia tự quyết định xem biện pháp đó có cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh thiết yếu hay không, nhưng các điều kiện được liệt kê [tại Điều XXI(b)] sẽ phải chịu sự xem xét bởi cơ quan tài phán.[21] Khi áp dụng vào một tình huống cụ thể, ba cách diễn giải này có thể được hiểu rõ hơn như sau. Theo cách hiểu thứ nhất, quốc gia thành viên hoàn toàn tự quyết định liệu một biện pháp có cần thiết vì lý do an ninh hay không, mà không phải chịu bất kỳ sự kiểm soát hay đánh giá nào từ phía WTO.[22] Đối với cách hiểu thứ hai, WTO chỉ được quyền xem xét ở mức độ hạn chế, chủ yếu nhằm xác định xem biện pháp đó có được áp dụng một cách thiện chí hay không.[23] Trong khi đó, cách hiểu thứ ba trao cho WTO thẩm quyền kiểm tra và đánh giá một cách đầy đủ để xác định liệu biện pháp được viện dẫn thực sự có cần thiết cho mục tiêu an ninh hay không.[24] Cách hiểu thứ hai được ủng hộ bởi nhiều học giả, bởi lẽ cách hiểu thứ hai được coi là “cách tiếp cận có mục đích, đối trọng giữa bảo vệ chủ quyền quốc gia và duy trì sự ổn định trong chế độ thương mại quốc tế”.[25]


Tóm lại, nhằm viện dẫn ngoại lệ an ninh theo Điều XXI GATT, quốc gia thành viên cần chứng minh hai yếu tố: sự tồn tại của "lợi ích an ninh thiết yếu" và tính "cần thiết" của biện pháp thương mại. Các quốc gia có quyền tự quyết định nhưng cần tuân thủ nguyên tắc thiện chí khi thực hiện cam kết quốc tế.


1.3. Nguy Cơ Lạm Dụng Ngoại Lệ An Ninh 

Từ phân tích về tiêu chuẩn viện dẫn ngoại lệ an ninh, với cả ba cách hiểu, có thể dễ dàng nhận thấy rằng tồn tại một nguy cơ không nhỏ của việc lạm dụng Điều XXI GATT nhằm biện minh cho việc vi phạm nghĩa vụ của các quốc gia thành viên.[26] 


Nguy cơ lạm dụng ngoại lệ an ninh đã được nhận ra ngay từ thời điểm soạn thảo những điều khoản của GATT. Khi soạn thảo, ủy ban soạn thảo đã lo ngại rằng ngoại lệ về an ninh sẽ tạo ra“một lỗ hổng rất lớn cho toàn bộ Hiệp định”.[27] Để giải quyết mối lo ngại này, ủy ban cho rằng điều quan trọng là phải tạo ra sự cân bằng trong việc đưa ra các tiêu chuẩn để viện dẫn ngoại lệ về an ninh.[28] Đồng thời, ủy ban cũng nhận định rằng không thể xây dựng tiêu chuẩn áp dụng quá chặt chẽ vì không thể ngăn cản các quốc gia áp dụng những biện pháp thực sự cần thiết cho vấn đề an ninh, song cũng không thể làm nó quá lỏng lẻo vì điều đó có thể dẫn tới việc các quốc gia lạm dụng Điều XXI cho các mục đích thương mại.[29] Vậy nên, tinh thần thiện chí của các quốc gia thành viên khi diễn giải các điều khoản này là biện pháp đảm bảo duy nhất chống lại các nguy cơ lạm dụng ngoại lệ này.[30] Về nguyên tắc thiện chí, đây là một khái niệm pháp lý rất tổng quát, do đó cần cụ thể hóa để áp dụng vào các tình huống cụ thể. Một trong những cách tiếp cận để cụ thể hóa đánh giá thiện chí đó là yêu cầu áp dụng nguyên tắc tương xứng (proportionality test) hoặc xem xét liệu biện pháp được áp dụng có thực chất là một biện pháp mang tính bảo hộ thương mại, hoặc có thể kết hợp với việc trao cho quốc gia viện dẫn một mức độ linh hoạt (margin of appreciation) nhất định.[31] Một cách tiếp cận khác được đề xuất bởi Thẩm phán Keith trong Vụ Một số vấn đề tương trợ trong lĩnh vực hình sự (Djibouti v. Pháp), đó là việc đặt ra một số câu hỏi cụ thể nhằm xác định liệu quốc gia viện dẫn điều khoản tự đánh giá có vi phạm nghĩa vụ hành động thiện chí hay không, hoặc có lạm dụng quyền lực hay không.[32] Những câu hỏi này có nhiều điểm tương đồng với các căn cứ pháp lý được sử dụng để xem xét việc lạm dụng quyền lực tùy nghi của các cơ quan hành chính, như được áp dụng bởi các tòa án trong nhiều hệ thống luật hành chính quốc gia.[33] Đối với Điều XXI GATT, nghĩa vụ thiện chí được hiểu là việc biện pháp được áp dụng cần phải đáp ứng một tiêu chuẩn tối thiểu về tính hợp lý liên quan đến lợi ích an ninh thiết yếu được viện dẫn, nghĩa là biện pháp đó không được phi lý khi được coi là nhằm bảo vệ lợi ích an ninh thiết yếu.[34] Bởi vậy, nguyên tắc thiện chí trong việc viện dẫn được coi là phương thức duy nhất để ngăn ngừa những hành vi lạm dụng Điều XXI và các tác động mà nó đem lại như sự mất cân bằng giữa các quốc gia trong xu hướng kinh tế đa cực hay những hành vi lạm dụng chính trị.[35]


Trong nhiều thập kỷ liên tiếp, mặc dù tồn tại một rủi ro lớn của việc lạm dụng ngoại lệ về an ninh, các quốc gia thành viên vẫn cho thấy tinh thần thiện chí trong việc thực hiện các nghĩa vụ của mình, và Điều XXI rất hạn chế được viện dẫn.[36] Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, các quốc gia đã bắt đầu viện dẫn đến Điều XXI nhiều hơn, điển hình như trong các vụ như Nga - Giao thông quá cảnh hay Ả rập Xê-Út - IPRs. Đặc biệt, trong vụ Hoa Kỳ - Sản phẩm thép và nhôm, Hoa kỳ đã viện dẫn Điều XXI nhằm biện minh cho hành vi vi phạm vào các điều khoản trong GATT của mình, sau khi nước này ban hành mức thuế bổ sung đối với các sản phẩm nhập khẩu thép (25%) và nhôm (10%).[37] Hành vi của Hoa Kỳ được cho là xuất phát từ sự lo ngại rằng các sản phẩm nhập khẩu nhôm và thép sẽ ảnh hưởng đến nền thương mại trong nước.[38] Tuy nhiên, chính vì sự tê liệt của Cơ quan Phúc thẩm WTO, dường như báo cáo cuối cùng có hiệu lực ràng buộc Hoa Kỳ trong việc thực hiện các nghĩa vụ cần thiết sẽ không thể được đưa ra.[39]


Tóm lại, Điều XXI đưa ra những ngoại lệ về an ninh, điều khoản mà các quốc gia thành viên có thể viện dẫn nhằm biện minh cho các vi phạm của mình trong những trường hợp nhất định liên quan đến lợi ích an ninh thiết yếu của quốc gia. Đồng thời, đây cũng là một trong những điều khoản mang tính nhạy cảm nhất của GATT với tính chất “tự đánh giá” của nó và những tác động to lớn nó có thể gây ra khi bị lạm dụng. Song, chỉ tồn tại một biện pháp đảm bảo duy nhất giúp ngăn chặn hành vi lạm dụng với điều khoản này, đó chính là sự thiện chí của các quốc gia thành viên. Với sự thay đổi về cách tiếp cận trong những năm trở lại đây, Điều XXI ngày càng cho thấy vai trò và ảnh hưởng to lớn mà nó đem lại. Đặc biệt, với những động thái gần đây của Hoa Kỳ khi tăng thuế với các mặt hàng đến từ Trung Quốc, Điều XXI được coi như một “lối thoát” quan trọng của Hoa Kỳ trong bối cảnh chiến tranh thương mại hiện nay. 


2. Công cụ ngoại lệ an ninh của hoa kỳ trong chiến tranh thương mại

Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ đã nhiều lần viện dẫn ngoại lệ an ninh để áp đặt các biện pháp hạn chế thương mại, làm dấy lên lo ngại về nguy cơ lạm dụng và tác động của nó đối với hệ thống thương mại toàn cầu.


Phần này của bài viết sẽ phân tích hai công cụ pháp lý quan trọng mà Hoa Kỳ đã sử dụng trong chiến tranh thương mại hiện nay bao gồm Đạo luật Quyền hạn Kinh tế trong Tình trạng Khẩn cấp Quốc tế (IEEPA) và Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962. Sau đó, bài viết sẽ đánh giá tính hợp pháp của những biện pháp thương mại này dưới góc độ của các hiệp định WTO, thông qua vụ kiện điển hình về thuế thép và nhôm của Hoa Kỳ - “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (DS544, 552, 556, 564)”[40]. Cách tiếp cận này nhằm làm rõ câu hỏi quan trọng: Hoa Kỳ có thực sự viện dẫn ngoại lệ an ninh nhằm mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, hay thực chất là các biện pháp thương mại mang tính bảo hộ?


2.1. Đạo luật Quyền hạn Kinh tế trong Tình trạng Khẩn cấp Quốc tế (IEEPA)

Trong bối cảnh căng thẳng thương mại, Hoa Kỳ đã đồng thời áp dụng thuế quan và sử dụng các công cụ pháp lý mạnh mẽ để kiểm soát dòng chảy kinh tế với các quốc gia khác. Một trong những công cụ quan trọng nhất được Hoa Kỳ sử dụng trong chiến tranh thương mại là Đạo luật Quyền hạn Kinh tế Khẩn cấp Quốc tế (IEEPA),[41] được ban hành nhằm đối phó với các mối đe dọa đối với an ninh quốc gia thông qua các biện pháp kinh tế. Được thông qua vào năm 1977, IEEPA trao cho Tổng thống Hoa Kỳ quyền ban hành các biện pháp trừng phạt kinh tế (economic sanctions) khi đối mặt với mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.[42] Đạo luật này cho phép Tổng thống kiểm soát giao dịch tài chính và thương mại của Hoa Kỳ với các tổ chức hoặc quốc gia khác trong tình huống khẩn cấp.[43] Các quyền hạn khẩn cấp có thể bao gồm việc kiểm soát thương mại, hạn chế giao dịch tài chính, xuất khẩu và nhập khẩu, miễn là Tổng thống tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia thông qua lệnh hành pháp.[44]


Một ví dụ điển hình về việc Hoa Kỳ sử dụng IEEPA trong chiến tranh thương mại  là việc Tổng thống Donald Trump áp đặt thuế quan vào năm 2025. Vào ngày 1 tháng 2 năm 2025, Tổng thống Trump đã ban hành ba sắc lệnh hành pháp áp đặt thuế bổ sung đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu từ Canada, Mexico và Trung Quốc theo IEEPA.[45] Các mức thuế này bao gồm 25% đối với Canada (với mức thuế bổ sung thấp hơn 10% đối với năng lượng hoặc tài nguyên năng lượng) và Mexico, cũng như 10% đối với Trung Quốc.[46] Những mức thuế mới này được áp dụng bổ sung cho bất kỳ loại thuế, phí, lệ phí và khoản thu nào khác áp dụng cho các mặt hàng nhập khẩu được đề cập, chẳng hạn như các loại thuế được áp đặt theo Mục 301 của Đạo luật Thuế quan năm 1974.[47] Hiện không có cơ chế rõ ràng nào để xin miễn trừ các mức thuế này.[48] Tổng thống Trump lập luận rằng thâm hụt thương mại kéo dài của Hoa Kỳ tạo thành một "mối đe dọa bất thường và đặc biệt" đối với an ninh quốc gia, do đó viện dẫn IEEPA để áp đặt các mức thuế này.[49] Vào ngày 13 tháng 5 năm 2025, một hội đồng từ Tòa án Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ đã đặt câu hỏi về tính hợp pháp của các mức thuế do Tổng thống Trump áp đặt theo IEEPA.[50] Các thẩm phán bày tỏ lo ngại rằng việc giải thích này có thể loại trừ sự giám sát tư pháp và đặt câu hỏi về lý do biện minh cho việc coi thâm hụt thương mại kéo dài là tình trạng khẩn cấp.[51] Việc sử dụng IEEPA để áp đặt thuế quan trong trường hợp này không chỉ mở rộng quyền lực của tổng thống trong lĩnh vực thương mại, mà còn tạo tiền lệ cho phép chính phủ Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp thuế quan một cách tùy tiện, dựa trên lý do an ninh quốc gia chưa được xác minh rõ ràng.[52] Điều này có nguy cơ dẫn đến căng thẳng thương mại leo thang, làm suy giảm lòng tin của các đối tác quốc tế và có thể kích hoạt các biện pháp trả đũa từ các quốc gia bị ảnh hưởng, gây bất ổn trong hệ thống thương mại toàn cầu.[53]


2.2. Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại Hoa Kỳ (Mục 232)

Bên cạnh IEEPA, trong đó có Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962 (Mục 232) cũng là một công cụ pháp lý để bảo hộ ngành công nghiệp trong nước được Hoa Kỳ sử dụng. Mục này cho phép Tổng thống áp thuế hoặc hạn chế nhập khẩu với lý do an ninh quốc gia.[54] Trong những năm gần đây, Mục 232 đã trở thành công cụ quan trọng để Hoa Kỳ áp đặt các hàng rào thuế quan, gây ra những tranh chấp thương mại lớn trên phạm vi toàn cầu.[55] Trong bối cảnh chiến tranh thương mại năm 2017, Tổng thống Donald Trump đã viện dẫn mục này để áp đặt thuế quan đối với thép và nhôm nhập khẩu vào năm 2018.[56] Theo đó, Chính quyền Trump lập luận rằng việc nhập khẩu các mặt hàng này ở mức cao đe dọa ngành công nghiệp nội địa, từ đó ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.[57]

Các đối tác thương mại chính của Hoa Kỳ vào thời điểm đó đã có những phản ứng mạnh mẽ trước quyết định áp thuế này. Thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm WTO, các biện pháp của Hoa Kỳ được kết luận rằng không đáp ứng các tiêu chí về ngoại lệ an ninh theo Điều XXI GATT, qua đó cho thấy nguy cơ lạm dụng mục này để phục vụ lợi ích kinh tế thay vì mục đích an ninh thực sự.[58]


2.3. Sự khác biệt trong cơ chế áp dụng giữa IEEPA và Mục 232

Mặc dù Đạo luật Quyền hạn Kinh tế trong Tình trạng Khẩn cấp Quốc tế (IEEPA) năm 1977 và Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962 (Mục 232) đều cung cấp cho Tổng thống Hoa Kỳ thẩm quyền áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại dựa trên lý do an ninh quốc gia, cơ chế và tiêu chuẩn vận hành của hai công cụ này mang những khác biệt rõ ràng.[59]


Trước hết, IEEPA trao cho Tổng thống quyền hành pháp rộng lớn và trực tiếp trong việc kiểm soát giao dịch kinh tế với các thực thể nước ngoài khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, mà không cần bất kỳ sự phê duyệt hoặc điều tra khách quan nào từ các cơ quan chuyên môn.[60] Ngược lại, Mục 232, không đặt ra giới hạn nào về loại thuế quan hoặc hạn ngạch mà Tổng thống có thể áp dụng, nhưng yêu cầu Bộ trưởng Thương mại và Tổng thống phải xem xét đến các yêu cầu của an ninh quốc gia (mà không loại trừ các yếu tố liên quan khác), phải cân nhắc đến năng lực sản xuất trong nước cần thiết để phục vụ nhu cầu quốc phòng dự kiến, cũng như khả năng tiếp cận các nguyên vật liệu thiết yếu cho quốc phòng.[61] Điểm khác biệt cốt lõi giữa hai công cụ này nằm ở mức độ kiểm soát và giám sát quyền lực hành pháp. IEEPA cho phép Tổng thống hành động đơn phương và ngay lập tức, trong khi Mục 232 tuy vẫn thiên về quyền lực hành pháp, nhưng được gắn liền với một quy trình điều tra mang tính độc lập và mang lại phần nào tính minh bạch.[62] Chính vì vậy, IEEPA được các học giả coi là công cụ có nguy cơ lạm dụng cao hơn, khi đặt quá nhiều quyền lực vào tay Tổng thống mà thiếu vắng cơ chế kiểm tra và cân bằng từ Quốc hội hoặc tư pháp.[63]


Như các ví dụ đã nêu, cả hai công cụ đều đã bị lạm dụng trong thời kỳ chính quyền Donald Trump. Với IEEPA, Trump đã đe dọa sử dụng đạo luật này để buộc các công ty Hoa Kỳ rút khỏi Trung Quốc trong bối cảnh leo thang căng thẳng thương mại, bất chấp việc không có căn cứ rõ ràng về một "tình trạng khẩn cấp quốc gia" theo nghĩa truyền thống.[64] Trong khi đó, Mục 232 được chính quyền Trump vận dụng để áp thuế nhập khẩu thép và nhôm với lý do an ninh quốc gia, dù đối tượng bị ảnh hưởng là các đồng minh truyền thống như Liên minh châu Âu, Canada và Nhật Bản.[65]


2.4. Hành động của Hoa Kỳ có phù hợp để viện dẫn ngoại lệ an ninh hay không? 

Tính hợp pháp của việc Hoa Kỳ viện dẫn Điều XXI GATT nhằm biện minh cho các biện pháp thương mại đã được xem xét trong các vụ kiện "Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (DS544, 552, 556, 564)". Trong các vụ kiện này, các quốc gia nguyên đơn bao gồm Trung Quốc, Na Uy, Thụy Sĩ và Thổ Nhĩ Kỳ đã khởi kiện Hoa Kỳ tại WTO, cho rằng các mức thuế quan bổ sung mà Hoa Kỳ áp đặt đối với sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu theo Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962 vi phạm các nghĩa vụ theo GATT 1994. Hoa Kỳ lập luận rằng những biện pháp này được thực hiện nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và do đó được miễn trừ theo Điều XXI(b)(iii) của GATT 1994.[66]


Cụ thể, trong vụ kiện giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ (DS544), báo cáo của Ban Hội thẩm kết luận rằng các mức thuế quan mà Hoa Kỳ áp đặt đã vượt quá mức trần cam kết trong Biểu cam kết WTO của nước này, do đó vi phạm Điều II:1 GATT 1994.[67] Việc miễn thuế đối với sản phẩm từ một số quốc gia như Brazil, Canada, Mexico, các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu được xác định là vi phạm nguyên tắc Đối Xử Tối Huệ Quốc (Most Favoured Nation) theo Điều I:1 GATT vì nguyên tắc này yêu cầu rằng bất kỳ lợi ích, ưu đãi hay đặc quyền nào mà một thành viên WTO dành cho hàng hóa từ một quốc gia thành viên khác phải được áp dụng ngay lập tức và vô điều kiện cho tất cả các thành viên WTO khác đối với cùng loại hàng hóa.[68] Tuy nhiên, trong thực tế, Hoa Kỳ lại miễn trừ hoặc điều chỉnh thuế suất một cách chọn lọc, dựa trên các yếu tố song phương hoặc thỏa thuận riêng, điều này dẫn đến đối xử phân biệt giữa các nước thành viên. Đồng thời, các hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng đối với sản phẩm thép và nhôm của một số quốc gia cũng được coi là vi phạm Điều XI:1 GATT vì mục này nghiêm cấm các biện pháp hạn chế định lượng đối với hàng hóa nhập khẩu.[69]


Trong trường hợp của Hoa Kỳ, khi áp dụng thuế quan bổ sung theo Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962, nước này còn thiết lập các hạn ngạch nhập khẩu với một số quốc gia nhất định như Hàn Quốc, Argentina, Brazil,... như một phần của thỏa thuận song phương thay vì thuế quan. Theo đó, Hoa Kỳ đã viện dẫn Điều XXI(b)(iii) để biện minh cho các biện pháp này, lập luận rằng việc nhập khẩu thép và nhôm quá mức đe dọa đến ngành công nghiệp nội địa, từ đó ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.[70] Hoa Kỳ cho rằng sự phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài có thể làm suy yếu khả năng tự lực về công nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng hoặc xung đột quân sự, khi khả năng tiếp cận các nguyên liệu chiến lược có thể bị gián đoạn.[71] Tuy nhiên, Ban Hội thẩm nhận định rằng cách diễn giải này không thỏa mãn tiêu chí của Điều XXI(b)(iii) GATT 1994.[72] Điều khoản này quy định rằng ngoại lệ an ninh chỉ được áp dụng khi các biện pháp được thực hiện "trong thời gian chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp trong quan hệ quốc tế".[73] Ban Hội thẩm cho rằng “tình trạng khẩn cấp trong quan hệ quốc tế” phải là những tình huống nghiêm trọng, có ảnh hưởng đến toàn bộ mối quan hệ giữa các quốc gia, như chiến tranh, xung đột vũ trang, khủng hoảng ngoại giao nghiêm trọng, chứ không phải là các vấn đề mang tính nội tại hoặc rủi ro kinh tế dài hạn.[74] Trong vụ việc này, Ban Hội thẩm xác định Hoa Kỳ đã không hoàn thiện nghĩa vụ chứng minh các biện pháp này được áp dụng "trong thời gian chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp trong quan hệ quốc tế" khi chỉ viện dẫn một cách mơ hồ các mối lo ngại chung về an ninh quốc gia liên quan đến nhập khẩu thép và nhôm, mà không chứng minh được sự tồn tại của một cuộc chiến tranh, xung đột vũ trang, hoặc mối đe dọa cụ thể, cấp bách đến từ một quốc gia hoặc nhóm quốc gia nhất định.[75] Việc Hoa Kỳ mô tả tình hình là mối đe dọa đối với ngành công nghiệp nội địa và phúc lợi kinh tế của nước này là không đủ để chứng minh sự tồn tại của tình trạng khẩn cấp trong quan hệ quốc tế theo Điều XXI(b)(iii).[76] Những mối lo ngại về việc ngành công nghiệp thép bị tổn hại trong dài hạn không cấu thành “tình trạng khẩn cấp trong quan hệ quốc tế” theo tiêu chuẩn chặt chẽ mà WTO đưa ra.[77] 


Bên cạnh vụ kiện DS544 do Trung Quốc khởi kiện, ba quốc gia khác gồm Na Uy (DS552), Thụy Sĩ (DS556), và Thổ Nhĩ Kỳ (DS564) cũng đệ đơn kiện tương tự lên WTO về các biện pháp áp thuế nhôm và thép của Hoa Kỳ dựa trên Điều XXI GATT 1994. Cả ba Ban Hội thẩm trong các vụ kiện DS552, DS556, và DS564 đều cho rằng Hoa Kỳ không đáp ứng đủ tiêu chuẩn để viện dẫn Điều XXI(b)(iii), vì Hoa Kỳ không chứng minh được sự tồn tại của “tình trạng khẩn cấp trong quan hệ quốc tế” tại thời điểm ban hành các biện pháp tranh chấp.[78] Từ đó, có thể suy ra rằng có một khối quan điểm thống nhất từ các Ban Hội thẩm liên quan dù được thành lập độc lập - bao gồm các vụ kiện song song DS552, DS556, và DS564, vì chúng đều được xét xử trong cùng giai đoạn, trên cùng một cơ sở pháp lý, và phản ánh trong báo cáo DS544.[79]


Như vậy, hành động của Hoa Kỳ trong chiến tranh thương mại, đặc biệt là việc viện dẫn Điều XXI GATT để biện minh cho các biện pháp thương mại bảo hộ, đặt ra thách thức đối với hệ thống thương mại đa phương. Từ bài học thực tiễn đó, có thể liên hệ tới nguy cơ tiềm tàng nếu Hoa Kỳ sử dụng IEEPA cho các mục đích tương tự. Trong một bối cảnh chính trị bất ổn, không thể loại trừ khả năng IEEPA sẽ được sử dụng để áp đặt các biện pháp đơn phương với lý do "an ninh quốc gia" mơ hồ, từ đó gây tổn hại nghiêm trọng đến hệ thống thương mại quốc tế. Điều này cho thấy cần có một cơ chế giám sát chặt chẽ hơn đối với việc áp dụng ngoại lệ an ninh trong WTO để tránh lạm dụng và bảo vệ tính ổn định của hệ thống thương mại toàn cầu.[80]


3. Kết luận

Tóm lại, Điều XXI quy định các ngoại lệ về an ninh, cho phép các quốc gia thành viên viện dẫn để biện minh cho hành vi vi phạm nghĩa vụ trong những trường hợp liên quan đến lợi ích an ninh thiết yếu. Đây là một cơ chế đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích an ninh thiết yếu của quốc gia, song cũng là một trong những điều khoản nhạy cảm nhất của GATT do cơ chế “tự đánh giá” và nguy cơ bị lạm dụng, trong khi biện pháp kiểm soát duy nhất là thiện chí của các quốc gia thành viên. Trong thực tiễn, Hoa Kỳ đã sử dụng hai công cụ pháp lý trong nước là IEEPA và Mục 232 như cơ sở để triển khai các biện pháp hạn chế thương mại với danh nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia. Thông qua vụ kiện “Hoa Kỳ – Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm”, Ban Hội thẩm WTO diễn giải cụ thể Điều XXI(b)(iii) GATT đối với một quốc gia viện dẫn lý do an ninh quốc gia để áp dụng biện pháp thương mại. Phán quyết khẳng định rằng ngoại lệ này không phải là quyền tuyệt đối và chỉ có thể được áp dụng trong những tình huống nghiêm trọng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, như chiến tranh hay xung đột vũ trang. Trước xu hướng viện dẫn ngày càng rộng rãi ngoại lệ an ninh, WTO cần đóng vai trò chủ động hơn trong việc thiết lập các chuẩn mực diễn giải thống nhất và khách quan, nhằm đảm bảo rằng Điều XXI không trở thành “lá chắn” cho các biện pháp bảo hộ trá hình, qua đó góp phần duy trì sự ổn định và minh bạch của hệ thống thương mại đa phương. 


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] P. V. Bossche và S. Akpofure, WTI Working Paper No. 03/2020, “Beijing Conference on the New Global Economic Order”, World Trade Institute (2020).

[2] Như trên. Ngoài Điều XXI của GATT, ngoại lệ an ninh còn được quy định tại Điều XIV của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Service) và Điều 73 của Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights).

[3][4][5] Erich Vranes, “WTO Security Exceptions in Practice and Scholarship-Curtailing Trump Cards through Proportionality” (Springer 2023), tr. 1- 4.

[6] Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Nga - Các Biện Pháp Liên Quan Tới Giao Thông Quá Cảnh (DS512)”, WT/DS512/R, đoạn. 8.1.

[7][67][68][69] Báo cáo Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Trung Quốc)”, WT/DS544/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022.

[8] Báo cáo Ban hội thẩm, “Ả Rập Xê-Út – Biện pháp liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (DS567)”, WT/DS567/R.

[9] Đây là bản dịch không chính thức, nguyên văn Điều XXI GATT như sau:

 “ Nothing in this Agreement shall be construed

(a) to require any contracting party to furnish any information the disclosure of which it considers contrary to its essential security interests; or

(b) to prevent any contracting party from taking any action which it considers necessary for the protection of its essential security interests

(i) relating to fissionable materials or the materials from which they are derived;

(ii) relating to the traffic in arms, ammunition and implements of war and to such traffic in other goods and materials as is carried on directly or indirectly for the purpose of supplying a military establishment;

(iii) taken in time of war or other emergency in international relations; or

(c) to prevent any contracting party from taking any action in pursuance of its obligations under the United Nations Charter for the maintenance of international peace and security.”

[10] Roger P. Alford, “The Self-Judging WTO Security Exception”, 2011 Utah L. Rev. 697 (2011). tr. 703; xem thêm John H. Jackson, World Trade and the Law of GATT (A Legal Analysis of the General Agreement on Tariffs and Trade), Bobbs-Merrill Company, tr. 748.

[11] P. V. Bossche và S. Akpofure, WTI Working Paper No. 03/2020, Beijing Conference on the New Global Economic Order, World Trade Institute (2020).

[12] Jacob Gladiysz, “The National Security Exception in WTO Law: Emerging Jurisprudence and Future Direction” (2021), Georgetown Journal of International Law, tr. 839.

[13] Báo cáo Ban hội thẩm, “Hoa Kỳ - Các biện pháp thương mại ảnh hưởng đến Nicaragua” (L/6053); xem thêm Analytical Index of the GATT, Article XXI, tr. 603. 

[14] W. Wei, “Interpreting Essential Security Exceptions in WTO law in view of Economic Security Interests”, (2019), Springer International Publishing.

[15] Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Nga - Các Biện Pháp Liên Quan Tới Giao Thông Quá Cảnh (DS512)”, WT/DS512/R, đoạn 7.131.

[16] Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Nga - Các Biện Pháp Liên Quan Tới Giao Thông Quá Cảnh (DS512)”, WT/DS512/R, đoạn 7.132.

[17] W. Wei, “Interpreting Essential Security Exceptions in WTO law in view of Economic Security Interests”, Springer International Publishing, tr. 229.

[18][19][20][21][22][23][24] Roger P. Alford, “The Self-Judging WTO Security Exception”, 2011 Utah L. Re. 697 (2011), tr. 704.

[25] Roger P. Alford, “The Self-Judging WTO Security Exception”, 2011 Utah L. Re. 697 (2011), tr.706.

[26] John H. Jackson, “World Trade and the Law of GATT (A Legal Analysis of the General Agreement on Tariffs and Trade)”, Bobbs-Merrill Company, tr. 748.

[27][28][29][30] United Nations, “Econ. & Soc. Council, Preparatory Comm. of the U.N. Conference on Trade & Emp't”, Thirty-Third Meeting of Commission A, U.N. Doc.E/PC/T/A/PV/33 (1947), tr. 19 - 21.

[31] Stephan Schill, Robyn Briese, ‘“If the State Considers”: Self-Judging Clauses in International Dispute Settlement” (2009), 13 Max Planck UNYB 61, tr. 107-124. 

[32][33] Vụ “Một số vấn đề tương trợ trong lĩnh vực hình sự (Djibouti v. Pháp)”, Quyết định của Thẩm phán Keith, Báo cáo ICJ 2008, tr. 278; xem thêm Stephan Schill, Robyn Briese, ‘“If the State Considers”: Self-Judging Clauses in International Dispute Settlement’ (2009) 13 Max Planck UNYB 61, tr. 124.

[34] Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Nga - Các Biện Pháp Liên Quan Tới Giao Thông Quá Cảnh (DS512)”, WT/DS512/R, đoạn 7.138.

[35] John H. Jackson, “World Trade and the Law of GATT (A Legal Analysis of the General Agreement on Tariffs and Trade)”, Bobbs-Merrill Company, tr. 752.

[36] Roger P. Alford, “The Self-Judging WTO Security Exception”, 2011 Utah L. Re. 697 (2011), tr. 699.

[37] Báo cáo Ban hội thẩm, Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (DS544) WT/DS544/R, phụ lục B-2.

[38] Donald J. Trump, “Presidential Proclamation on Adjusting Imports of Steel into the United States” (8 tháng 3 năm 2018), White House.

[39] Philip Blenkinsop, “At WTO, growing disregard for trade rules shows world is fragmenting”, Reuters <https://www.reuters.com/business/wto-growing-disregard-trade-rules-shows-world-is-fragmenting-2023-10-02>, truy cập ngày 18/3/2025. 

[40][58][66] Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Trung Quốc)”, WT/DS544/14 (2022), WT/DS552/16 (2022), WT/DS556/21 (2022), WT/DS564/22 (2022).

[41] International Emergency Economic Powers Act,  50 U.S.C. §§1701, ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1977.

[42][43] Casey, Christopher A.; et al., “Đạo luật Quyền hạn Kinh tế Khẩn cấp Quốc tế: Nguồn gốc, Sự phát triển và Sử dụng” (ngày 20 tháng 3 năm 2019).

[44] 50 Bộ luật Hoa Kỳ Chương 35 - Quyền kinh tế khẩn cấp quốc tế, §1701(a).

[45][46] David J. Ross, Lauren Mandell, Neena Shenai, Rhonda K. Schmidtlein, Mark Kim, “President Trump Announces Three New Section 232 Investigations After Suspending Reciprocal Tariffs, Excluding Certain Electronics, and Increasing Tariffs on China” (17 tháng 4 năm 2025), Wilmer Hale. <https://www.wilmerhale.com/en/insights/client-alerts/20250417-president-trump-announces-then-suspends-reciprocal-tariffs-defers-tariffs-on-certain-electronics-and-increases-tariffs-on-china>. 

[47][48] “Fact Sheet: President Donald J. Trump Declares National Emergency to Increase our Competitive Edge, Protect our Sovereignty, and Strengthen our National and Economic Security” (2 tháng 4 năm 2025), The White House. <https://www.whitehouse.gov/fact-sheets/2025/04/fact-sheet-president-donald-j-trump-declares-national-emergency-to-increase-our-competitive-edge-protect-our-sovereignty-and-strengthen-our-national-and-economic-security/>. 

[49] Swanson, Ana; Rappeport, Alan; Romm, Tony, "Trump Announces Sweeping Tariffs on All Imports: Live Updates" (2 tháng 4 năm 2025), The New York Times. <https://www.nytimes.com/live/2025/04/02/business/trump-tariffs-liberation-day>. 

[50][51] James Fanelli, “Trade Court Grills Government Over Trump’s ‘Liberation Day’ Tariffs” (13 tháng 5 năm 2025), WSJ. <https://www.wsj.com/politics/policy/trade-court-grills-government-over-trumps-liberation-day-tariffs>. 

[52] Doug Palmer, “How Trump’s trade war could end by June” (12 tháng 5 năm 2025), Politico. <https://www.politico.com/news/2025/05/12/trumps-reciprocal-tariffs-go-to-trial>. 

[53] Jason Douglas, Timothy W. Martin, “U.S. Allies Are Still Waiting for Tariff Relief Even After Speedy China Truce” (18 tháng 5 năm 2025), WSJ. <https://www.wsj.com/economy/trade/trump-tariff-relief-us-allies>. 

[54] Section 232 allows the President to impose import restrictions based on an investigation and affirmative determination by the Department of Commerce (Commerce) that certain imports threaten to impair U.S. national security. President Trump initiated eight Section 232 investigations, and ultimately imposed tariffs under two investigations on steel and aluminum. Congressional Research Service, Section 232 of the Trade Expansion Act of 1962 (1 tháng 4 năm 2022). <https://www.congress.gov/crs-product/IF10667>. 

[55] Morgan Lewis, “Global Implications of the US Administration’s Tariff Strategy” (31 tháng 3 năm 2025).

[56] Donald J. Trump, “Tuyên bố Tổng thống số 9705 - Điều chỉnh việc nhập khẩu thép vào Hoa Kỳ” (8 tháng 3 năm 2018), đăng Công báo Liên bang số 83.

[57] Federal Register, “Adjusting Imports of Steel Into the United States” (15 tháng 3 năm 2018). <https://www.federalregister.gov/documents/2018/03/15/2018-05478/adjusting-imports-of-steel-into-the-united-states>.

[59] Jacob Reiskin, “Delegating and Regulating the President’s Section 232 and IEEPA Trade Powers” (tháng 10 năm 2021).

[60] Peter E. Harrell, “The Case Against IEEPA Tariffs” (31 tháng 1 năm 2025). <https://www.lawfaremedia.org/article/the-case-against-ieepa-tariffs>.

[61][62][63] Kathleen Claussen, “Trade’s Security Exceptionalism”, 72 STAN. L. REV. 1097 (tháng 5 năm 2020), Stanford Law Review.

[64] Scott E. Diamond, Dan Ujczo, Francesca M.S. Guerrero, Aaron C. Mandelbaum, “President Trump Issues Clarification on Application of Various IEEPA Tariffs” (ngày 30 tháng 4 năm 2025), Thompson Hine. <https://www.thompsonhinesmartrade.com/2025/04/president-trump-issues-clarification-on-application-of-various-ieepa-tariffs/>. 

[65] David Lawder, “Trump stretches trade law boundaries with Canada, Mexico, China tariffs” (ngày 3 tháng 2 năm 2025), Reuters. <https://www.reuters.com/business/trump-stretches-trade-law-boundaries-with-canada-mexico-china-tariffs-2025-02-02/>. 

[70][71] Báo cáo Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Trung Quốc)”, WT/DS544/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022, tr. 18-19.

[72][75][77] Báo cáo Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Trung Quốc)”, WT/DS544/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022, tr. 82.

[73][74] Báo cáo Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Trung Quốc)”, WT/DS544/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022, tr. 80.

[76] Báo cáo Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Trung Quốc)”, WT/DS544/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022, đoạn 7.140.

[78]  Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Na Uy)”, WT/DS552/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022.

Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Thuỵ Sĩ)”, WT/DS556/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022.

Báo cáo của Ban Hội thẩm, “Hoa Kỳ - Một Số Biện Pháp Đối Với Các Sản Phẩm Thép Và Nhôm (Thổ Nhĩ Kỳ)”, WT/DS564/14 (2022), thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2022.

[79] Victoria Walker, “Subsidizing the Microchip Race: The Expanding Use of National Security Arguments in International Trade” (2024), University of Michigan Journal of Law Reform, Vol. 57, No. 3, tr. 679, 681–683.

[80] James Bacchus, “The Black Hole of National Security: Striking the Right Balance for the National Security Exception in International Trade” (9 tháng 11 năm 2022), Policy Analysis No. 912, Cato Institute. <https://www.cato.org/sites/cato.org/files/2022-11/policy-analysis-936.pdf>.

Comentários


bottom of page