top of page
icj 1.jpeg

[32] SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG VÀ HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG

  • Lê Hoàng Dũng
  • 19 thg 2, 2024
  • 7 phút đọc

Tác giả: Lê Hoàng Dũng


Nguyên tắc thiện chí thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là một nguyên tắc quan trọng trong quan hệ hợp đồng[1], và được đưa vào nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới.[2] Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng đó là không thể tránh khỏi. Hệ thống pháp luật của Đức, Pháp, Việt Nam đã ghi nhận các trường hợp mà quyền và nghĩa vụ của một bên trong quan hệ hợp đồng có thể thay đổi do hoàn cảnh khách quan, bao gồm “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” và “sự kiện bất khả kháng”.Đây có thể được coi là các ngoại lệ của nguyên tắc thiện chí thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, khi các bên có thể được miễn thực hiện nghĩa vụ hoặc có quyền yêu cầu thay đổi nội dung của hợp đồng, sau khi đã giao kết. Tuy nhiên, định nghĩa của hai khái niệm trên và hệ quả pháp lý từ việc áp dụng chế định về sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi thực hiện hợp đồng không giống nhau.


“Sự kiện bất khả kháng” (force majeure) là quy định của pháp luật cho phép một bên hoặc các bên trong hợp đồng được miễn trách nhiệm dân sự khi hoàn cảnh thay đổi dẫn đến việc các bên không thể thực hiện được hợp đồng.[3] Cụm từ force majeure được sử dụng trong hệ thống luật của Pháp, sau đó dần được đưa vào hệ thống thông luật của Anh qua việc các bên trong hợp đồng soạn thảo điều khoản này.[4] Khái niệm trên bắt nguồn từ vis major (có nghĩa là “một thế lực siêu nhiên”)[5] trong Luật La Mã,[6] mô tả tình huống mà không bên nào được kỳ vọng rằng họ phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ gì của họ[7]. Định nghĩa hiện tại về sự kiện bất khả kháng như đề cập ở trên mang tính đồng nhất trong một số hệ thống pháp luật trên thế giới[8], bao gồm Pháp[9], Việt Nam[10]. Một số văn bản pháp luật Việt Nam đưa ra ví dụ các trường hợp cụ thể được coi là bất khả kháng, bao gồm các sự kiện tự nhiên như thiên tai, hỏa hoạn, cháy nổ, lũ lụt, sóng thần, bệnh dịch hay động đất hoặc các sự kiện do con người tạo nên như bạo động, nổi loạn, chiến sự, cấm vận, phong tỏa,...[11]. Toà án Pháp cũng đã từng ghi nhận trong bản án của Tòa án Thương mại Paris năm 2022 rằng việc giá nguyên liệu tăng cũng là một hoàn cảnh thay đổi cơ bản khiến cho một bên bị thiệt hại khi thực hiện hợp đồng.[12] 


“Hoàn cảnh thay đổi cơ bản” (hardship) là khái niệm chỉ trường hợp có một sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh, dẫn đến sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong hợp đồng được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng đó, và nếu một bên phải tiếp tục thực hiện hợp đồng thì sẽ chịu thiệt thòi so với bên còn lại.[13] Quy định này được tìm thấy trong Luật La Mã, rằng trong trường hợp có một thay đổi cơ bản trong hoàn cảnh khiến cho việc thực hiện nghĩa vụ khó khăn và thiệt thòi hơn cho một bên hợp đồng, thì bên bị ảnh hưởng đó có thể viện dẫn nguyên tắc clausula rebus sic stantibus (nếu hoàn cảnh không thay đổi, điều ước sẽ được tôn trọng).[14] Ngày nay, quy định tồn tại trong các “hardship clause” của hợp đồng thương mại quốc tế, và cũng được nhiều hệ thống pháp luật ghi nhận dưới các tên gọi khác nhau[15]. Khái niệm về Hoàn cảnh thay đổi cơ bản lần đầu được đưa vào Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 tại Điều 420. Các trường hợp có thể được coi là sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh có thể kể đến: sự thay đổi của giá nguyên liệu hay vật tư[16][17], mức độ rủi ro của đối tượng bảo hiểm tăng lên đột biến[18].


Điểm chung về định nghĩa của hai khái niệm này là (i) sự kiện xảy ra một cách khách quan, (ii) sự kiện là không thể lường trước được, và (iii) hậu quả của sự kiện là không thể khắc phục dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết.[19] Bên cạnh đó, hai khái niệm này khác nhau ở hai điểm chính, (i) nghĩa vụ của các bên, và (ii) sự thay đổi đối với nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. 


Về nghĩa vụ của các bên, hoàn cảnh thay đổi cơ bản không khiến cho một bên không thể thực hiện được nghĩa vụ giống như sự kiện bất khả kháng, mà việc thực hiện nghĩa vụ đó khiến cho một bên trong hợp đồng bị thiệt thòi nhiều hơn so với khi giao kết hợp đồng. Việc này được thể hiện ở các điều kiện bổ sung của hoàn cảnh thay đổi cơ bản so với sự kiện bất khả kháng được quy định tại điểm c và điểm d, khoản 1, Điều 420 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015, và Bộ quy tắc của Viện quốc tế về Nhất thể hoá pháp luật tư (“UNIDROIT”) về Hợp đồng thương mại quốc tế năm 2016 cũng có quy định tương tự.[20]


Hai khái niệm này còn có hậu quả pháp lý khác nhau về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Đối với sự kiện bất khả kháng, khi này các bên trong quan hệ hợp đồng không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, các bên sẽ được miễn trách nhiệm đối với nghĩa vụ dân sự đó[21]. Tuy nhiên, đối với UNIDROIT, Bộ quy tắc trên có quy định thêm về tính tạm thời của sự miễn trừ này, cụ thể là cho đến khi sự kiện bất khả kháng đó kết thúc[22]. Đối với hoàn cảnh thay đổi cơ bản, các bên vẫn sẽ phải tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo như hợp đồng. Tuy nhiên, bên bị ảnh hưởng và/hoặc bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên còn lại đàm phán lại hợp đồng.[23] Trong trường hợp các bên không đàm phán thành công, các hệ thống pháp luật trao cho Toà án thẩm quyền để giải quyết theo hai hướng: chấm dứt hợp đồng hoặc sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích của các bên.[24]


Như vậy, hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự kiện bất khả kháng là hai ngoại lệ cho việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của các bên ký kết. Sự khác biệt chủ yếu của hai khái niệm này nằm ở nghĩa vụ của các bên và hệ quả pháp lý đối với việc thực hiện hợp đồng.


Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bạn có bất kỳ thắc mắc/ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]  Jay M. Feinman, ‘Good Faith and Reasonable Expectations’ (2014) 67(4) Arkansas Law Review <https://law.uark.edu/alr/PDFs/67-3/ALR-67-3-525-570Feinman.pdf> truy cập ngày 20/01/2024.

[2] Điều 1104, Bộ luật Dân sự Pháp <https://www.justice.gouv.fr/sites/default/files/migrations/textes/art_pix/THE-LAW-OF-CONTRACT-2-5-16.pdf>, truy cập ngày 17/01/2024; Điều 3(3) Bộ luật Dân sự 2015; Điều 1.7 Bộ quy tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế 2016; Điều 242, Bộ luật Dân sự Đức <https://www.fd.ulisboa.pt/wp-content/uploads/2014/12/Codigo-Civil-Alemao-BGB-German-Civil-Code-BGB-english-version.pdf>, truy cập ngày 17/01/2024.

[3] Trương Nhật Quang, Pháp luật về Hợp đồng (Nhà Xuất bản Dân trí), đoạn 8-16 trang 422.

[4][6][8] Dr. O. N. Ravi, ‘Force Majeure in Commercial Contracts’ (2021) 3(2)  CMR University Journal for Contemporary Legal Affairs <https://www.cmr.edu.in/school-of-legal-studies/journal/wp-content/uploads/2022/02/03-Force-Majeure-in-Commercial-Contracts.pdf>, truy cập ngày 19/01/2024.

[5] Merriam Webster Dictionary, vis major <https://www.merriam-webster.com/legal/vis%20major>, truy cập ngày 18/01/2024.

[9] Điều 1218, Bộ luật Dân sự Pháp; tham khảo tại <https://cms.law/en/int/expert-guides/force-majeure-hardship-in-relation-to-conflict-and-sanctions/france>, truy cập ngày 17/01/2024.

[10]  Điều 156, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015.

[11] Trương Nhật Quang, Ngô Thái Ninh, ‘Vấn đề miễn trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp bất khả kháng – Covid-19’, <http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210450>, truy cập ngày 16/01/2024.

[12] Commercial court of Paris, 14 December 2022, No. 2022033136, xem tại <https://www.doctrine.fr/d/TCOM/Paris/2022/U2D41B12C5C3D45EAAC12>, truy cập ngày 18/02/2024.

[13] Trương Nhật Quang, Pháp luật về Hợp đồng (Nhà Xuất bản Dân trí), đoạn 8-41 trang 452.

[14] Frederick R. Fucci, ‘Hardship and Changed Circumstances as Grounds for Adjustment or Non-Performance of Contracts/Practical Considerations in International Infrastructure Investment and Finance’ (American Bar Association, Section of International Law Spring Meeting, New York, April 2006).

[15][16] UNIDROIT, Bình luận Điều 6.2.1 Bộ quy tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế 2016, trang 217-218 <https://www.unidroit.org/english/principles/contracts/principles2016/principles2016-e.pdf>.

[17] Điều 143, Luật Xây dựng 2014.

[18] Điều 23, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022.

[19] Trương Nhật Quang, Pháp luật về Hợp đồng (Nhà Xuất bản Dân trí), đoạn 8-43 trang 453-454.

[20] Điều 6.2.2, Bộ quy tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế 2016.

[21] Khoản 2 Điều 351, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015.

[22] Điều 7.1.7 (2), Bộ quy tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế 2016.

[23] Điều 420(2), BLDS 2015; Điều 1195, BLDS Pháp; Điều 6.2.3 (1), Bộ quy tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế 2016.

[24] Điều 420(3), BLDS 2015, Điều 6.2.3 (3), Bộ quy tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế 2016.


 
 
 

Comments


bottom of page