[53] KHẮC PHỤC HẬU QUẢ SAU CHIẾN TRANH TRONG LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỚI VIỆT NAM
- Dương Duy Khang, Lê Thị Hiền Hạnh
- 30 thg 4
- 28 phút đọc
Tác giả: Dương Duy Khang, Lê Thị Hiền Hạnh
Tóm tắt:
“Anh muốn đưa em về miền kí ức
Bốn mươi năm vẫn rạo rực trong lòng
[...]
Dẫu chiến tranh còn vương lại khói mù
Sau giải phóng còn chưa bù mất mát.”
Ký ức 30 Tháng 4, Hồ Như
Năm mươi năm đã trôi qua kể từ Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), chiến tranh đã lùi xa - dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam đã từ trong máu lửa mà “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình. Dẫu vậy, đâu đó trên đất nước chúng ta và trong triệu triệu con người Việt Nam, những hình bóng của một thời khốc liệt đầy máu và hoa vẫn còn hiện hữu. Đó có thể là những nấm mồ chưa tìm về với gia đình thân yêu hay những di vật bên kia đại dương chờ ngày trở về quê hương. Và cũng còn đó những đau thương chiến tranh đeo bám đất nước và con người một cách dằng dặc vẫn chưa được bù đắp xứng đáng.
Trong khuôn khổ bài viết chuyên mục đặc biệt này, thông qua góc nhìn của công pháp quốc tế, nhóm tác giả mong muốn mang đến độc giả những thông tin hữu ích về quá trình khắc phục hậu quả chiến tranh sau chiến tranh nói chung cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, một phần của tiến trình hàn gắn vết thương chiến tranh. Quá trình đó, qua bao nỗ lực, đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Dù vậy, vẫn còn những nạn nhân chiến tranh phải bền bỉ đấu tranh cho công lý.
Từ khóa: hành vi sai phạm quốc tế, khắc phục hậu quả sau chiến tranh, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
1. Tổng quan về khắc phục hậu quả sau chiến tranh trong luật quốc tế
1.1. Nghĩa vụ khắc phục hậu quả giữa quốc gia với quốc gia
1.1.1. Căn cứ xác định nghĩa vụ khắc phục hậu quả
Về cơ bản, khắc phục hậu quả là trách nhiệm phát sinh sau khi một quốc gia có hành vi sai phạm quốc tế và gây ra thiệt hại,[1] với điều kiện quan trọng nhất để phát sinh nghĩa vụ là tồn tại hành vi sai phạm quốc tế.[2] Theo Điều 2 Các điều khoản về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia cho hành vi sai phạm quốc tế (ARSIWA) được Ủy ban luật pháp quốc tế (ILC) dự thảo và thông qua, hành vi sai phạm quốc tế là hành vi bao gồm các yếu tố (a) có thể quy cho một quốc gia theo luật quốc tế và (b) hành vi đó cấu thành một vi phạm nghĩa vụ quốc tế.[3] Hiện nay, nghĩa vụ khắc phục hậu quả sau chiến tranh thường phát sinh từ một trong những vi phạm (i) jus ad bellum hoặc (ii) jus in bello.[4]
Xét vi phạm (i), vi phạm jus ad bellum chỉ tình huống một quốc gia sử dụng vũ lực trái với quy định của luật quốc tế.[5] Trong luật quốc tế hiện đại, vấn đề sử dụng vũ lực được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc với nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.[6] Đồng thời, nguyên tắc này được công nhận là tập quán quốc tế theo phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) trong vụ Hoạt động quân sự và bán quân sự trên lãnh thổ Nicaragua (Nicaragua v. Mỹ).[7] Trong trường hợp hành vi sử dụng vũ lực vi phạm nguyên tắc trên, đồng thời hành vi nằm trong danh sách các hành vi quy cho quốc gia theo ARSIWA,[8] hành vi vi phạm jus ad bellum được coi là một hành vi sai phạm quốc tế và làm phát sinh nghĩa vụ khắc phục hậu quả của quốc gia vi phạm.
Xét vi phạm (ii), vi phạm jus in bello chỉ những hành vi vi phạm quy định của luật nhân đạo quốc tế.[9] Nghiên cứu của Ủy ban chữ thập đỏ quốc tế (ICRC) về tập quán luật nhân đạo quốc tế cũng ghi nhận một số quy định về trách nhiệm quốc gia và vấn đề bồi thường thiệt hại. Trong đó, ICRC ghi nhận cụ thể hơn về hành vi được coi là vi phạm quy định của luật nhân đạo quốc tế, bao gồm: (a) các hành vi vi phạm do cơ quan quốc gia, bao gồm cả lực lượng vũ trang thực hiện; (b) các hành vi vi phạm của các nhân hoặc tổ chức được quốc gia đó trao truyền thực hiện các công việc của chính phủ; (c) hành vi vi phạm của cá nhân hoặc tập thể thực hiện theo sự chỉ thị, hoặc dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của quốc gia; và (d) các hành vi vi phạm do cá nhân hoặc tập thể được quốc gia thừa nhận như hành vi của mình.[10] Các quốc gia sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành vi nêu trên và phải khắc phục đầy đủ cho những mất mát hoặc thương tích xuất phát từ hành vi đó.[11]
1.1.2. Nghĩa vụ khắc phục hậu quả sau chiến tranh
Hiện tại, không có điều ước quốc tế toàn cầu điều chỉnh vấn đề khắc phục hậu quả mà nguyên tắc này được ghi nhận trong một số văn kiện và vụ việc. Trong vụ Nhà máy Chorzow (Đức v. Ba Lan), Tòa Thường trực công lý quốc tế (PCIJ) cho rằng: Bất cứ hành vi vi phạm nghĩa vụ quốc tế nào cũng liên quan đến nghĩa vụ khắc phục,[12] và việc khắc phục này phải có khả năng xóa bỏ mọi hậu quả của hành vi sai phạm và tái lập tình hình có thể tồn tại nếu hành vi sai phạm không diễn ra.[13] Nguyên tắc này sau đó còn được ghi nhận trong một số vụ việc khác, có thể kể đến như vụ Gabcikovo - Nagymaros (Hungary v. Slovakia)[14] hay vụ M/V Saiga No.2 (Saint Vincent and Grenadines v. Guinea).[15]
Trong ARSIWA 2001, ILC đưa ra quy định từ Điều 31 đến Điều 39 về việc khắc phục hậu quả do hành vi sai phạm quốc tế gây ra. Các quốc gia có hành vi sai phạm sẽ phải khắc phục đầy đủ cho các thiệt hại do hành vi đó gây ra, bao gồm tất cả những thiệt hại vật lý hay tinh thần.[16] Việc khắc phục có thể được thực hiện bởi các hình thức khác nhau, bao gồm hoàn trả (restitution), bồi thường (compensation) hay thỏa mãn (satisfaction).[17] Hoàn trả là việc quốc gia chịu trách nhiệm phải tái hiện lại tình trạng trước khi xảy ra hành vi sai phạm, cũng bao gồm việc trao trả những chiến lợi phẩm bị chiếm giữ trái phép.[18] Trong khi đó, bồi thường là việc quốc gia có nghĩa vụ phải chi trả một khoản tiền cho quốc gia chịu thiệt hại nhằm mục đích thanh toán các thiệt hại hay lãi suất trong chừng mực những thiệt hại đó không thể khắc phục bằng biện pháp hoàn trả.[19] Bên cạnh hai hình thức khắc phục bằng vật chất, luật quốc tế ghi nhận hình thức thỏa mãn là một hình thức khắc phục phi vật chất hoặc đạo đức,[20] bao gồm nhưng không giới hạn: thừa nhận hành vi sai phạm, bày tỏ sự hối hận trước hành vi hoặc đưa ra một lời xin lỗi chính thức mà không vượt quá mức độ tổn hại do hành vi sai phạm gây ra.[21] Có nhiều nghiên cứu cho rằng bên cạnh những hình thức thỏa mãn được ILC đề cập trong ARSIWA, còn có hình thức đảm bảo không tái phạm.[22] Tuy nhiên, đánh giá về mặt thực tiễn cho thấy hình thức đảm bảo không tái phạm không thể thay thế cho các hình thức khắc phục hậu quả khác.[23] Việc thực hiện các hình thức khắc phục thiệt hại nêu trên cần tuân thủ theo nguyên tắc phân cấp, bắt đầu từ hoàn trả.[24]
Nhìn chung, các vụ việc ghi nhận nguyên tắc khắc phục hậu quả cũng như ARSIWA không đề cập trực tiếp đến khắc phục hậu quả sau chiến tranh. Song, nếu một cuộc chiến tranh được chứng minh là hành vi vi phạm nghĩa vụ quốc tế của một quốc gia, quốc gia đó vẫn có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm khắc phục hậu quả theo quy định của luật quốc tế. Sự phát triển của luật quốc tế đã hạn chế phần nào việc các quốc gia chiến thắng trong cuộc chiến áp đặt lên quốc gia thua cuộc một khoản bồi thường nhằm giải quyết chi phí chiến tranh và trừng phạt bên thua[25] mà bỏ qua việc xác định trách nhiệm vốn tồn tại trong lịch sử. Luật quốc tế để ngỏ cho cách thức áp đặt cơ chế khắc phục hậu quả trên, và mở rộng thêm những cách khác, có thể kể đến như (i) được ủy quyền bởi Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, (ii) được hình thành thông qua sự đồng ý của quốc gia chịu trách nhiệm khắc phục với giải pháp đàm phán hoặc (iii) tuân thủ phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế.[26]
1.2. Nghĩa vụ khắc phục hậu quả giữa quốc gia với nạn nhân chiến tranh
Trong chiến tranh, bên cạnh thiệt hại đối với một quốc gia nói chung, thiệt hại đối với một cá nhân cũng rất to lớn. Trong khi luật quốc tế truyền thống chỉ công nhận mối quan hệ nghĩa vụ khắc phục hậu quả chiến tranh giữa các chủ thể là quốc gia và thể nhân chỉ là “chủ thể hưởng lợi ích gián tiếp”,[27] việc đàm phán và tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh giữa các quốc gia gặp nhiều khó khăn trên thực tế do ảnh hưởng của yếu tố chính trị.[28] Trong bối cảnh đó, một số nghiên cứu đã chỉ ra tính cần thiết của cơ chế khắc phục hậu quả chiến tranh dành cho cá nhân trong luật quốc tế.[29] Tuy nhiên, luật quốc tế hiện nay vẫn chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng dành cho quyền yêu cầu bồi thường của một nạn nhân chiến tranh đối với một quốc gia.
Nghiên cứu luật quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi sai phạm quốc tế từng ghi nhận khả năng cá nhân nhận được lợi ích từ trách nhiệm khắc phục hậu quả do hành vi sai phạm quốc tế của quốc gia:[30]
“Phần này (Phần thứ hai về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia) không gây ảnh hưởng đến một quyền phát sinh từ trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia mà lợi ích quyền đó có thể trực tiếp thuộc về chủ thể là thể nhân hay tổ chức ngoài quốc gia”.
Một mặt, quy tắc trên chỉ ghi nhận khả năng cá nhân trực tiếp thụ hưởng lợi ích từ một quyền có cơ sở từ trách nhiệm pháp lý quốc tế của một quốc gia.[31] Từ đó, có thể hiểu rằng, luật quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia không thật sự tạo ra một quyền dành cho cá nhân trực tiếp yêu cầu bồi thường do hành vi sai phạm quốc tế của quốc gia.[32] Một quyền dành cho thể nhân trong luật quốc tế cần một chế định pháp lý riêng biệt như được khẳng định trong án lệ LaGrand.[33] Như vậy, luật quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia vẫn chỉ đang công nhận quan hệ quyền và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại giữa các quốc gia với nhau.
Xem xét quy định về trách nhiệm khắc phục hậu quả của quốc gia trong luật nhân đạo quốc tế, Công ước Hague 1907 và Nghị định thư I Công ước Geneva 1949 ghi nhận:[34]
“Một bên chiến tranh vi phạm các điều khoản của Công ước này, nếu trường hợp đó yêu cầu, phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại”.
Quy tắc trên mặc dù tạo ra nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho quốc gia vi phạm, lại không khẳng định chủ thể tiếp nhận nghĩa vụ đó là chủ thể nào. Sự thiếu vắng này đã tạo ra tranh cãi liệu ngoài quốc gia, thể nhân cũng là chủ thể của quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.[35] Thực tiễn cho thấy không có sự thống nhất giữa các quốc gia trong vấn đề trên. Đối với các tội ác chiến tranh mà phát xít Đức đã gây ra trong Thế chiến II, trong khi tòa án Hy Lạp và Ý cho rằng nạn nhân chiến tranh có một quyền như thế trên cơ sở các tội ác chiến tranh là vi phạm luật nhân đạo quốc tế nghiêm trọng và không tồn tại biện pháp khắc phục hiệu quả dành cho nạn nhân chiến tranh, tòa án Đức đã khẳng định quan điểm đối lập.[36] Tương tự, tòa án của Nhật Bản trong nhiều vụ kiện liên quan đến cưỡng ép nô lệ tình dục đối với phụ nữ châu Á đã khẳng định rằng nạn nhân chiến tranh không có quyền yêu cầu bồi thường từ Nhật Bản theo luật quốc tế.[37]
Mặt khác, việc áp dụng và giải thích luật quốc tế bắt đầu cho thấy sự ghi nhận một nghĩa vụ của quốc gia khắc phục hậu quả do hành vi sai phạm quốc tế đối với cá nhân. Năm 2004, trong Ý kiến tư vấn về Hệ quả pháp lý của việc xây dựng bức tường tại Lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, ICJ đã khẳng định Israel có nghĩa vụ khắc phục hậu quả các vi phạm luật quốc tế của mình đối với mọi cá nhân và pháp nhân.[38] Mặc dù viện dẫn tập quán quốc tế về trách nhiệm khắc phục hậu quả của hành vi sai phạm trong Vụ Nhà máy Chorzow, ICJ không thật sự giải thích vì sao áp dụng tập quán đó rộng hơn phạm vi khuôn khổ quan hệ quốc gia - quốc gia truyền thống.[39] 20 năm sau, quan điểm trên tiếp tục được tòa ICJ khẳng định trong Ý kiến tư vấn về Hệ quả pháp lý phát sinh từ các chính sách và thực tiễn của Israel tại Lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, bao gồm Đông Jerusalem.[40]
Khác với luật quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia và luật nhân đạo quốc tế, luật nhân quyền quốc tế có sự ghi nhận rõ ràng hơn quyền của cá nhân yêu cầu bồi thường do hành vi sai phạm quốc tế đối với quốc gia. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, ICCPR) đã tạo ra nghĩa vụ bảo đảm khắc phục hiệu quả đối với các hành vi vi phạm quyền con người:[41]
“Mỗi quốc gia thành viên Công ước này có nghĩa vụ phải: [...] bất kỳ người nào có quyền hoặc tự do được công nhận trong Công ước này bị xâm phạm đều có quyền được hưởng một biện pháp khắc phục hiệu quả [...]”
Trong Bình luận chung số 31, Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc đã khẳng định rằng nghĩa vụ bảo đảm cung cấp biện pháp khắc phục hậu quả hàm chứa nghĩa vụ bảo đảm bồi thường phù hợp.[42] Ngày nay, luật nhân quyền quốc tế đã có sự công nhận rộng rãi đối với quyền yêu cầu bồi thường của cá nhân cũng như nghĩa vụ bồi thường của quốc gia.[43] Quyền và nghĩa vụ trên hiện nay đã được công nhận rộng rãi trong khuôn khổ luật nhân quyền quốc tế và có thể được thực hiện thông qua các cơ chế khu vực hoặc trong nước.[44]
Nhìn chung, dường như chỉ lĩnh vực luật nhân quyền quốc tế là công nhận quyền yêu cầu bồi thường của cá nhân đối với một quốc gia, trong khi luật quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia vẫn chưa tạo ra một cơ sở pháp lý rõ ràng. Dù vậy, việc bồi thường đối với cá nhân đối với các vi phạm luật nhân đạo quốc tế hay luật quốc tế nói chung có thể được thực thi thông qua nội luật của các quốc gia. Một ví dụ đó chính là Đạo luật các yêu cầu khởi kiện của người nước ngoài đối với hành vi sai trái cho phép tòa án Hoa Kỳ có thẩm quyền thụ lý đơn kiện dân sự đối với hành vi vi phạm luật giữa các quốc gia hoặc điều ước mà Hoa Kỳ tham gia.[45] Án lệ Hoa Kỳ đã khẳng định vi phạm thuộc phạm vi khởi kiện là những vi phạm nghĩa vụ quốc tế “cụ thể, phổ quát và bắt buộc”.[46] Tuy nhiên, mặc dù xác lập một quyền yêu cầu bồi thường, quyền đó vẫn có thể bị vô hiệu bởi quyền miễn trừ của quốc gia.[47] Các tòa án Nhật Bản và Đức cũng đã áp dụng quyền miễn trừ quốc gia để miễn trừ nghĩa vụ bồi thường của quốc gia đối với các tội ác của quân đội phát xít.[48] Tòa án tại Hy Lạp và Ý từng đưa ra phán quyết rằng quyền miễn trừ quốc gia không thể áp dụng đối với các tội ác vi phạm jus cogens và những tội ác nghiêm trọng như tội ác của phát xít Đức những đã không được chấp nhận bởi ICJ trong Vụ Quyền miễn trừ tài phán quốc gia.[49] Dù vậy, cũng có quan điểm cho rằng ICJ trong vụ nói trên đã bỏ quá tiến trình phát triển của luật quốc tế từ điều chỉnh mối quan hệ truyền thống quốc gia - quốc gia sang hướng tôn trọng và bảo đảm các quyền cơ bản của con người cũng như sự thu hẹp dần phạm vi áp dụng của quyền miễn trừ quốc gia, nhất là đối với các vi phạm nghiêm trọng quyền con người và luật nhân đạo quốc tế.[50]
Như vậy, kể cả khi nội luật ghi nhận quyền yêu cầu bồi thường của thể nhân đối với các vi phạm luật nhân đạo quốc tế hay luật quốc tế nói chung, luật quốc tế quyền miễn trừ hiện tại vẫn là một rào cản đối với việc thực thi quyền đó.
2. Thực tiễn áp dụng nghĩa vụ khắc phục hậu quả sau chiến tranh đối với Việt Nam sau năm 1975
2.1. Thực tiễn khắc phục hậu quả chiến tranh giữa Việt Nam - Hoa Kỳ
Trong chặng đường giải phóng dân tộc của Việt Nam, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (Hiệp định Paris) đóng một vai trò quan trọng trong việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam.[51] Sau hơn 20 năm chiến đấu kiên cường, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi, tiến đến khắc phục những hậu quả đau thương của chiến tranh và xây dựng, phát triển đất nước. Hiệp định Paris cũng ghi nhận điều khoản về việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đông Dương.[52] Sau 30 năm bình thường hóa quan hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những thành công nhất định trong việc hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh.
Cuộc chiến suốt hơn hai thập kỷ gây ra không ít những thiệt hại cho cả Hoa Kỳ và Việt Nam. Xét riêng về nhân mạng, đã có hơn 58.000 lính Mỹ ngã xuống trên đất Việt vì cuộc chiến tranh phi nghĩa,[53] chưa kể đến những tổn thất vật chất khác. Về phía Việt Nam, không chỉ thiệt hại về nhân mạng lên đến hơn 3 triệu người,[54] Việt Nam còn bị rải hơn 80 triệu lít chất hóa học, khiến hơn 4,8 triệu người bị di chứng do chất độc màu da cam, tàn phá biết bao xóm làng, thành phố.[55]
Năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa quan hệ, đi đến thiết lập quan hệ ngoại giao.[56] Hiện tại, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có 30 năm quan hệ ngoại giao với tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”.[57] Trong đó, khắc phục thiệt hại sau chiến tranh trở thành mục tiêu hàng đầu và là nền tảng quan trọng trong quan hệ của hai nước.[58] Việt Nam và Hoa Kỳ đã thực hiện nhiều kế hoạch nhằm giải quyết hậu quả chiến tranh, có thể kể đến như hoạt động khánh thành và bàn giao “Thao trường huấn luyện xử lý vật liệu nổ” Ba Vì do Hoa Kỳ tài trợ cho Bộ Quốc phòng Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ hai nước.[59] Ngoài ra, Việt Nam và Hoa Kỳ còn hợp tác trong việc xử lý ô nhiễm chất độc màu da cam; hỗ trợ người khuyết tật; hay tìm kiếm hài cốt của các chiến sĩ.[60] Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, thiết bị, công nghệ xét nghiệm ADN phục vụ công tác tìm kiếm các liệt sĩ.[61] Đồng thời, các cơ quan Việt Nam cũng phối hợp với Hoa Kỳ nhằm tìm kiếm và trao trả hài cốt của 733 quân nhân Mỹ mất tích trong cuộc chiến tại Việt Nam.[62]
Có thể thấy, quan hệ của Việt Nam và Hoa Kỳ đang phát triển tốt đẹp kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. Việc hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh là nền tảng quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ sâu sắc giữa hai bên, đóng góp vào quá trình hòa giải, hàn gắn lòng tin giữa hai nước.[63] Tính đến hiện tại, việc hợp tác khắc phục thiệt hại giữa hai nước đã có những thành công đáng kể. Trong tương lai, Việt Nam và Hoa Kỳ tiếp tục duy trì mối quan hệ ngoại giao sâu rộng, hòa bình, hướng tới lợi ích của nhân dân và đóng góp vào sự thịnh vượng của thế giới.[64]
2.2. Thực tiễn áp dụng nghĩa vụ trong vụ kiện của các nạn nhân chất độc da cam, bà Trần Tố Nga và bà Nguyễn Thị Thanh
2.2.1. Vụ kiện của các nạn nhân chất độc da cam và bà Trần Tố Nga
Bên cạnh các cuộc hành quân thảm sát gây ra nhiều thiệt hại về tài sản và nhân mạng, quân đội Hoa Kỳ còn tiến hành rải hàng triệu lít chất độc da cam trên chiến trường Việt Nam.[65] Chất độc da cam là một loại vũ khí của Hoa Kỳ nhằm chống chiến tranh du kích vì có khả năng phá hủy rừng nhiệt đới và đã gây ra nhiều hậu quả nặng nề kéo dài cho đến tận 50 năm sau khi cuộc chiến kết thúc.[66] Chất độc da cam là biểu hiện rõ ràng nhất của di sản khốc liệt của chiến tranh - các thế hệ trong gia đình những cựu chiến binh và nạn nhân chất độc da cam mắc nhiều chứng dị tật bẩm sinh và gánh chịu những dị tật đó suốt phần đời còn lại như cơ thể dị dạng hay thần kinh không ổn định.[67] Ngoài ra, chất độc da cam còn gây ra những ảnh hưởng nặng nề đến môi trường, nguồn nước và hệ sinh thái, tác động trực tiếp đến cuộc sống các thế hệ ngày nay.[68] Tuy vậy, những nạn nhân chất độc da cam chưa bao giờ được bù đắp xứng đáng.[69]
Năm 2004, Hội Nạn nhân chất độc da cam (Vietnam Association for Victims of Agent Orange, VAVA) đã khởi kiện công ty Dow, Monsanto và nhiều công ty khác vì cung cấp chất độc da cam cho quân đội Hoa Kỳ trong khi biết rõ các chất hóa học này có thể gây hại lên người.[70] VAVA cho rằng việc sử dụng hàng triệu lít chất độc da cam ở Việt Nam vi phạm luật nhân đạo quốc tế: (i) Chất độc da cam thuộc phạm vi cấm của Công ước Hague 1907, quy định cấm sử dụng vũ khí có độc hoặc nhiễm độc và (ii) Việc sử dụng chất độc da cam đã vi phạm nguyên tắc tương xứng vì thiệt hại của việc rải chất độc da cam một cách không phân biệt đối với dân thường và mục tiêu dân sự là vượt quá mức lợi thế quân sự cần đạt.[71] Tòa sơ thẩm Hoa Kỳ đã bác bỏ đơn khởi kiện của VAVA trên cơ sở: (i) Quy định cấm vũ khí có độc/nhiễm độc không bao gồm các loại khí gas hóa học, như được khẳng định trong Ý kiến tư vấn về Tính hợp pháp của việc đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ khí hạt nhân[72] và (ii) Nguyên tắc tương xứng phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người chỉ huy.[73] Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ giữ nguyên quan điểm rằng chất độc da cam không bị cấm trong chiến tranh và các tòa án dân sự không phù hợp để đánh giá quyết định của chính phủ liên bang về lợi thế quân sự cần đạt được.[74] Mặc dù vụ kiện nhằm vào các công ty sản xuất chất độc da cam thay vì Hoa Kỳ, có thể thấy rằng do ACTA của Hoa Kỳ chỉ cho phép nạn nhân chiến tranh khởi kiện đối với các vi phạm pháp luật quốc tế, sự hạn chế trong quy định của luật quốc tế đã ngăn cản việc bồi thường thích đáng cho các nhạn nhân chất độc da cam.
Tại Hàn Quốc, các cựu chiến binh tham gia tại chiến trường Việt Nam cũng đã khởi kiện các công ty trên với những thiệt hại mà chất độc da cam gây ra và được tòa án Hàn Quốc chấp nhận bồi thường.[75] Mặc dù trong bối cảnh cựu chiến binh Hàn Quốc khởi kiện tòa án quốc gia mình và các công ty Dow và Monsanto cũng không có tài sản tại Hàn Quốc để thi hành, việc không giới hạn phạm vi vi phạm được khởi kiện trong vi phạm luật quốc tế và chấp nhận yêu cầu bồi thường có ý nghĩa biểu tượng trong vấn đề tăng cường trách nhiệm của các công ty đối với các nạn nhân chất độc da cam.[76]
Vụ kiện gây tiếng vang gần đây nhất là vụ bà Trần Tố Nga kiện các công ty Dow, Monsanto và các công ty khác sản xuất chất độc da cam.[77] Do phơi nhiễm chất độc da cam, bà Trần Tố Nga đã phải chịu đựng nhiều căn bệnh ung thư, con gái bà đã mất khi mới 17 tháng tuổi do dị tật tim, hai người con khác bị khuyết tật về xương và tim, còn các cháu bà đều mắc phải nhiều di chứng khác.[78] Tuy nhiên, tòa án Pháp sơ thẩm và phúc thẩm đều đã bác bỏ đơn khởi kiện mà không xem xét các vấn đề nội dung trên cơ sở áp dụng quyền miễn trừ quốc gia do các công ty sản xuất chất độc da cam cung cấp hóa chất theo yêu cầu của Chính phủ Hoa Kỳ.[79] Phán quyết của tòa án Pháp là một bước lùi trong việc tăng cường trách nhiệm của các công ty phục vụ chiến tranh và bù đắp cho nạn nhân chất độc da cam.[80] Có thể thấy rằng, tòa án Pháp đã tuân theo quan điểm truyền thống về quyền miễn trừ quốc gia như trình bày tại phần 1.2. thay vì phân tích sự phát triển của luật quốc tế trong mối liên hệ đối với quyền được bồi thường các vi phạm luật nhân đạo/nhân quyền quốc tế nghiêm trọng.
2.2.2. Vụ bà Nguyễn Thị Thanh
Trong những năm tháng cao điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, quân đội Hàn Quốc tham gia có lúc chiếm gần 40% quân số quân đội nước ngoài tại chiến trường Việt Nam.[81] Quân đội Hàn Quốc đã tiến hành và tham gia tiến hành 1.170 cuộc hành quân quy mô lớn và trên trên 556.000 cuộc hành quân quy mô nhỏ.[82] Trong thời gian tại chiến trường Việt Nam, quân đội Hàn Quốc đã gây ra nhiều cuộc thảm sát (gần 9000 dân thường bị giết hại trong 80 cuộc thảm sát[83]) mà nổi tiếng là cuộc thảm sát Phong Nhất và Phong Nhị, giết chết 74 người, trong đó có nhiều nạn nhân là phụ nữ và trẻ em.[84]
Bà Nguyễn Thị Thanh, nạn nhân sống sót trong cuộc thảm sát Phong Nhất - Phong Nhị, đã phải chứng kiến mẹ và chị gái của mình bị giết hại và bản thân mang theo vết thương do đạn xé toang đã khởi kiện Chính phủ Hàn Quốc đòi bồi thường 30 triệu won.[85] Đối mặt với vụ kiện, Chính phủ Hàn Quốc cho rằng hành vi của quân đội Hàn Quốc là hợp lý trong bối cảnh chiến tranh du kích và đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh đã hết thời hiệu.[86]
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều đồng loạt bác bỏ phản đối của Chính phủ Hàn Quốc.[87] Tòa án Hàn Quốc đã yêu cầu Chính phủ Hàn Quốc phải bồi thường trên cơ sở Đạo luật Bồi thường thiệt hại của Nhà nước của Hàn Quốc cho phép cá nhân yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với các hành vi cố tình hay vô ý gây thiệt hại cho cá nhân khi đang được thực hiện vì mục đích công vụ và các hành vi giết hại dân thường là hoàn toàn bất hợp pháp.[88] Tòa án Hàn Quốc cũng nhận định rằng việc áp dụng thời hiệu là không phù hợp vì bà Nguyễn Thị Thanh đã gặp nhiều trở ngại đáng kể trong việc thực hiện quyền khởi kiện của mình.[89]
Trong bối cảnh luật nhân đạo quốc tế nói riêng và luật quốc tế nói chung chưa có sự công nhận quyền yêu cầu bồi thường của thể nhân, phán quyết của Tòa án Hàn Quốc có thể xem là một bước tiến đối với việc công nhận quyền được bù đắp cho những thiệt hại mà nạn nhân chiến tranh phải gánh chịu. Đối với mối quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc, phán quyết trên đã góp phần góp phần hiện thực hóa tinh thần “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai.”[90]
Kết luận: Thông qua bài viết trên, nhóm tác giả hy vọng mang đến những thông tin cơ bản nhất về luật quốc tế về khắc phục hậu quả sau chiến tranh và áp dụng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Nhờ có khắc phục hậu quả chiến tranh, công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh đã có nhiều thành công. Dẫu vậy, vẫn còn những nạn nhân chiến tranh vẫn chưa được bù đắp xứng đáng và tiếp tục đấu tranh cho công lý của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] ILC, ‘ARSIWA’ (2001), Điều 28.
[2] Malcolm N. Shaw, International Law (Cambridge University Press, 2008), 6th Edition, p.778.
[3] ILC, ‘ARSIWA’ (2001), Điều 2.
[4] [25] Pietro Sullo, Julian Wyatt, ‘War Reparations’ (Oxford Public International Law, 9/2015) <https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e432> truy cập ngày 26/04/2025.
[5] [9] ICRC, ‘What are jus ad bellum and jus in bello?’ (22/01/2015) <https://www.icrc.org/en/document/what-are-jus-ad-bellum-and-jus-bello-0> truy cập ngày 26/4/2025.
[6] Hiến chương Liên hợp quốc, Điều 2(4).
[7] Vụ Hoạt động quân sự và bán quân sự trên lãnh thổ Nicaragua (Nicaragua v. Mỹ), I.C.J Reports 1986, Phán quyết nội dung, p.188-190.
[8] ILC, ‘ARSIWA’ (2001), Chương II, Phần I.
[10] Jean-Marie Henckaets and Louise Doswald-Beck, Customary International Humanitarian Law (ICRC), Volume I, Chapter 42, Rule 149, p.530.
[11] Jean-Marie Henckaets and Louise Doswald-Beck, Customary International Humanitarian Law (ICRC), Volume I, Chapter 42, Rule 150, p. 537.
[12] [13] Vụ Nhà máy ở Chorzow (Đức v. Ba Lan), PCIJ Reports 1927, Phán quyết nội dung, Series A, No.17, p. 47.
[14] Vụ Gabcikovo - Nagymaros (Hungary v. Slovakia), I.C.J Reports 1997, p. 80, para. 149.
[15] Vụ M/V Saiga no.2 (Saint Vincent and Grenadines v. Guinea), ITLOS Reports 1999, p. 64-65.
[16] ILC, ‘ARSIWA’ (2001), Điều 31.
[17] ILC, ‘ARSIWA’ (2001), Điều 34.
[18] [20] [24] James Crawford, Alain Pellet, Simon Olleson, The Law of International Responsibility (Oxford University Press, 2010), p. 573.
[22] [23] James Crawford, Alain Pellet, Simon Olleson, The Law of International Responsibility (Oxford University Press, 2010), p. 573-574.
[26] Oona A. Hathaway, Maggie M. Mills & Thomas M. Poston, War Reparations: The Case for Countermeasures (Stanford Law Review, 5/2024), Volume 76, p. 975.
[27] Christian Tomuschat, ‘Individual Reparation Claims in Instances of Grave Human Rights Violations: The Position under General International Law’ in Albrecht Randelzhofer, Christian Tomuschat (eds), State Responsibility and the Individual - Reparation in Instances of Grave Violations of Human Rights (Martinus Nijhoff Publishers, 1999).
[28] Richard Falk, ‘Reparations, International Law and Global Justice: A New Frontier’ in De Greiff Pablo (ed), The handbook of reparations (Oxford University Press, 2006).
[29] Albrecht Randelzhofer, Christian Tomuschat (eds), State Responsibility and the Individual - Reparation in Instances of Grave Violations of Human Rights (Martinus Nijhoff Publishers, 1999); Cristián Correa, Shuichi Furuya, Clara Sandolval (eds), Reparation for Victims of Armed Conflict (Cambridge University Press, 2021); Claudio Grossman Guiloff, Reparation to individuals for gross violations of international human rights law and serious violations of international humanitarian law in Report of the International Law Commission, pp 358-369 (February 2021); Pietro Sullo, Julian Wyatt, ‘War Reparations’ (September 2015) <https://opil.ouplaw.com/display/10.1093/law:epil/9780199231690/law-9780199231690-e432> truy cập 28/5/2025; Shavana Musa, Victim Reparation under the Ius Post Bellum An Historical and Normative Perspective (Cambridge University Press, 2019).
[30] ILC, ‘Draft articles on Responsibility of States for Internationally Wrongful Acts (DARSIWA), with commentaries’ (2001), Điều 33(2).
[31] ILC, ‘DARSIWA with commentaries’ (2001), p. 95.
[32] ILC, ‘DARSIWA with commentaries’ (2001), p. 95; Christian Marxsen, Unpacking the International Law on Reparation for Victims of Armed Conflict in Christian Marxsen, Anne Peters (eds), ‘Reparation for Victims of Armed Conflict: Impulses from the Max Planck Trialogues’ (2019) Max Planck Institute for Comparative Public Law & International Law (MPIL) Research Paper No. 2018-19 <http://www.mpil.de/en/pub/publications/mpil-research-paper-series.cfm>.
[33] Vụ LaGrand (Đức v. Hoa Kỳ), Phán quyết nội dung, I. C. J. Reports 2001, para. 77.
[34] Công ước Hague 1907 về về Luật và Tập quán Chiến tranh trên Đất liền và Phụ lục của nó: Quy chế liên quan đến Luật và Tập quán Chiến tranh trên Đất liền, Điều 3; Nghị định thư bổ sung cho các Công ước Geneva ngày 12 tháng 8 năm 1949 liên quan đến bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang quốc tế (Nghị định thư I), Điều 91.
[35] Veronika Bílková, Victims of War and Their Right to Reparation for Violations of International Humanitarian Law (2007) 04 Miskolc Journal of International Law 1.
[36] Vụ thảm sát ở Distomo (Công dân Hy Lạp v. Cộng hòa Liên bang Đức) (2009) 135 ILR 186 (note); Elisabeth Handl, ‘Introductory Note to the German Supreme Court: Judgement in the Distomo Massacre Case’ (2003) 42 International Legal Materials 1027 (note); Andrea Bianchi, ‘Ferrini v. Federal Republic of Germany’ (2005) 99 AMIL 242 (note).
[37] Chinese Comfort Women v. Japan (Memory and Reconciliation in the Asia-Pacific) <https://memoryreconciliation.org/issues/comfort-women/china/> truy cập 28/4/2025; Korean Comfort Women v. Japan (Memory and Reconciliation in the Asia-Pacific) <https://memoryreconciliation.org/issues/comfort-women/korea/> truy cập 28/4/2025.
[38] [39] Hệ quả pháp lý của việc xây dựng bức tường tại Lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, Ý kiến tư vấn, I. C. J. Reports 2004, para. 152.
[40] Hệ quả pháp lý phát sinh từ các chính sách và thực tiễn của Israel tại Lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, bao gồm Đông Jerusalem, Ý kiến tư vấn, I.C.J Reports 2024, para. 269.
[41] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, ICCPR), Điều 2(3)(a).
[42] Human Rights Committee, ‘General comment no. 31 (80), The nature of the general legal obligation imposed on States Parties to the Covenant : International Covenant on Civil and Political Rights’ (29 March 2004), para. 16.
[43] Miguel Andrés López Martínez, The Grey Zones of Reparations for War Victims Under International Law (2003) 49 Verba Iuris 41.
[44] Cristián Correa, Shuichi Furuya, Clara Sandolval (eds), Reparation for Victims of Armed Conflict (Cambridge University Press, 2021), p. 114-116.
[45] Congressional Research Service, ‘The Alien Tort Statute: A Primer’ (January 11, 2022) <https://crsreports.congress.gov> truy cập 28/5/2025.
[46] [47] Sosa v. Alvarez-Machain, 542 U.S. 692 (2004) <https://supreme.justia.com/cases/federal/us/542/692/#tab-opinion-1961656> truy cập 28/5/2025.
[48] Markus Rau, ‘State Liability for Violations of International Humanitarian Law - The Distomo Case Before the German Federal Constitutional Court’ (2006) 7 German Law Journal 701; Chinese Comfort Women v. Japan (Memory and Reconciliation in the Asia-Pacific) <https://memoryreconciliation.org/issues/comfort-women/china/> truy cập 28/4/2025; Korean Comfort Women v. Japan (Memory and Reconciliation in the Asia-Pacific) <https://memoryreconciliation.org/issues/comfort-women/korea/> truy cập 28/4/2025.
[49] Pasquale De Sena, Francesca De Vittor, ‘State Immunity and Human Rights: The Italian Supreme Court Decision on the Ferrini Case’ (2005) 16 European Journal of International Law 89; Elisabeth Handl, ‘Introductory Note to the German Supreme Court: Judgement in the Distomo Massacre Case’ (2003) 42 International Legal Materials 1027 (note); Vụ Quyền miễn trừ tài phán quốc gia (Đức v. Ý, Hy Lạp can thiệp), Phán quyết nội dung, I.C.J. Reports 2012, p. 99.
[50] Vụ Quyền miễn trừ tài phán quốc gia (Đức v. Ý, Hy Lạp can thiệp), Ý kiến phản đối của Thẩm phán Cincado Trinade, I.C.J. Reports 2012, p. 179; Vụ Quyền miễn trừ tài phán quốc gia (Đức v. Ý, Hy Lạp can thiệp), Ý kiến phản đối của Thẩm phán Yusuf, I.C.J. Reports 2012, p. 291; Vụ Quyền miễn trừ tài phán quốc gia (Đức v. Ý, Hy Lạp can thiệp), Ý kiến phản đối của Thẩm phán vụ việc Gaja, I.C.J. Reports 2012, p. 309.
[51] [57] [62] [63] [64] Trần Chí Trung, Vũ Thị Hoài, ‘Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kì: Từ chiều sâu lịch sử đến hiện tại và tương lai’ (Tạp chí Cộng sản, 13/10/2023) <https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-binh-luan/-/asset_publisher/DLIYi5AJyFzY/content/quan-he-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-nam-hoa-ky-tu-chieu-sau-lich-su-den-hien-tai-va-tuong-lai> truy cập ngày 27/4/2025.
[52] Hiệp định Paris, Điều 21.
[53] [54] Trung Hiếu, ‘Ký ức kháng chiến chống Mỹ của người Việt qua lời kể của nhà báo Mỹ’ (VOV Tiếng nói Việt Nam, 20/4/2015) <https://vov.vn/xa-hoi/ky-uc-khang-chien-chong-my-cua-nguoi-viet-qua-loi-ke-cua-nha-bao-my-396078.vov> truy cập ngày 27/4/2025.
[55] Minh Chuyên, ‘Hậu quả chiến tranh qua góc nhìn của các nhà văn - cựu binh Mỹ’ (Báo Nhân dân, 20/7/2014) <https://nhandan.vn/hau-qua-chien-tranh-qua-goc-nhin-cua-cac-nha-van-cuu-binh-my-post208767.html> truy cập ngày 27/4/2025.
[56] ‘Những dấu mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ’ (Tạp chí Cộng sản, 27/6/2007) <https://www.tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/2581/nhung-dau-moc-quan-trong-trong-quan-he-viet-nam---hoa-ky.aspx> truy cập ngày 27/4/2025.
[58] Thạch Huệ, ‘Hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh là nền tảng trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ’ (Báo Điện tử Chính phủ, 20/3/2025) <https://baochinhphu.vn/hop-tac-khac-phuc-hau-qua-chien-tranh-la-nen-tang-trong-quan-he-viet-nam-hoa-ky-102250320163817617.htm> truy cập ngày 27/4/2025.
[59] [60] Viết Tôn, ‘Việt Nam - Hoa Kỳ là hình mẫu trong quan hệ giải quyết hậu quả sau chiến tranh’ (Tin tức Thông tấn xã Việt nam, 04/04/2025) <https://baotintuc.vn/chinh-tri/viet-nam-hoa-ky-la-hinh-mau-trong-quan-he-giai-quyet-hau-qua-sau-chien-tranh-20250404120348990.htm> truy cập ngày 27/4/2025.
[61] ‘Việt Nam và Hoa Kỳ hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh’ (Báo Nhân Dân, 10/9/2024) <https://nhandan.vn/viet-nam-va-hoa-ky-hop-tac-khac-phuc-hau-qua-chien-tranh-post829705.html> truy cập ngày 27/4/2025.
[65] Errin Elliott, Anisha Ratnam (ed), ‘Navigating Conflict: The Influence of International Law in the Vietnam War’ (Durham Asian Law Journal, March 11, 2025) <https://www.durhamasianlawjournal.com/post/navigating-conflict-the-influence-of-international-law-in-the-vietnam-war> truy cập 27/4/2025.
[66] ‘50 years of agent orange/dioxin disaster in Vietnam’ (Ministry of National Defence, 27/4/2025) <https://mod.gov.vn/en/intro/detail/!ut/p/z0/dYqxDoIwFEW_xvHltVigHWFwMMZEYwx0MYUWqEIr2Bg-X6KTMU73nJOLEguUTj1tq4L1TvWLlzK5bLL9kec0I-S0i8ghZ-dYiHTNRIpblG3vq8_VXsdRZihr74KZAxaD1yvyULAsGPdG48CHzkxfAn5qfwJo62fr_nWoOzPYWvUrIlTc0CihYCreAIspAy60Al3phpCUC0YTvN9k-QLs57D7/> truy cập 27/4/2025; Dennis Normile, ‘The Fog of War’ (Science, April 24, 2025) <https://www.science.org/content/article/vietnam-health-effects-agent-orange-remain-uncertain-50-years-later> truy cập 17/4/2025
[67] ‘Hậu quả nặng nề của chất độc da cam ở Việt Nam’ (Báo Nhân dân, 14/6/2004) <https://nhandan.vn/hau-qua-nang-ne-cua-chat-doc-da-cam-o-viet-nam-post468143.html> truy cập 27/4/2025; Michael G. Palmer, ‘The Case of Agent Orange’ [2007] 29 Contemporary Southeast Asia 172.
[68] ‘Một số số liệu về nạn nhân chất độc da cam/điôxin’ (Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 30/08/2012) <https://mod.gov.vn/vn/noi-dung/sa-ttk/sa-ttdv-tochuchoi/sa-ttk-ctch-hnncddc/sa-ttk-ctch-hnncddc-tl/6966f6b8-3398-439d-a4df-fa2f3143e153> truy cập 27/4/2025; Lauren Quinn, ‘Toxic byproducts of Agent Orange continue to pollute Vietnam environment, study says’ (ACES News, February 27, 2019) <https://aces.illinois.edu/news/toxic-byproducts-agent-orange-continue-pollute-vietnam-environment-study-say> truy cập 27/4/2025.
[69] George Black, ‘The Victims of Agent Orange the U.S. Has Never Acknowledged’ (The New York Times, 16/3/2021) <https://www.nytimes.com/2021/03/16/magazine/laos-agent-orange-vietnam-war.html> truy cập 27/4/2025.
[70] ‘Association renews lawsuit in US for Agent Orange victims’ (Viet Nam News, 18/4/2019) <https://vietnamnews.vn/society/518841/association-renews-lawsuit-in-us-for-agent-orange-victims.html> truy cập 27/4/2025.
[71] Anthea Roberts, ‘The Agent Orange Case: Vietnam Ass'n for Victims of Agent Orange/Dioxin v. Dow Chemical Co’ [2005] 99 American Society of International Law 380.
[72] Ý kiến tư vấn về tính hợp pháp của việc đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ khí hạt nhân, Ý kiến tư vấn, 1.C.J. Reports 1996, p. 226, 248.
[73] In Re Agent Orange Product Liability Litigation, 373 F. Supp. 2d 7, 2005 WL 729177, p. 105 - 136 <https://www.courtlistener.com/opinion/2312256/in-re-agent-orange-product-liability-litigation/?show_alert_modal=yes&q=cites%3A%288687390%29> truy cập 27/4/2025.
[74] In Re Agent Orange" Product Liability Litigation, 517 F.3d 76, 2008 WL 465659, p. 88-104 <https://www.courtlistener.com/opinion/1463027/in-re-agent-orange-product-liability-litigation/?show_alert_modal=yes&q=cites%3A%282312256%29#pdf> truy cập 27/4/2025.
[75] ‘Agent Orange Makers Lose S. Korea Suit’ (CBS News, 26/1/2006) <https://www.cbsnews.com/news/agent-orange-makers-lose-s-korea-suit/> truy cập 27/4/2025; ‘South Korea's top court upholds Agent Orange payout’ (South China Morning Post, 13/7/2023) <https://www.scmp.com/news/asia/article/1281292/south-koreas-top-court-upholds-agent-orange-payout> truy cập 27/4/2025.
[76] Ilaria Bottigliero, ‘Can corporations be held legally responsible for serious human rights violations?’ (2006), retrieved from https://hdl.handle.net/1887/12735
[77] ‘Long walk to find justice in Agent Orange toxic debacle’ (Viet Nam News, 31/8/2024) <https://vietnamnews.vn/talk-around-town/1662083/long-walk-to-find-justice-in-agent-orange-toxic-debacle.html> truy cập 27/4/2025.
[78] Khải Hoàn, Minh Duy, ‘Tiếp tục đấu tranh cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam’ (Báo Nhân dân, 23/8/2024) <https://nhandan.vn/tiep-tuc-dau-tranh-cho-nan-nhan-chat-doc-da-cam-viet-nam-post826264.html> truy cập 27/4/2025.
[79] Par Martine Valo, ‘« Agent orange » : la justice déboute Tran To Nga’ (Le Monde, May 10, 2021) <https://www.lemonde.fr/societe/article/2021/05/10/agent-orange-la-justice-deboute-tran-to-nga_6079790_3224.html> truy cập 27/5/2024.
[80] ‘Việt Nam regrets French court's decision to throw out Agent Orange lawsuit’ (Viet Nam News, 13/5/2021) <https://vietnamnews.vn/politics-laws/947201/viet-nam-regrets-french-court-s-decision-to-throw-out-agent-orange-lawsuit.html> truy cập 27/4/2025.
[81] [82] Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, ‘Quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam qua tài liệu của Trung tâm lưu trữ quốc gia II’ <https://baotangchungtichchientranh.vn/quan-doi-han-quoc-trong-cuoc-chien-tranh-cua-my-o-viet-nam-qua-tai-lieu-cua-trung-tam-luu-tru-quoc-gia-ii/116/> truy cập 26/04/2025.
[83] Phan Xuan Dung, ‘Vietnamese War Victims’ Struggle for Justice: A Tale of Two Lawsuits’ (The Diplomat, 17/10/2020) <https://thediplomat.com/2022/10/vietnamese-war-victims-struggle-for-justice-a-tale-of-two-lawsuits/> truy cập 26/4/2025.
[84] Hoài Văn, ‘Xin lỗi Việt Nam’ (Báo Tiền phong, 07/5/2023) <https://tienphong.vn/xin-loi-viet-nam-post1531770.tpo> truy cập 26/4/2025.
[85] Văn Đức. ‘Tòa Hàn Quốc yêu cầu chính phủ bồi thường nạn nhân vụ thảm sát ở Quảng Nam’ (Liên đoàn Luật sư Việt Nam, 08/02/2023) <https://liendoanluatsu.org.vn/toa-han-quoc-yeu-cau-chinh-phu-boi-thuong-nan-nhan-vu-tham-sat-o-quang-nam/> truy cập 26/4/2025.
[86] ‘Court Upholds Order for Seoul to Compensate Victim of Civilian Massacre during Vietnam War’ (KBS World, 17/1/2025) <https://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=e&Seq_Code=190404> truy cập 26/04/2025.
[87] ‘South Korea court rules in favour of Vietnam War massacre victim’ (Al Jazeera, 7/2/2023) <https://www.aljazeera.com/news/2023/2/7/s-korea-court-rules-in-favour-of-vietnam-war-massacre-victim> truy cập 26/4/2025.
[88] Namju Kim, ‘Efforts continue to uncover the truth about the massacre by South Korean troops during the Indochina Wars’ (FES Asia Editorial, 12/11/2024) <https://asia.fes.de/news/efforts-continue-to-uncover-the-truth-about-the-massacre-by-south-korean-troops-during-the-vietnam-war.html > truy cập 26/4/2025; Jess Hwang, ‘The Nguyen Decision: The Landmark Decision Finding South Korea’s Liability of Phong Ni Massacre and its Future Implications in Modern East Asian Politics’ (University of Miami - School of Law, 28/2/2023) <https://international-and-comparative-law-review.law.miami.edu/the-nguyen-decision-the-landmark-decision-finding-south-koreas-liability-of-phong-ni-massacre-and-its-future-implications-in-modern-east-asian-politics/> truy cập 26/4/2025; Republic of Korea’s State Compensation Act, Article 2(1).
[89] Jess Hwang, ‘The Nguyen Decision: The Landmark Decision Finding South Korea’s Liability of Phong Ni Massacre and its Future Implications in Modern East Asian Politics’ (University of Miami - School of Law, 28/2/2023) <https://international-and-comparative-law-review.law.miami.edu/the-nguyen-decision-the-landmark-decision-finding-south-koreas-liability-of-phong-ni-massacre-and-its-future-implications-in-modern-east-asian-politics/> truy cập 26/4/2025.
[90] Song Minh, ‘Việt Nam hoan nghênh phán quyết của tòa Hàn Quốc’ (Báo Lao động, 23/01/2025) <https://laodong.vn/thoi-su/viet-nam-hoan-nghenh-phan-quyet-cua-toa-han-quoc-1453984.ldo> truy cập 27/4/2025.
Comments