top of page
icj 1.jpeg

[49] BẢO VỆ PHỤ NỮ KHỎI BẠO LỰC GIA ĐÌNH DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

  • Đinh Văn Khiêm, Phạm Thanh Huyền
  • 8 thg 3
  • 21 phút đọc

Đã cập nhật: 14 thg 3

Tác giả: Đinh Văn Khiêm, Phạm Thanh Huyền

 

Tóm tắt: Bạo lực gia đình là một trong những vấn đề về quyền con người đáng được quan tâm, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của xã hội. Đây không chỉ là một thách thức đối với từng quốc gia mà còn mang tính toàn cầu, đòi hỏi sự quan tâm của hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế. Nhìn lại hành trình đấu tranh vì quyền của phụ nữ, ngày Quốc tế Phụ nữ 08/03 không chỉ là dịp tôn vinh những đóng góp của họ mà còn nhắc nhở về những nỗ lực nhằm bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực và bất bình đẳng. Dù hệ thống pháp luật đã có nhiều tiến bộ, song thực tế vẫn cho thấy nhiều khoảng trống trong thực thi và cơ chế bảo vệ. Nhằm tri ân ngày Quốc tế Phụ nữ 08/03, bài nghiên cứu phân tích các quy định pháp lý về bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Đồng thời, bài viết cũng xem xét thực trạng thực thi pháp luật và những thách thức đặt ra trong lĩnh vực này, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong bối cảnh hiện nay.


Từ khóa: bạo lực gia đình, Công ước CEDAW, Luật phòng chống bạo lực gia đình.


1. Quy định về bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình theo Luật Quốc tế

1.1. Khái niệm

Bạo lực gia đình (“domestic abuse”, cũng có thể được gọi là “domestic violence - BLGĐ) được định nghĩa là các hành vi lạm dụng, trong đó một cá nhân giành quyền kiểm soát với cá nhân khác,[1] bao gồm nhiều hình thức lạm dụng (thể chất, tình dục, kinh tế, cảm xúc và tâm lý) đối với trẻ em, người trưởng thành và người cao tuổi.[2] 


BLGĐ đối với trẻ em (child abuse) là bất kỳ hành vi bạo hành về tinh thần, thể chất, tình dục hoặc sự bỏ mặc đối với trẻ em dưới 18 tuổi do cha mẹ, người giám hộ hoặc người chăm sóc thực hiện, gây ra hoặc có nguy cơ gây ra.[3] Đối với hành vi BLGĐ mà đối tượng là bạn đời/ bạn tình (intimate partner violence), thuật ngữ này có thể được hiểu là một chuỗi hành vi[4] có tính hệ thống trong một mối quan hệ, nhằm giành quyền kiểm soát hoặc duy trì sự thống trị đối với vợ/chồng hay bạn tình (intimate partner), có thể bao gồm các hành động hoặc đe dọa về thể chất, tình dục, tinh thần, kinh tế hoặc tâm lý, gây ảnh hưởng đến nạn nhân.[5] Hành vi này có thể xảy ra trong một loạt mối quan hệ, bao gồm các cặp đôi đã kết hôn, sống chung hoặc hẹn hò, bất kể là mối quan hệ đồng tính hay dị tính.[6] Ngoài ra, BLGĐ có thể xảy ra đối với cả nam giới - đối tượng thường được cho là người gây ra bạo hành.[7] Hành vi BLGĐ với người cao tuổi (elder abuse) được hiểu là hành vi bạo lực hoặc sự thiếu trách nhiệm có chủ ý của người chăm sóc, gây ra hoặc tạo nguy cơ gây ra tổn hại đối với người cao tuổi.[8]


BLGĐ có thể xảy ra đối với bất kỳ ai, không phân biệt chủng tộc, độ tuổi, xu hướng tính dục, tôn giáo hay giới tính và gây ảnh hưởng đến mọi cá nhân, bất kể điều kiện kinh tế - xã hội hay trình độ học vấn.[9] Để phù hợp với mục đích bài viết được nhóm tác giả đề cập trong phần Tóm tắt, bài viết tập trung nghiên cứu về BLGĐ mà đối tượng trực tiếp là phụ nữ.


1.2. Quy định về bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình theo luật quốc tế

BLGĐ được công nhận trong luật quốc tế là một hành vi vi phạm quyền con người.[10] Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, nhóm tác giả xem xét các điều ước quốc tế và văn bản pháp lý quốc tế liên quan quy định về bảo vệ phụ nữ khỏi BLGĐ, dựa vào ba khía cạnh chính mà BLGĐ vi phạm quyền con người: (i) xâm phạm các quyền cơ bản như quyền sống và an toàn cá nhân, (ii) vi phạm nguyên tắc bình đẳng và (iii) vi phạm lệnh cấm tra tấn.[11]


Về (i) xâm phạm các quyền cơ bản như quyền sống, tự do và an toàn cá nhân: Việc sử dụng các hành động hoặc đe dọa về thể chất, tình dục, tinh thần, kinh tế hoặc tâm lý trong BLGĐ với tần suất có xu hướng ngày càng tăng có thể gây ra các tổn thất về mặt tâm lý và/hoặc thương tích nghiêm trọng, thậm chí là tử vong.[12] Từ đó, có thể thấy rằng BLGĐ đã xâm phạm các quyền cơ bản của con người như quyền sống, tự do và an toàn cá nhân. Điều 3 của Tuyên ngôn Quốc tế về quyền con người (UDHR) khẳng định rằng: “Mọi người đều có quyền được sống, tự do và an toàn cá nhân”.[13] Ngoài ra, các quyền khác được quy định trong Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR)  và Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR), chẳng hạn như quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật[14] và quyền được hưởng tiêu chuẩn sức khỏe thể chất và tinh thần cao nhất,[15] cũng có liên quan đến các trường hợp BLGĐ, đòi hỏi nghĩa vụ ngầm định về bảo vệ phụ nữ khỏi BLGĐ bởi những quốc gia thành viên của các công ước này.[16]


Về (ii) vi phạm nguyên tắc bình đẳng: BLGĐ vi phạm nguyên tắc bình đẳng do hành vi này được dựa trên cơ sở giới, trong đó nạn nhân thường là vợ hoặc bạn tình, con gái (trong trường hợp cha gây bạo lực với con gái), mẹ (trong trường hợp con trai gây bạo lực với mẹ), mà người gây bạo lực thường là nam giới.[17] Công ước về Xóa bỏ Mọi Hình thức Phân biệt đối xử đối với Phụ nữ (CEDAW), giống như các văn kiện về quyền con người được đề cập ở trên, không đề cập trực tiếp mà chỉ nhắc đến “lên án hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ dưới mọi hình thức”,[18] có thể hiểu là bao gồm cả hành vi BLGĐ đối với phụ nữ. Điều này được đề cập rõ ràng hơn trong Khuyến nghị chung số 19 của Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ (Khuyến nghị chung số 19).[19] Khuyến nghị chung số 19 đã làm rõ khái niệm của BLGĐ, phạm vi cũng như nguyên nhân xảy ra bạo lực (quan niệm truyền thống, sự thiếu độc lập về kinh tế và sự thoái thác trách nhiệm của nam giới) và hậu quả của BLGĐ.[20]


Về (iii) vi phạm lệnh cấm tra tấn: Khuyến nghị chung số 19 khẳng định rằng bạo lực đối với phụ nữ, trong đó có BLGĐ là hành vi vi phạm quyền không bị tra tấn hoặc không bị đối xử hay trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục.[21] Quan điểm này cũng được Ủy ban Chống tra tấn[22] ủng hộ thông qua Bình luận chung số 2, cụ thể: Nhà nước phải chịu trách nhiệm nếu không ngăn chặn, điều tra, truy tố hoặc trừng phạt các hành vi tra tấn hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục được thực hiện bởi các chủ thể phi nhà nước.[23] Ủy ban đã áp dụng nguyên tắc này đối với các trường hợp quốc gia thành viên không ngăn chặn và bảo vệ nạn nhân khỏi bạo lực trên cơ sở giới, bao gồm hiếp dâm, BLGĐ, cắt bộ phận sinh dục nữ và buôn bán người.[24]


2. Quy định bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình theo pháp luật Việt Nam

Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có những quy định tương đối hiệu quả trong vấn đề bảo vệ phụ nữ khỏi BLGĐ. Trong nội dung này, nhóm tác giả sẽ khai thác những quy định này từ những văn bản quy phạm pháp luật mang tính bao quát như Hiến Pháp 2013, Bộ luật Hình sự 2015, đến những văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hơn như Luật phòng chống bạo lực gia đình 2022.

 

2.1. Hiến pháp 2013 và Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi năm 2017

Hiến pháp 2013 và Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi năm 2017 (“BLHS 2015”) đã đặt ra những quy định cơ bản có liên quan đến bảo vệ phụ nữ khỏi BLGĐ, bạo lực giới, cụ thể như quyền bình đẳng giữa nam và nữ, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, cũng như việc bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình tự nguyện, bình đẳng.


Hiến pháp 2013 quy định quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử của tất cả mọi người trước pháp luật và trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.[25] Về vấn đề giới, công dân nam và nữ bình đẳng, việc phân biệt đối xử về giới bị nghiêm cấm.[26] Về tính mạng con người, không ai có quyền tước đoạt tính mạng người khác trái với luật.[27] Về thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, Hiến pháp 2013 quy định không một ai bị bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất cứ hình thức nào xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm của mình.[28] Về vấn đề hôn nhân và gia đình, hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện và nguyên tắc “vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”, bên cạnh đó, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, người mẹ và trẻ em.[29]


Trong BLHS 2015, nếu các hành vi BLGĐ cấu thành đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm tại BLHS 2015 sẽ bị xử lý hình sự theo quy định của pháp luật. Cụ thể như các tội giết người, tội đe doạ giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hành hạ người khác, tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội bức tử, tội làm nhục người khác.[30] Trực tiếp liên quan đến các tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, BLHS 2015 quy định các tội phạm như tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở hôn nhân tự nguyện, tội ngược đãi ông bà cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình.[31]


2.3. Luật phòng chống bạo lực gia đình 2022

Luật phòng chống bạo lực gia đình (“LPCBLGĐ”) 2022 tiếp tục kế thừa những điều khoản còn phù hợp của LPCBLGD 2007, sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập từ thực tế thực thi LPCBLGĐ 2007 nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi,[2] [3]  tạo cơ sở và khung pháp luật cần thiết cho hoạt động PCBLGĐ tại Việt Nam.[32] LPCBLGĐ 2022 tiếp tục cụ thể hóa nội dung, quy định của Hiến pháp năm 2013 về “quyền con người, quyền công dân, xây dựng và phát triển gia đình, bảo vệ các đối tượng yếu thế ngay trong mỗi gia đình”.[33] Đồng thời, LPCBLGĐ 2022 góp phần thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia về vấn đề BLGĐ, bảo vệ phụ nữ khỏi các hành vi bạo lực hay phân biệt đối xử.[34]


LPCBLGĐ 2022 nêu rõ nội hàm của hành vi BLGĐ là “hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”.[35] Đây là một trong những điểm mới mà LPCBLGĐ 2022 đã có so với LPCBLGĐ 2007 khi bổ sung thêm hậu quả gây tổn hại về “tình dục” vào phần định nghĩa của BLGĐ. Điều này phản ánh rõ hơn và toàn diện hơn các hình thức BLGĐ đối với phụ nữ bao gồm bạo lực thể chất, tinh thần, tình dục và kinh tế. Cùng với đó, LPCBLGĐ 2022 còn liệt kê 16 hành vi được coi là BLGĐ so với 09 hành vi ở LPCBLGĐ 2007 tại Điều 3 của Luật.

LPCBLGĐ 2022 đã mở rộng đối tượng có nguy cơ bị BLGĐ ra các đối tượng ngoài hôn nhân, đồng thời bổ sung các quyền đối với người bị bạo lực gia đình.[36] Cụ thể, người có thể bị BLGĐ không chỉ đơn thuần giữa các thành viên trong gia đình mà còn bao gồm những người đã ly hôn, người chung sống như vợ chồng; cha, mẹ, con riêng, anh chị em của những người đã ly hôn hoặc chung sống như vợ chồng, cũng như những người có quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi với nhau.[37] Người bị BLGĐ được bảo vệ theo Luật này và có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác có liên quan đến hành vi bạo lực gia đình; yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ; được bố trí nơi tạm lánh; được cung cấp dịch vụ y tế, tâm lý.[38] LPCBLGĐ 2022 đã bổ sung thêm các quyền được giữ bí mật về nơi tạm lánh và đời sống riêng tư, bí mật cá nhân; được thông tin về quyền, nghĩa vụ của mình; được yêu cầu người có hành vi BLGĐ bồi thường thiệt hại và có quyền khiếu nại, tố cáo người có hành vi bạo lực gia đình.[39]


Người có hành vi BLGĐ có trách nhiệm chấm dứt hành vi bạo lực, chấp hành yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa, đưa người bị BLGĐ đi cấp cứu, điều trị, và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.[40] Bên cạnh đó, người có hành vi BLGĐ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.[41] 


Ngoài ra, LPCBLGĐ 2022 còn quy định mục đích, yêu cầu trong thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng chống bạo lực gia đình; quản lý nhà nước về phòng, chống BLGĐ; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống BLGĐ.[42] 


3. Thực tiễn bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình trên thế giới và Việt Nam

3.1. Thực tiễn bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình trên thế giới

Trong những năm gần đây, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao địa vị bình đẳng của phụ nữ, nhưng do nhiều yếu tố khác nhau mà ở nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo lực đối với phụ nữ vẫn diễn ra thường xuyên dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau.[43] Theo một nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ở cấp độ toàn cầu, cứ 3 phụ nữ thì có 1 người phải đối mặt với bạo lực về thân thể hoặc tình dục, mà trong số thủ phạm có cả chồng hoặc bạn trai của họ.[44] Hầu hết các vụ bạo lực đối với phụ nữ do bạn trai hoặc người chồng hiện tại/chồng cũ gây ra. Hơn 640 triệu phụ nữ từ 15 tuổi trở lên đã phải chịu sự bạo hành do bạn tình gây ra (tương đương 26% phụ nữ từ 15 tuổi trở lên).[45]


Theo một báo cáo khác của Văn phòng Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm, trên toàn cầu, 81.000 phụ nữ và trẻ em gái đã bị giết vào năm 2020. Khoảng 47.000 người trong số họ (58%) bị chết dưới tay của người bạn đời hoặc một thành viên trong gia đình, tương đương với cứ 11 phút lại có 1 phụ nữ hoặc trẻ em gái bị giết tại nhà của họ.[46]


Trong một báo cáo khác của Liên hợp quốc vào tháng 11/2021, “Đại dịch trong bóng tối” là cách mà cơ quan này gọi bạo lực đối với phụ nữ.[47] Trong một cuộc khảo sát khác, hơn 2/3 phụ nữ được khảo sát đến từ 13 quốc gia cho biết BLGĐ tăng trong thời gian đại dịch COVID-19 diễn ra tại nơi họ sinh sống.[48]


Mặc dù BLGĐ đối với phụ nữ đã thu hút sự quan tâm của Liên hợp quốc, khuôn khổ pháp lý quốc tế vẫn chưa thực sự tương xứng với mức độ nghiêm trọng của vấn đề.[49] Dù bạo lực đối với phụ nữ, trong đó có BLGĐ, là vi phạm nhân quyền phổ biến và nghiêm trọng, hiện vẫn chưa có văn kiện quốc tế quy định về đề cập cụ thể đến vấn đề này,[50] cũng như chỉ mang ý nghĩa định hướng chính sách chứ không mang tính chất ràng buộc về mặt pháp lý.[51] Do đó, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế nhằm ngăn chặn bạo lực với phụ nữ tiếp tục là nhiệm vụ cấp thiết trong thời gian tới.


3.2. Thực tiễn bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình tại Việt Nam

Theo kết quả của cuộc điều tra lần thứ hai bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổng cục Thống kê thực hiện, với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) và Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT), Đại sứ quán Australia tại Việt Nam, có những thông tin đáng lưu ý sau về thực trạng BLGĐ năm 2019. Thứ nhất, kết quả cho thấy có đến 62,9% phụ nữ đã từng bị một hoặc nhiều hơn các hình thức bạo lực (thể xác, tình dục, tinh thần, bạo lực kinh tế và kiểm soát hành vi) do chồng gây ra trong đời.[52] Tỷ lệ phụ nữ bị chồng/bạn tình bạo lực thể xác, tình dục, kinh tế, tinh thần lần lượt là 26,1%; 13,3%; 20,6% và 47%.[53] Tuy nhiên, đến 90,4% phụ nữ bị bạo lực thể xác và/hoặc tình dục do chồng/bạn tình gây ra lại không tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cơ quan chính quyền, và một nửa trong số đó chưa từng kể với ai về tình trạng của mình.[54] Thứ hai, tình trạng phụ nữ bị bạo lực đã gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam 1,8% GDP năm 2018.[55] Cuối cùng, tình trạng bạo lực đối với phụ nữ đã có chuyển biến tích cực khi kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ ở tất cả các hình thức bạo lực ngoại trừ bạo lực tình dục ở năm 2019 đều thấp hơn so với năm 2010 (lần nghiên cứu thứ nhất).[56]


Các số liệu trên được lấy từ kết quả nghiên cứu từ năm 2019, tuy rằng số liệu có thể đã cũ, cùng với đó là hành lang pháp lý năm 2019 thời điểm đó chưa cập nhật hơn so với thời điểm hiện tại (khi áp dụng LPCBLGĐ 2007 so với luật mới có nhiều cập nhật năm 2022), song đây là nguồn số liệu về lần nghiên cứu gần nhất và tổng quát nhất về vấn đề BLGĐ đối với phụ nữ ở Việt Nam mà nhóm tác giả có thể tiếp cận được. Dựa trên những số liệu trên, có thể thấy rằng vấn đề BLGĐ với phụ nữ vẫn còn tồn tại, và vẫn cần nhiều hơn nữa các nỗ lực để bảo vệ phụ nữ. Song, tình hình đã có chuyển biến tích cực hơn khi tỷ lệ phụ nữ bị các dạng bạo lực đã giảm nhẹ, ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi đang có nhiều thay đổi tích cực trong đấu tranh với bạo lực, đặc biệt đối với người có trình độ học vấn cao.[57]


Hiện nay, những nỗ lực bảo vệ phụ nữ khỏi BLGĐ vẫn tiếp tục được duy trì và thúc đẩy. Ngày 28/10/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 2232/QĐ-TTg: Phê duyệt Chương trình Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021 - 2025 với mục tiêu chung: “Tiếp tục thực hiện công tác phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, ngăn chặn sự gia tăng của tình trạng này thông qua việc nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân và phát triển, tăng cường khả năng đáp ứng của các cơ sở cung cấp dịch vụ phòng ngừa, ứng phó với bạo lực cơ sở giới”.[58] Tiếp đó, ngày 03/3/2021, Chính Phủ ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP của Chính phủ: Ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030. Mục tiêu của nghị quyết đối với vấn đề BLGĐ là: “Đến năm 2025 đạt 80% và đến 2030 đạt 90% người bị bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện được tiếp cận ít nhất một trong các dịch vụ hỗ trợ cơ bản; đến năm 2025 đạt 50% và đến năm 2030 đạt 70% người gây bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện ở mức chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự được tư vấn, tham vấn”.[59] Nghị quyết đề ra nhiệm vụ xây dựng và triển khai các chương trình thúc đẩy bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực giới, bao gồm: nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về bình đẳng giới, tích hợp nội dung bình đẳng giới vào giáo dục, nâng cao năng lực cho cán bộ pháp chế, lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật, và thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.[60]


Tóm lại, Việt Nam hiện đã và đang xây dựng khung pháp lý bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực gia đình, bao gồm các quy định trong Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Nhóm tác giả cho rằng, với khung pháp lý tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, cùng chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong giai đoạn tới, tình hình BLGĐ đối với phụ nữ tại Việt Nam sẽ tiếp tục được cải thiện, góp phần xây dựng một xã hội an toàn và công bằng hơn cho phụ nữ trong tương lai.

 

Kết luận: BLGĐ là những vấn đề nghiêm trọng, đe dọa quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em gái. Mặc dù khuôn khổ pháp lý quốc tế về phòng chống bạo lực đối với phụ nữ đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên  vẫn thiếu cơ chế ràng buộc để đảm bảo thực thi hiệu quả. Tại Việt Nam, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được ban hành, nhưng thực tế triển khai còn nhiều thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực của các cơ quan trong việc áp dụng và thi hành. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ vẫn phổ biến do ảnh hưởng của định kiến giới, sự hạn chế trong cơ chế bảo vệ, cũng như tâm lý e ngại tố cáo của nạn nhân. Do đó, để đảm bảo hiệu quả trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ, cần có sự cam kết mạnh mẽ hơn từ các quốc gia trong việc thực thi các quy định pháp luật quốc tế, đồng thời tăng cường hợp tác nhằm tạo ra một môi trường an toàn và bình đẳng hơn cho phụ nữ trên toàn thế giới.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] [2] [3] [8] Centers for Disease Control and Prevention, Violence Prevention: Intimate Partner Violence (NCBI, 2018) <https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK499891/#:~:text=The%20CDC%20defines%20domestic%20violence,current%20or%20former%20intimate%20partner.%22> truy cập ngày 01/3/2025.

[4] Bạo lực gia đình bao gồm mọi hành vi có mục đích gây sợ hãi, đe dọa, khủng bố, thao túng, gây tổn thương, sỉ nhục, đổ lỗi hoặc làm hại người khác, và có thể xuất hiện trong nhiều dạng quan hệ, bao gồm vợ chồng, những người chung sống hoặc đang trong mối quan hệ tình cảm. Xem thêm United Nations, ‘What Is Domestic Abuse?’ (United Nations) <https://www.un.org/en/coronavirus/what-is-domestic-abuse> truy cập ngày 01/3/2025.

[5] [6] [9] [12] United Nations, ‘What Is Domestic Abuse?’ (United Nations) <https://www.un.org/en/coronavirus/what-is-domestic-abuse> truy cập ngày 01/3/2025.

[7] Nông Thị Thoa, ‘Thực trạng bạo lực gia đình đối với nam giới và giải pháp hạn chế’ (Hội thảo khoa học Bạo lực gia đình - Thực trạng và biện pháp hạn chế, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 26 tháng 10 năm 2022), tr. 43.

[10] [11] [16] Stop Violence Against Women, ‘UN Treaties on Domestic Violence <https://www.stopvaw.org/un_treaties_and_conventions#_ftn7> truy cập ngày 01/3/2025.

[13] Quyền này sau đó được củng cố bởi ICCPR, trong đó Điều 6 về bảo vệ quyền được sống và Điều 9 về bảo vệ quyền tự do và an toàn cá nhân. Xem thêm Tuyên ngôn Quốc tế về quyền con người, Điều 3 và  Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, Điều 6, Điều 9. 

[14] Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, Điều 14. 

[15] Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, Điều 12.

[17] World Health Organization, Lồng ghép vấn đề nghèo đói và giới vào các chương trình y tế: Tài liệu gốc cho các chuyên viên y tế (WHO 2014) <https://iris.who.int/bitstream/handle/10665/208228/9789290615538_vie.pdf> truy cập ngày 01/3/2025.

[18] Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với Phụ nữ, Điều 2. 

[19] Nguyên văn bằng tiếng Anh: “Family violence is one of the most insidious forms of violence against women. It is prevalent in all societies. Within family relationships women of all ages are subjected to violence of all kinds, including battering, rape, other forms of sexual assault, mental and other forms of violence, which are perpetuated by traditional attitudes. Lack of economic independence forces many women to stay in violent relationships. The abrogation of their family responsibilities by men can be a form of violence, and coercion. These forms of violence put women’s health at risk and impair their ability to participate in family life and public life on a basis of equality”. Xem thêm Khuyến nghị chung số 19 của Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ, đoạn 23.

[20] Khuyến nghị chung số 19 của Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ, đoạn 23.

[21] Khuyến nghị chung số 19 của Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ, đoạn 7. Xem thêm Stop Violence Against Women, ‘UN Treaties on Domestic Violence <https://www.stopvaw.org/un_treaties_and_conventions#_ftn7> truy cập ngày 01/3/2025.

[22] Ủy ban Chống tra tấn (Committee Against Torture) là cơ quan giám sát việc thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn và hình phạt hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục (Convention Against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment).

[23] [24] Committee against Torture, General Comment No. 2: Implementation of Article 2 by States Parties, CAT/C/GC/2, 24 January 2008 <https://www.refworld.org/legal/general/cat/2008/en/53514> truy cập ngày 01/3/2025, para. 18.

[25] Hiến pháp 2013, Điều 16.

[26] Hiến pháp 2013, Điều 26.

[27] Hiến pháp 2013, Điều 19.

[28] Hiến pháp 2013, Điều 20.

[29] Hiến pháp 2013, Điều 36.

[30] Trần Nguyên Tú, ‘Một số quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình (phần 7)’, (Trợ giúp Pháp lý Việt Nam, Bộ Tư pháp, 05/6/2020), <https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx?ItemID=1870&l=Nghiencuutraodoi>, truy cập ngày 25/02/2025. Xem thêm: BLHS 2015,  Điều 123, 133, 134, 141, 143, 155.

[31] Bộ luật Hình sự 2015, Điều 181, 185.

[32] [33] [34] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tờ trình Về việc xây dựng Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), 2021.

[35] Luật phòng chống bạo lực gia đình 2022, Điều 2.

[36] uật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022: 10 điểm mới từ 01/7/2023, (Liên đoàn Lao động Thành phố Hải Phòng, 18/08/2023), <https://congdoanhaiphong.vn/tin-tuc-su-kien/danh-muc-trong/luat-phong-chong-bao-luc-gia-dinh-2022-10-diem-moi-tu-01-7-2023-5101.html>, truy cập ngày 08/3/2025.

[37] Luật phòng chống bạo lực gia đình 2022, Khoản 2 Điều 3.

[38] Luật phòng chống bạo lực gia đình, Điều 9.

[39] Luật phòng chống bạo lực gia đình 2022, Điều 9.

[40] Luật phòng chống bạo lực gia đình 2022, Điều 10.

[41] Luật phòng chống bạo lực gia đình 2022, Điều 41.

[42] ‘Tài liệu giới thiệu Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi)’, (Dân vận, 23/4/2024), <http://danvan.vn/Home/Pho-bien-phap-luat/18257/Tai-lieu-gioi-thieu-Luat-Phong-chong-bao-luc-gia-dinh-sua-doi>, truy cập ngày 26/2/2024.

[43] Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ (Liên hiệp các hội khoa học công nghệ Việt Nam, 2010), <https://vusta.vn/phap-luat-quoc-te-ve-phong-chong-bao-luc-gia-dinh-doi-voi-phu-nu-p71715.html>  truy cập ngày 27/02/2025.

[44] World Health Organization, Devastatingly pervasive: 1 in 3 women globally experience violence (WHO 2021), <https://www.who.int/news/item/09-03-2021-devastatingly-pervasive-1-in-3-women-globally-experience-violence>. Xem thêm:  Bạo lực gia đình: những con số đau lòng (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 2022), <https://hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/bao-luc-gia-%C4%91inh-nhung-con-so-%C4%91au-long-47791-4504.html>  truy cập ngày 27/02/2025.

[45] UN Women, Facts and figures: Ending violence against women (UN Women 2024) <https://www.unwomen.org/en/articles/facts-and-figures/facts-and-figures-ending-violence-against-women>. Xem thêm: Bạo lực gia đình: những con số đau lòng (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 2022), <https://hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/bao-luc-gia-%C4%91inh-nhung-con-so-%C4%91au-long-47791-4504.html>  truy cập ngày 27/02/2025.

[46] United Nations Officer on Drugs and Crime, UNODC Research: 2020 saw a woman or girl being killed by someone in their family every 11 minutes (UNODC 2020), <https://www.unodc.org/unodc/frontpage/2021/November/unodc-research_-2020-saw-every-11-minutes-a-woman-or-girl-being-killed-by-someone-in-their-family.html>. Xem thêm: Bạo lực gia đình: những con số đau lòng (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 2022), <https://hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/bao-luc-gia-%C4%91inh-nhung-con-so-%C4%91au-long-47791-4504.html>  truy cập ngày 27/02/2025.

[47] UN Women, Violence against women and girls: the shadow pandemic (UN Women 2020), <https://www.unwomen.org/en/news/stories/2020/4/statement-ed-phumzile-violence-against-women-during-pandemic>. Xem thêm: Bạo lực gia đình: Đại dịch trong bóng tối của phụ nữ Hàn Quốc (Phụ nữ Việt Nam 2022), ,https://phunuvietnam.vn/bao-luc-gia-dinh-dai-dich-trong-bong-toi-cua-phu-nu-han-quoc-20220425200434181.htm>  truy cập ngày 27/02/2025.

[48] UN Women, COVID-19 and violence against women: What the data tells us (UN Women 2021), <https://www.unwomen.org/en/news-stories/feature-story/2021/11/covid-19-and-violence-against-women-what-the-data-tells-us#:~:text=Across%20the%2013%20countries%20surveyed,the%20start%20of%20the%20pandemic.>. Xem thêm: Bạo lực gia đình: Đại dịch trong bóng tối của phụ nữ Hàn Quốc (Phụ nữ Việt Nam 2022), <https://phunuvietnam.vn/bao-luc-gia-dinh-dai-dich-trong-bong-toi-cua-phu-nu-han-quoc-20220425200434181.htm>  truy cập ngày 27/02/2025.

[49] [50] [51] Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ (VUSTA, 15 Tháng Mười Hai 2023) <https://vusta.vn/phap-luat-quoc-te-ve-phong-chong-bao-luc-gia-dinh-doi-voi-phu-nu-p71715.html> truy cập ngày 01/3/2025.

[52] “Kết quả điều tra quốc gia về Bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 - Hành trình để thay đổi”, <https://vietnam.unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/0._bao_cao_chinh.pdf>

[53] [54] “Kết quả điều tra quốc gia về Bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 - Hành trình để thay đổi”, <https://vietnam.unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/0._bao_cao_chinh.pdf>, trang 32, 103.

[55] [56] Ngân Anh, ‘Phụ nữ trẻ không cam chịu và mạnh mẽ hơn trong đấu tranh với bạo lực’, (Nhân dân, 14/7/2020), <https://nhandan.vn/phu-nu-tre-khong-cam-chiu-va-manh-me-hon-trong-dau-tranh-voi-bao-luc-post608571.html>, truy cập ngày 01/3/2025.

[57] Ngân Anh, ‘Phụ nữ trẻ không cam chịu và mạnh mẽ hơn trong đấu tranh với bạo lực’, (Nhân dân, 14/7/2020), <https://nhandan.vn/phu-nu-tre-khong-cam-chiu-va-manh-me-hon-trong-dau-tranh-voi-bao-luc-post608571.html>, truy cập ngày 01/3/2025. Xem thêm:  https://vietnam.unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/0._bao_cao_chinh.pdf trang 32.

[58] Quyết định số 2232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chương trình Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021 - 2025.

[59] [60] Nghị quyết số 28/NQ-CP của Chính phủ: Ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030.



Bình luận


bottom of page