top of page

TRANG TÌM KIẾM

Tìm thấy 77 kết quả với một nội dung tìm kiếm trống

  • [2] CÁC CHỦ THỂ CÓ QUYỀN NĂNG KÝ KẾT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

    Tác giả: Nguyễn Khánh Linh, Dương Hải Anh Điều ước quốc tế, một trong những nguồn cơ bản của luật quốc tế, chứa đựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế giữa các bên tham gia quan hệ quốc tế trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Chính bởi vậy, việc làm rõ các chủ thể, thực thể có quyền năng ký kết điều ước quốc tế là quan trọng và cần thiết để làm cơ sở nền tảng cho việc tiếp cận ĐƯQT nói riêng và luật quốc tế nói chung. 1. Chủ thể có quyền năng ký kết điều ước quốc tế Để xác định các chủ thể có quyền năng ký kết điều ước quốc tế, ba thuật ngữ sau cần được phân tích, bao gồm (i) điều ước quốc tế; (ii) quyền năng ký kết điều ước quốc tế và (iii) các chủ thể có quyền năng. Về điều ước quốc tế, đây là một vấn đề có rất nhiều định nghĩa khác nhau dựa trên các cách tiếp cận. Nhưng về cơ bản, điều ước quốc tế chính là hiệp ước, hiệp định ràng buộc chính thức, hoặc văn kiện khác phù hợp với luật quốc tế thiết lập nghĩa vụ giữa hai hoặc nhiều chủ thể của luật quốc tế,[1] song điều ước quốc tế có thể có rất nhiều tên gọi khác nhau.[2] Điểm đặc biệt của điều ước quốc tế so với các thỏa thuận quốc tế khác là chúng có tính ràng buộc dựa trên nguyên tắc pacta sunt servanda (Tạm dịch: tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế). [3] Như vậy, điều ước quốc tế là một thỏa thuận quốc tế nhưng không phải thoả thuận quốc tế nào cũng là điều ước quốc tế. Do đó, những chủ thể có quyền năng ký kết điều ước quốc tế là chủ thể có năng lực pháp lý để xác lập một điều ước quốc tế ràng buộc chính chủ thể đó theo luật pháp quốc tế. Trong đó, từ “ký kết” nên được hiểu theo nghĩa rộng là việc xác lập một điều ước quốc tế (to conclude a treaty), bao gồm đàm phán, ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế hoặc trao đổi văn kiện tạo thành điều ước quốc tế.[4] Về vấn đề xác định chủ thể có quyền năng ký kết điều ước quốc tế, trong khi Công ước Viên về Luật Điều ước Quốc tế năm 1969 (Công ước Viên 1969) chỉ ghi nhận chủ thể ký kết là quốc gia thì Công ước Viên về Luật Điều ước Quốc tế giữa các Quốc gia và các Tổ chức Quốc tế năm 1986 (Công ước Viên 1986) mở rộng sự ghi nhận đối với các tổ chức quốc tế. Hay như Luật điều ước quốc tế 2016 của Việt Nam ghi nhận bên ký kết nước ngoài là quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác được công nhận là chủ thể của pháp luật quốc tế.[5] Tuy nhiên, các định nghĩa nêu trên không hề mâu thuẫn nhau mà trái lại, bổ sung, làm rõ cho nhau. Điều 3 Công ước Viên 1969 cũng quy định rõ việc các chủ thể khác không có trong phạm vi điều chỉnh không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của các điều ước đó.[6] Vì vậy, bài viết sẽ phân tích các chủ thể của luật quốc tế mà có quyền năng ký kết điều ước quốc tế, bao gồm quốc gia, các tổ chức liên chính phủ và các thực thể khác có quyền chủ thể hạn chế.[7] 2. Quốc gia Điều 6 Công ước Viên 1969 quy định rằng “Mọi quốc gia đều có quyền năng ký kết điều ước quốc tế”,[8] nhưng không giải thích thêm về các tiêu chí hay định nghĩa của “một quốc gia”. Mặc dù quốc gia là chủ thể chính yếu nhất của luật pháp quốc tế,[9] nhưng nội hàm của “quốc gia” hay các tiêu chí của một quốc gia chưa được thống nhất và ghi nhận trong bất cứ điều ước quốc tế đa phương phổ quát nào. Vì vậy, để xác định một thực thể có phải là một Quốc gia hay không và có quyền năng ký kết điều ước quốc tế hay không, cần xem xét đến các quy định trong luật pháp quốc tế nói chung.[10] Theo đó, định nghĩa Quốc gia với bốn tiêu chí trong Công ước Montevideo năm 1933 thường được viện dẫn vì các tiêu chí này có mức độ công nhận rộng rãi.[11] Cụ thể, Điều 1 Công ước quy định “Một quốc gia với tư cách là chủ thể của luật pháp quốc tế nên có các tiêu chí sau (i) dân cư thường trú, (ii) lãnh thổ xác định, (iii) chính quyền, và (iv) khả năng tham gia vào quan hệ với các quốc gia khác.” Tuy nhiên, Công ước này không phải là một điều ước đa phương phổ quát, mà chỉ là một điều ước quốc tế với thành viên là 16 quốc gia ở khu vực châu Mỹ. Vì vậy, Công ước chỉ nên được tiếp cận như tiền đề của các cuộc thảo luận về quốc gia, thay vì như một bộ tiêu chí “cần và đủ”.[12] Hơn thế nữa, trong từng trường hợp cụ thể, mỗi tiêu chí sẽ có sức nặng khác nhau; do đó, việc xác định một thực thể có phải là một Quốc gia thường phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của thực thể đó trong hệ thống luật pháp quốc tế, hoặc được tiếp cận như những chủ thể hạn chế của luật quốc tế.[13] Luật quốc tế nhìn nhận mỗi quốc gia như một thực thể có chủ quyền,[14] đồng nghĩa với việc có toàn bộ quyền năng để tham gia ký kết các điều ước quốc tế. 3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ Song song với quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng là chủ thể quan trọng của luật quốc tế, thể hiện trên bốn mặt: tạo ra bởi điều ước quốc tế, tất yếu có tư cách pháp nhân quốc tế, là chủ thể của luật quốc tế và là nơi đa phương hóa nhất hiện nay với điều ước được đàm phán và ký kết trong các tổ chức quốc tế hoặc tại các hội nghị do họ triệu tập.[15] Hiện tại, tuy chưa có định nghĩa chính xác về các tổ chức quốc tế liên chính phủ song các học giả đưa ra ba tiêu chí để một thực thể được coi là tổ chức quốc tế liên chính phủ như sau[16]: (i) được thành lập bởi các quốc gia và có thành viên là các quốc gia, (ii) có ý chí riêng biệt với các quốc gia thành viên và (iii) hoạt động dựa trên cơ sở một điều ước quốc tế.[17] Về quyền năng ký kết, quyền năng chủ thể luật quốc tế của từng tổ chức quốc tế liên chính phủ dựa vào điều lệ (hiến chương, quy chế,…) của tổ chức đó.[18] Cụ thể, các điều ước quốc tế này có nhiều tên gọi khác nhau: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên bố Bangkok thành lập ASEAN… Tuy nhiên về bản chất các văn kiện này đều có ý nghĩa là điều lệ của tổ chức quốc tế đó, trong đó mục đích, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và hoạt động của tổ chức quốc tế đó.[19] Do vậy, các tổ chức khác nhau sẽ có những phạm vi quyền năng ký kết khác nhau dựa vào sự thoả thuận của các bên thành lập tổ chức quốc tế đó[20]. Tựu chung, có sự khác biệt giữa quyền năng chủ thể luật quốc tế giữa các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác nhau. 4. Các thực thể đặc biệt Cả hai Công ước Viên 1969 và 1986 đều không quy định về “các chủ thể khác của Luật quốc tế”, ngoại trừ việc đề cập đến thuật ngữ này tại Điều 3 Công ước Viên 1969 khi quy định về “Những hiệp định quốc tế không thuộc phạm vi của Công ước”.[21] Trước đó, vào năm 1959, dự thảo mà Ủy ban Luật pháp Quốc tế Liên hợp quốc (ILC) thông qua có ghi nhận quyền năng ký kết của các chủ thể khác của luật quốc tế, bao gồm các chủ thể đặc biệt như Vatican.[22] Tuy nhiên, bản dự thảo với thuật ngữ trên đã không được thông qua. Có thể nhận thấy rằng pháp luật Việt Nam ghi nhận tương tự bản dự thảo trên của ILC khi quy định “các chủ thể khác của Luật quốc tế” hay “chủ thể khác được công nhận là chủ thể của pháp luật quốc tế” là các chủ thể ký kết điều ước Quốc tế, lần lượt tại Điều 2(1) của Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước Quốc tế 2005 và Điều 2(3) của Luật Điều ước Quốc tế 2016. Luật Việt Nam không quy định nội hàm của thuật ngữ “các chủ thể khác” hay “các chủ thể khác được công nhận” của luật quốc tế. Song trong một bản dự thảo của Luật Điều ước Quốc tế năm 2016, Ban soạn thảo đã ghi nhận nội hàm của thuật ngữ trên bao gồm “phong trào giải phóng dân tộc, vùng lãnh thổ hoặc thực thể khác được công nhận là chủ thể của pháp luật quốc tế”.[23] Nội dung trên sau đó đã bị loại bỏ, và tương tự trong thực tế, các “chủ thể khác” luôn là một chủ đề gây tranh cãi của luật quốc tế. Vì vậy, bài viết sẽ phân tích các thực thể trên dưới góc độ của một chủ thể hạn chế của Luật Quốc tế, bao gồm (i) Các phong trào đấu tranh giành độc lập, (ii) Các bên trong nội chiến, (iii) Các đơn vị cấu thành quốc gia.[24] a. Các phong trào đấu tranh giành độc lập Các cuộc đấu tranh giành độc lập, hay chiến tranh giải phóng dân tộc, trước đây được luật quốc tế phân loại là nội chiến nhưng hiện được coi là xung đột vũ trang quốc tế và do đó được quy định bởi luật nhân đạo quốc tế.[25] Phong trào giải phóng dân tộc là những cuộc xung đột vũ trang trong đó các dân tộc đấu tranh chống lại sự thống trị và chiếm đóng của thực dân cũng như chống lại các chế độ phân biệt chủng tộc hay phân biệt đối xử trong việc thực thi quyền tự quyết của mình.[26] Các Phong trào này có quyền và nghĩa vụ theo Luật Nhân đạo Quốc tế[27] có thể ký kết các thỏa thuận quốc tế có tính ràng buộc với các chủ thể của luật quốc tế; được tham gia vào các tiến trình tại Liên hợp quốc, và có một số quyền với tư cách là các dân tộc chưa tự chủ.[28] Một số sự ghi nhận về Phong trào giải phóng dân tộc có thể được đối chiếu tại Điều 1(4) Nghị định thư Bổ sung I năm 1977 cho Công ước Geneva năm 1949, nhưng không có sự giải thích về định nghĩa của phong trào.[29] Tuy nhiên, khả năng áp dụng Nghị định thư này đối với các phong trào giải phóng chỉ có thể thực hiện được thông qua cơ chế tại Điều 96(3) của văn kiện này.[30] Theo đó, cơ quan đại diện (ở đây là đại diện cho người dân tham gia phong trào giải phóng) có thể, bằng một tuyên bố đơn phương gửi tới cơ quan lưu chiểu, để tham gia vào quan hệ hiệp ước với các quốc gia thành viên của Nghị định thư.[31] Điều này cho thấy khả năng tham gia vào các Điều ước quốc tế của các Phong trào giải phóng dân tộc. Ngoài ra, khả năng ký kết điều ước quốc tế của các phong trào đấu tranh giành độc lập còn dựa trên hiệu quả của sự công nhận, một cách gián tiếp, trong việc tồn tại quan hệ song phương giữa các quốc gia và các phong trào giải phóng dân tộc.[32] Một ví dụ điển hình là sự tham gia của Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) trong việc ký kết các Điều ước đa phương với Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC).[33] PLO sau đó cũng trở thành thành viên của OIC vào năm 1969, và là thành viên của Liên đoàn Ả Rập (AL) vào năm 1976.[34] Điều đó cho thấy một chủ thể có quyền năng hạn chế, về mặt thực tế (de facto) có thể ký kết ĐƯQT và tham gia vào các tổ chức quốc tế liên chính phủ. b. Các bên trong nội chiến Các bên trong nội chiến có quyền kiểm soát một phần lãnh thổ của một quốc gia, từ đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ theo luật quốc tế và các bên trong nội chiến có thể được coi là một chủ thể hạn chế.[35] Tương tự với các phong trào đấu tranh giành độc lập, các bên trong nội chiến cũng được quy định trong Luật Nhân đạo Quốc tế. Theo đó, các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế (bao gồm nội chiến) được quy định và điều chỉnh bởi Điều 3 chung của bốn Công ước Geneva năm 1949 và Nghị định thư Bổ sung II năm 1977 của Công ước Geneva. Dựa trên quyền dân tộc tự quyết và quyền ly khai, một bên trong nội chiến khi chiếm đóng và kiểm soát một vùng lãnh thổ có thể có chủ quyền nhất định như một quốc gia, từ đó, tham gia ký kết các thỏa thuận quốc tế. Tuy nhiên, việc xác định liệu rằng các bên trong nội chiến có thực sự có quyền năng ký kết điều ước quốc tế hay không còn gặp nhiều khó khăn, do các thỏa thuận ký kết bởi các bên trong nội chiến có thể chưa thỏa mãn định nghĩa và tính ràng buộc của điều ước quốc tế. Dù được coi là chủ thể hạn chế của luật quốc tế, song các bên trong nội chiến cần được đánh giá về một cách cẩn trọng trong từng trường hợp cụ thể, dựa trên nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia.[36] Khi dự thảo Các Điều khoản về Trách nhiệm Quốc gia năm 2001, ILC cũng chỉ giới hạn ở việc xem xét vấn đề quy trách nhiệm của các hành vi sai phạm của một phong trào nổi dậy trong trường hợp phong trào này thành công trong việc giành chính quyền hoặc thành lập một quốc gia mới.[37] c. Các đơn vị cấu thành quốc gia Trong một bản dự thảo của ILC được trình trước Hội nghị Viên về Luật Điều ước Quốc tế năm 1968 – 1969,[38] Điều 2(2) có quy định về quyền năng ký kết điều ước quốc tế của các bang thành viên trong quốc gia liên bang, cụ thể “Các bang của quốc gia liên bang có thể có quyền năng ký kết điều ước nếu quyền năng đó được thừa nhận theo hiến pháp liên bang và nằm trong giới hạn được đặt ra”.[39] Theo biên bản tóm tắt thảo luận tại Hội nghị,[40] Khoản 2 liên quan đến các bang của quốc gia liên bang gây chia rẽ giữa các nước tham gia Hội nghị. Một bên gồm các nước như Canada, Mỹ, Italy và Tanzania đề nghị loại bỏ khoản 2 này vì điều khoản này có nguy cơ mở ra khả năng một quốc gia khác hay một tòa án quốc tế có quyền giải thích hiến pháp của một quốc gia liên bang.[41] Một nhóm các quốc gia khác bao gồm Liên Xô, Ukraine và Ba Lan, phản đối lo ngại trên vì các quốc gia khác không giải thích hiến pháp của quốc gia liên bang mà chỉ ghi nhận lại giải thích của chính quốc gia liên bang về chính hiến pháp của mình.[42] Do thời gian của Hội nghị không cho phép, nên sau cùng điều khoản trên liên quan đến các bang cũng bị loại bỏ.[43] Xét từ góc độ luật quốc tế, các bang hoặc địa phương trong một quốc gia không phải là chủ thể của luật quốc tế, song có thể ký kết các điều ước quốc tế nếu thỏa mãn hai điều kiện là (i) hiến pháp và pháp luật của chính quốc gia đó cho phép việc ký kết của bang/địa phương, và (ii) các quốc gia khác chấp nhận tham gia ký kết điều ước quốc tế với các bang/địa phương đó.[44] Quyền lực của các bang trong quốc gia liên bang thường rộng rãi hơn so với các địa phương của quốc gia đơn nhất, vì vậy việc trao quyền năng ký kết điều ước quốc tế thường được thấy ở các quốc gia liên bang; ví dụ như Đức, Thụy Sĩ và Bỉ.[45] Nhìn chung, phạm vi của quyền năng ký kết điều ước quốc tế phụ thuộc vào bản chất của thực thể và liệu các thực thể này có đủ tư cách là một chủ thể của luật quốc tế hay không.[46] Do đó, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) đã phân biệt giữa sự tồn tại của trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể quốc tế và việc thực thi các quyền của các chủ thể này.[47] Việc sở hữu những quyền năng nhất định có thể thỏa mãn điều kiện để các thực thể phi quốc gia (non-state) trở thành chủ thể của luật pháp quốc tế,[48] tuy nhiên, chính sự công nhận tập thể của các Quốc gia về tư cách pháp lý quốc tế của các chủ thể phi quốc gia đã xác lập vị thế của họ trên bình diện quốc tế.[49] Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bất kỳ thắc mắc hay ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Definition of key terms used in the UN Treaty Collection . United Nations . United Nations < https://treaties.un.org/Pages/overview.aspx?path=overview%2Fdefinition%2Fpage1_en.xml >, truy cập ngày 28/01/2023. [2][6][20] United Nations. 1969. “Vienna Convention on the Law of Treaties.” Treaty Series 1155 (May): 331. [3] https://legal.un.org/avl/pdf/ls/greenwood_outline.pdf [4] Luật Điều Ước Quốc Tế, Khoản 5 Điều 2. [5] Luật Điều Ước Quốc Tế, Khoản 1 Điều 2. [7][11][40][43][44][45] Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.89. [8] United Nations, (1969). Vienna Convention on the Law of Treaties, Treaty Series, 27 January 1980, 1155, pg 4. [9] Malcom N.Shaw, International Law, 6th ed. (Cambridge University Press 2008) tr.196 [10][41][42] Trần Hữu Duy Minh, Công ước Viên 1969: Quyền năng và thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế (08/07/2018), < https://iuscogens-vie.org/2018/07/08/86/#_ftn1 > Truy cập ngày 10/01/2023. [12] Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.69. [13] Reparation for Injuries Suffered in the Service of the United Nations (AdvisoryOpinion) [1949] ICJ Rep 174, 178. [14] James Crawford, “Sovereignty as a Legal Value”, in trong J Crawford & M Koskenniemi (eds.) Cambridge Companion to International Law (Cambridge University Press 2012) [15] Aust, A. (2007). Modern Treaty Law and Practice (2nd ed.), pg 392-393. Cambridge: Cambridge University Press. [16] Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.84. [17] Jan clabber, An introduction to international law (Cambridge university press 2002 ) 9-13. [18] Nguyen HVT, “TỔ Chức Liên Chính Phủ (IGOS)” ( Nghiên cứu quốc tế) July 16, 2016) < https://nghiencuuquocte.org/2016/08/06/to-chuc-lien-chinh-phu-igos/ > accessed January 27, 2023 [19] Nguyen HVT, “TỔ Chức Liên Chính Phủ (IGOS)” ( Nghiên cứu quốc tế) July 16, 2016) accessed January 27, 2023 [20] United Nations. 1969. “Vienna Convention on the Law of Treaties.” Treaty Series 1155 (May): 331. [21] United Nations, (1969). Vienna Convention on the Law of Treaties, Treaty Series, 27 January 1980, 1155, pg 5. [22] ILC, Report of the Commission to the General Assembly on its 11th session, 1959 (1959) Doc. A/4169, in trong ILC, Yearbook of the International Law Commission, 1959, vol. II (United Nations 1960) 87, 95 – 96, truy cập tại < http://legal.un.org/docs/?path=../ilc/documentation/english/reports/a_cn4_122.pdf&lang=EF > [23] Bảng so sánh Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 với dự thảo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (sửa đổi), Ủy ban Đối ngoại, Danh sách tư liệu, Quốc hội Việt Nam, 25 08 2015, truy cập tại < https://quochoi.vn/uybandoingoai/tulieu/Pages/tu-lieu.aspx?ItemID=3 > [24] Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.87. [25] Lafrance, L., 2018. Fundamentals of IHL | How does law protect in war? - ICRC casebook. Casebook.icrc.org. Available at: ( https://casebook.icrc.org/law/fundamentals ). [26] See generally A. Rigo-Sureda,The Evolution of the Right of Self-Determination, Leiden, Sijthoff, 1973 and M. Pomerance,Self-Determination in Law and Practice, The Hague, Nijhoff, 1982. [27] Ranee Khooshie Lal Panjabi, International Law and the Use of Force by National Liberation Movements. [28] James Crawford, chú thích số 2, tr. 113-114; Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.87. [29] Protocol Additional to the Geneva Conventions of 12 August 1949, and relating to the Protection of Victims of International Armed Conflicts (adopted 8 June 1977, entered into force 7 December 1978) [hereinafter API], Article 1. [30][32] Protocol Additional to the Geneva Conventions of 12 August 1949, and relating to the Protection of Victims of International Armed Conflicts (adopted 8 June 1977, entered into force 7 December 1978) [hereinafter API], Article 96(3). [31] UNGA Res. 3237 (XXIX) (Nov. 22 1974); UNGA Res. 31/152 (Dec. 20, 1976). UNGA Res. 2621 (XXV), 6c (Oct. 12, 1970) (“[R]epresentatives of liberation movements shall be invited . . . to participate . . . in the proceedings of those [UN] organs relating to their countries”); UNGA Res. 3280 (XXIX) (Dec. 10, 1974). [33] Xem tại Hiến chương Hội nghị của Các quốc gia Hồi giáo (Organization of Islamic Conference), điều 1(8) (một trong những mục tiêu và nguyên tắc của tổ chức là “hỗ trợ và trao quyền cho nhân dân Palestine thực hiện quyền tự quyết và thành lập Nhà nước có chủ quyền với Al-Quds Al-Sharif làm thủ đô”). [34] Annex Regarding Palestine to the Pact of the League of Arab States in Houssein Hassouna, The League of Arab States and Regional Disputes 409–10 (1975). [35] Peter Malanczul, Akehurst's Modern Introduction to International Law (7th ed.). Routledge 1997, tr. 104;. https://doi.org/10.4324/9780203427712. [36] Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.88. [37] Ủy ban Luật pháp Quốc tế (ILC), “Draft Articles on Responsibility of States for International Wrongful Acts” Điều 10, in trong International Law Commission Yearbook of the International Law Commission 2001, Vol. II (Part Two) (United Nations 2007) tr 76-77. Đồng thời xem tại Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.88. [38] Summary records of the 7th and 8th plenary meetings, Second Session of the Vienna Convention on the Law of Treaties 1969, Doc. A/CONF.39/SR.7 và A/CONF.39/SR.8, truy cập tại < http://legal.un.org/diplomaticconferences/1968_lot/sess2.shtm > [39] ILC, ‘Report of the Commission to the General Assembly on its 14th session 1962’ (1962) Doc. A/CN.4/148, in trong ILC, Yearbook of the International Commission, 1962, vol. II (United Nations 1964) 159, 164, truy cập tại < http://legal.un.org/docs/?path=../ilc/documentation/english/reports/a_cn4_148.pdf&lang=EF >. [46] A Roberts & S Sivakumaran, ‘Lawmaking by Non-state Actors: Engaging Armed Groups in the Creation of International Humanitarian Law’, 37(1) Yale Journal Of International Law [2012] 125. [47] Reparation for Injuries Suffered in the Service of the United Nations (AdvisoryOpinion) [1949] ICJ Rep 174, 178. [48] Jurisdiction of the Courts of Danzig (Advisory Opinion) 1928 PCIJ (Series B) No.15, para. 17. [49] Sukayna Khalid, ‘Recognising the (Rightful) Subjects of International Law’, International Law Coursework.

  • [1] TỔNG QUAN VỀ NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ

    Tác giả: Phạm Quốc Hào, Dương Duy Khang Trong hệ thống pháp luật quốc tế, việc xác định nguồn của luật cũng như hiệu lực pháp lý của nguồn có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hành và áp dụng luật quốc tế. Bài viết này sẽ tập trung tổng hợp các phân tích tổng quan về các nguồn chính và một số nguồn bổ trợ của luật quốc tế. 1. Khái niệm nguồn của luật quốc tế Trong phạm vi quốc gia, nguồn của luật có thể được xác định bằng nhiều cách như dựa vào Hiến pháp, các văn bản pháp luật hay án lệ.[1] Trong hệ thống phi tập trung hóa của luật quốc tế,[2] không có một cơ quan nào có khả năng lập pháp ràng buộc các chủ thể ở phạm vi quốc tế, và cũng không có một hệ thống tòa án nào có thẩm quyền toàn diện và bắt buộc để giải thích và mở rộng luật.[3] Theo James Crawford, nguồn của luật quốc tế là bằng chứng của sự tồn tại các quy phạm ràng buộc và được áp dụng chung trên cơ sở đồng thuận của các chủ thể.[4] Xét trên thực tế, Điều 38(1) Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) thường được xem là quy định quan trọng nhất liệt kê các nguồn của luật quốc tế.[5] Theo đó, nguồn của luật quốc tế gồm: (i) điều ước quốc tế chung và riêng xác định các quy định, được công nhận rõ ràng bởi các quốc gia tham gia; (ii) tập quán quốc tế, như là bằng chứng về thực tiễn chung được chấp nhận như luật; (iii) các nguyên tắc pháp luật chung được thừa nhận bởi các quốc gia văn minh; (iv) phụ thuộc vào các khoản của Điều 59, án lệ và ý kiến của các học giả uy tín nhất từ đa dạng các quốc gia là các nguồn bổ trợ để xác định các quy định pháp luật. Trên thực tế, nghị quyết của các tổ chức quốc tế, hành vi pháp lý đơn phương và luật mềm cũng được xem là nguồn của luật quốc tế.[6] 2. Điều ước quốc tế Trong các nguồn của luật quốc tế, điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp để điều chỉnh giữa các chủ thể của luật quốc tế bởi chúng chứa đựng nhiều nhất các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế. Theo Điều 2 Công ước Viên về Luật Điều ước Quốc tế 1969 (Công ước Viên 1969), điều ước quốc tế “là dùng để chỉ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì” .[7] Mặc dù định nghĩa của Công ước Viên 1969 chỉ có giá trị pháp lý trong phạm vi Công ước này song, định nghĩa trên vẫn chứa đựng những yếu tố quan trọng chung nhất định như sự tuân thủ ràng buộc pháp lý và vai trò của các chủ thể.[8] Chủ thể có quyền năng ký kết điều ước quốc tế được ghi nhận tại Điều 6 Công ước Viên 1969 và Điều 2(1) Công ước Viên 1986 trong đó khẳng định quốc gia, tổ chức quốc tế và các chủ thể khác có khả năng ký kết điều ước quốc tế.[9] Trong đó, bên cạnh các quốc gia, chỉ có tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập và hoạt động trên cơ sở điều ước quốc tế, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động riêng biệt so với thành viên của các chủ thể khác, mới có quyền năng ký kết điều ước quốc tế. Các chủ thể khác bao gồm: các dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết, các nước bên trong nội chiến, các đơn vị cấu thành quốc gia như các bang và địa phương chỉ có quyền năng ký kết điều ước quốc tế trong một số trường hợp nhất định.[10] Một điều ước quốc tế được hình thành và phát triển trên cơ sở ba nguyên tắc cơ bản: (i) nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng; (ii) nguyên tắc nội dung của điều ước quốc tế phù hợp với luật quốc tế và (iii) nguyên tắc thiện chí (Pacta sunt servanda). Trong ba nguyên tắc trên, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng là quan trọng nhất, đảm bảo quá trình ký kết và thực thi điều ước quốc tế trên cơ sở các quốc gia bình đẳng trước luật pháp quốc tế về nghĩa vụ pháp lý, tự nguyện tham gia các điều ước quốc tế bằng cách ký kết và gia nhập mà không thể bị cưỡng ép đàm phán, ký kết.[11] Nguyên tắc nội dung của điều ước quốc tế phù hợp với luật quốc tế khẳng định điều ước quốc tế sẽ bị vô hiệu hoặc không có giá trị pháp lý nếu như vi phạm những quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung ( jus cogens ) của luật quốc tế. [12] Bên cạnh đó, nguyên tắc thiện chí ( Pacta sunt servanda ) có tầm quan trọng cơ bản trong các điều ước quốc tế và được ghi nhận tại Điều 26 Công ước Viên 1969: “mỗi điều ước quốc tế đang có hiệu lực đều ràng buộc các bên thành viên của điều ước đó và phải được các bên thực thi một cách thiện chí” .[13] Các chủ thể khi gia nhập một điều ước quốc tế tự nguyện thực thi, tuân thủ và đồng ý chấp nhận ràng buộc pháp lý của điều ước quố c tế trên cơ sở thiện chí.[14] 3. Tập quán quốc tế Đặt trong tương quan với điều ước quốc tế, tập quán quốc tế ra đời sớm hơn và là nguồn lâu đời nhất của luật quốc tế, tạo ra những quy tắc xử sự chung được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể thừa nhận như những quy phạm pháp lý.[15] Tại Điều 38(1) Quy chế Tòa án ICJ, tập quán quốc tế được định nghĩa “như là bằng chứng về một thực tiễn chung, được chấp nhận như luật” .[16] Theo đó, một tập quán quốc tế cần phải thỏa mãn hai yếu tố: (i) thực tiễn chung (state practice) và (ii) được chấp nhận như luật ( opinio juris ).[17] Yếu tố thực tiễn chung được xác định trên cơ sở những hành vi trong quan hệ quốc tế được lặp đi lặp lại nhiều lần, tạo thành những quy tắc xử sự chung, thoả mãn điều kiện về tính phổ biến, đại diện và nhất quán.[18] Yếu tố opinio juris - được chấp nhận như luật - xác định quy tắc xử sự chung phải được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật, tức là sự thừa nhận giá trị pháp lý bắt buộc của quy tắc xử sự đó.[19] Tuy nhiên, luật quốc tế không đòi hỏi sự thừa nhận của tất cả các quốc gia trên thế giới mà như phán quyết của Tòa án ICJ trong Vụ Thềm lục địa Biển Bắc đã khẳng định: “Một quy tắc có thể được công nhận là tập quán ngay khi có sự thừa nhận của những đại diện miễn sao bao gồm cả những quốc gia bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp dụng quy tắc đó” .[20] Trên thực tế, việc chứng minh yếu tố opinio juris là tương đối khó khăn nên người ta thường tìm minh chứng về opinio juris trên cơ sở hành vi của các quốc gia trên diễn đàn đa phương, hay việc gia nhập điều ước quốc tế đa phương phổ quát mà đa phần quốc gia trên thế giới là thành viên.[21] Trái ngược với điều ước quốc tế, khi hiệu lực pháp lý chỉ ràng buộc với các quốc gia thành viên, một tập quán quốc tế phát sinh hiệu lực ràng buộc với tất cả quốc gia trên cơ sở yếu tố thực tiễn chung ( opinio juris ) và sự ngầm thể hiện đồng ý, chấp nhận ràng buộc pháp lý của các quốc gia.[22] Tuy vậy, người ta ghi nhận sự tồn tại hai ngoại lệ đối với nguyên tắc trên bao gồm các tập quán đặc thù (tập quán khu vực, tập quán địa phương) được hình thành trên cơ sở quan hệ giữa một số quốc gia, và các quốc gia liên tục phản đối từ đầu khi xuất hiện dấu hiệu của một thực tiễn chung.[23] 4. Các nguyên tắc pháp luật chung Bên cạnh điều ước và tập quán quốc tế, Điều 38(1) Quy chế ICJ cũng khẳng định “các nguyên tắc pháp luật chung được thừa nhận bởi các quốc gia văn minh”[24] là loại nguồn chính thứ ba. Trong hệ thống luật quốc tế, các nguyên tắc pháp luật được sinh ra để giải quyết khoảng trống do thiếu các quy định điều chỉnh từ luật điều ước hay luật tập quán.[25] Trước tiên, hiện tại các quốc gia đều được xem là “văn minh”.[26] Về mặt khái niệm, cho đến hiện nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất về định nghĩa của các nguyên tắc pháp luật chung. Một số học giả cho rằng các nguyên tắc này là sự tái khẳng định các khái niệm của luật tự nhiên, các luật đã ảnh hưởng đến hệ thống luật quốc tế.[27] Theo Root and Phillimore, các nguyên tắc này là những quy định được chấp nhận trong hệ thống luật quốc gia của các nước văn minh.[28] Về cách thức xác định, các nguyên tắc này có thể là các nguyên tắc chung của pháp luật quốc gia hoặc có nguồn từ chính trong hệ thống luật quốc tế, nhưng cũng có thể mang cả hai nghĩa.[29] Càng mang nhiều nghĩa thì khả năng tìm thấy các quy phạm liên quan trong luật điều ước hay luật tập quán càng cao, vốn là mục đích ban đầu của việc đưa các “nguyên tắc pháp luật chung” này vào quy chế của Tòa.[30] Trong thực hành xác định các nguyên tắc này, phương pháp áp dụng cơ bản là so sánh giữa các hệ thống luật quốc gia để tìm ra các quy phạm phù hợp và điều chỉnh để áp dụng vào giải quyết quan hệ giữa các quốc gia.[31] Tuy vậy, không phải nguyên tắc nào cũng bắt nguồn từ hệ thống luật quốc gia, một số nguyên tắc được dựa trên “công lý tự nhiên” được công nhận rộng rãi ở các hệ thống pháp luật như “estoppel (nguyên tắc không phủ nhận)”[32] hay logic thông thường của luật sư như “ lex specialis derogat legi generali (luật cụ thể hơn được ưu tiên hơn luật chung)”[33][34]. Một cách ngắn gọn, các nguyên tắc pháp luật chung có đa dạng nguồn và cách lập luận để áp dụng vào một vấn đề pháp lý chưa rõ ràng. Trên thực tế không thiếu các trường hợp mà các cơ quan tài phán quốc tế đưa ra các nguyên tắc pháp luật chung để giải quyết một vụ việc. Ví dụ như trong Vụ Kênh Corfu , Tòa ICJ đã đưa ra một nguyên tắc chung về chứng cứ gián tiếp: “ Bằng chứng gián tiếp được thừa nhận trong tất cả các hệ thống pháp luật, và việc sử dụng nó được công nhận bởi các quyết định quốc tế.” [35] Mục đích của việc đưa ra những nguyên tắc như thế là để tránh một phán quyết “non liquet” (có nghĩa là ‘không có luật điều chỉnh’)[36], với niềm tin rằng “mọi tình huống quốc tế đều có thể được xác định là một vấn đề pháp lý.”[37] Cũng như điều ước và tập quán quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung có hiệu lực ràng buộc đối với các quốc gia,[38] trên cơ sở là “được các quốc gia văn minh thừa nhận” mà về bản chất là sự ngầm đồng ý của các quốc gia.[39] Sự ngầm đồng ý này xuất phát từ thực tế rằng các nguyên tắc pháp luật chung này bắt nguồn từ hệ thống pháp luật quốc gia[40], hay được công nhận rộng rãi trong luật quốc tế như nguyên tắc thiện chí, trung thực (good faith)[41].[42] 5. Án lệ Bên cạnh các nguồn chính, Điều 38(1) Quy chế ICJ cũng liệt kê các quyết định tư pháp (án lệ), là nguồn bổ trợ. Các quyết định này có thể là ý kiến tư vấn, lệnh, hay quyết định khác của các cơ quan tài phán quốc tế hay quốc gia.[43] Các án lệ này không chứa trực tiếp một quy phạm pháp luật mà là cơ sở để xác định các “quy định của pháp luật”.[44] Điều 38(1) cũng dẫn chiếu tới Điều 59 trong quy chế của Tòa: “Quyết định của Tòa án không có hiệu lực ràng buộc ngoại trừ giữa các bên và đối với trường hợp cụ thể đó”. Quy định này là nhằm tránh học thuyết stare decisis (nguyên tắc ‘theo như điều đã được quyết định’) trong hệ thống thông luật mà các quyết định tư pháp trước đó sẽ được áp dụng với các vụ việc tương tự.[45] Điều này cũng được thể hiện trong vụ Lợi ích của người Đức của Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế (PCIJ), tiền thân của Tòa ICJ: “Điều 59 của Quy chế [...] chỉ đơn giản là để ngăn chặn các nguyên tắc pháp lý được Tòa án chấp nhận trong một trường hợp cụ thể khỏi sự ràng buộc đối với các quốc gia khác hoặc trong tranh chấp khác.”[46] Mặc dù không có tính ràng buộc, Tòa ICJ vẫn cố gắng để duy trì tính nhất quán trong các án lệ của mình,[47] để đảm bảo tính phân minh và độc lập trong việc đưa ra phán quyết.[48] Ví dụ như trong Vụ Trao đổi dân số Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ , Tòa PCIJ đã trích lại một quyết định trước đó trong một Vụ Wimbledon : “Quyền tham gia vào điều ước quốc tế là một đặc điểm của chủ quyền.”[49] Hay như trong Vụ Áp dụng Công ước về Ngăn chặn và trừng phạt tội ác diệt chủng (1948): “Trong chừng mực các phán quyết chứa đựng các kết luận về luật, [...] Tòa sẽ không đi ngược lại án lệ nhất quán của Tòa trừ khi vì một lý do rất đặc thù.”[50] Tuy nhiên, vẫn có trường hợp Tòa đi ngược lệ án lệ nhất quán của mình, dù là rất hiếm.[51] Điển hình là trong Ý kiến tư vấn giải thích các Hiệp ước hòa bình, Tòa đã đi ngược lại phán quyết trong Vụ Đông Carelia ,[52] và đưa ra lý do không chấp nhận viện dẫn án lệ này: “Theo quan điểm của Tòa, hoàn cảnh trong vụ việc hiện tại khác biệt sâu sắc với Vụ Đông Carelia [...] khi đó Tòa PCIJ đã từ chối cho ý kiến tư vấn vì nhận thấy rằng vấn đề được đưa lên liên quan trực tiếp đến tranh chấp đang thực sự tồn tại giữa hai quốc gia, việc trả lời câu hỏi về cơ bản sẽ tương đương với việc quyết định tranh chấp giữa các bên và dẫn đến vấn đề không thể làm sáng tỏ nếu không có sự đồng ý của cả hai bên tranh chấp.”[53] Bên cạnh việc xác định luật, cũng có những trường hợp Tòa đã sáng tạo luật trong quá trình xác định nó.[54] Ví dụ như trong Vụ Ngư trường giữa Anh và Na Uy , các đề cập đến những tiêu chuẩn chung để phân định vùng biển [55] sau đó đã được phát triển trong Công ước Geneva về Lãnh hải và vùng Tiếp giáp lãnh hải.[56] Dù thế, không phải quy định nào trong án lệ cũng luôn được đồng thuận.[57] Như đối với Vụ Lotus , Tòa đã mở rộng nguyên tắc được đưa ra trong phán quyết của mình là “luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập”[58] bằng việc khẳng định tư cách pháp lý của Liên hợp quốc trong Vụ Yêu cầu Bồi thường của tổ chức này ,[59] qua kết luận rằng tổ chức này có quyền yêu cầu bồi thường với các quốc gia.[60] 6. Ý kiến học giả Bên cạnh án lệ, tại Điều 38(1) Quy chế ICJ đồng thời ghi nhận “các học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác nhau” như một nguồn bổ trợ của luật quốc tế.[61] Theo đó, bên cạnh ý kiến học giả có uy tín cao được thể hiện qua công trình nghiên cứu như báo cáo khoa học, giáo trình, sách chuyên khảo, văn bản của các tổ chức có chuyên môn cũng có thể được xếp vào nhóm ý kiến học giả. Một trong những tổ chức tiêu biểu là Uỷ ban Luật pháp Quốc tế (ILC) đã tiến hành nghiên cứu và phát triển các dự thảo công ước trong lĩnh vực chưa có luật điều chỉnh, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển luật quốc tế và pháp điển hoá.[62] Khác với các nguồn cơ bản, ý kiến học giả không trực tiếp chứa đựng quy phạm pháp quốc tế và không có hiệu lực pháp lý. 7. Nghị quyết của các tổ chức quốc tế Mặc dù không được quy định tại Quy chế ICJ, song nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ vẫn có tầm quan trọng trong quá trình định hình và phát triển luật pháp quốc tế.[63] Ví dụ, một nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc có thể là cơ sở minh chứng về thực tiễn chung hoặc yếu tố opinio juris của một tập quán quốc tế thông qua việc các quốc gia bỏ phiếu tán thành cho nghị quyết đó, và ngược lại nếu nhiều quốc gia bỏ phiếu chống, thì giá trị của nghị quyết với tư cách là minh chứng của một tập quán quốc tế sẽ bị giảm đi tương ứng.[64] Hiệu lực pháp lý của nghị quyết được ban hành bởi các tổ chức quốc tế phụ thuộc vào các điều ước thành lập tổ chức quốc tế đó. Cụ thể, đối với Liên hợp quốc, nghị quyết thông thường của Đại hội đồng chỉ mang tính khuyến nghị song nghị quyết của Hội đồng Bảo an có hiệu lực ràng buộc tất cả các quốc gia thành viên. Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc quy định nghị quyết của Hội đồng Bảo an “ mang tính chất ràng buộc và tất cả các thành viên của Liên hợp quốc đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành.” [65] Ngoài ra, tại Điều 24 của Hiến chương Hội đồng Bảo an “ trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế .” [66] Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hòa bình các tranh chấp, xung đột và khi cần thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe dọa, phá hoại hòa bình, hoặc các hành động xâm lược. Điều tương tự cũng áp dụng đối với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) trong việc đưa ra các quyết định ràng buộc về việc duy trì hoặc thay đổi tỷ giá hối đoái hoặc khấu hao tiền tệ.[67] Như vậy, trong các nguồn của luật quốc tế, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và các nguyên tắc pháp luật chung được thừa nhận bởi các quốc gia văn minh được coi là nguồn cơ bản và được áp dụng trực tiếp để điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế. Bên cạnh nguồn cơ bản, các nguồn bổ trợ như án lệ, ý kiến học và nghị quyết của các tổ chức tế cũng đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc chứng minh, giải thích sự tồn tại của các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bất kỳ thắc mắc hay ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] [2] [23] [25] [29] [30] [48] Peter Malanczuk (1997), Modern Introduction to International Law 7th Edition. [3] [27] [37] [54] [56] [57] Malcolm N.Shaw (2008), International Law 6th Edition. [4] [10] [21] [22] [28] [47] [51] James R Crawford (2012), Brownlie's Principles of Public International Law (8th Edition). [5] [8] [11] [26] [31] [34] [38] [39] [43] Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. [6] [16] [24] [44] [61] Điều 38(1) Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế [7] Malcolm N.Shaw (2014), International Law 7th Edition. [7] [9] [13] Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969. [12] [15] [18] Giáo trình luật quốc tế (2018), Đại học luật Hà Nội, NXB. Tư pháp. [14] Lukashuk, I. I (1989), “The Principle Pacta Sunt Servanda and the Nature of Obligation Under International Law.” The American Journal of International Law, vol. 83, no. 3. [17] [19] Shabtai Rosenne (1985), Practice and Methods of International Law. [20] Vụ thềm lục địa Biển Bắc (Đức/Đan Mạch; Đức/Hà Lan) [1969], Phán quyết của Tòa ICJ. [32] Oxford Reference, < https://www.oxfordreference.com/display/10.1093/oi/authority.20110803095758760;jsessionid=FC2AD2CAF3D6F51FB12E360907AC2884 > [33] Oxford Reference, < https://www.oxfordreference.com/display/10.1093/acref/9780195369380.001.0001/acref-9780195369380-e-1303 > [35] Vụ Kênh đào Corfu (Anh v Bắc Ireland v Albania) [1949] ICJ Reports 4, tr 18. [36] Oxford Bibliographies, < https://www.oxfordbibliographies.com/display/document/obo-9780199796953/obo-9780199796953-0130.xml > [40] [42] Mahmoud Cherif Bassiouni, ‘A Functional Approach to "General Principles of International Law’ (1990) < https://repository.law.umich.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1664&context=mjil > [41] ‘good faith’, Cornell Law School, < https://www.law.cornell.edu/wex/good_faith > [45] Cornell Law School, < https://www.law.cornell.edu/wex/stare_decisis > [46] Vụ Lợi ích của người Đức [1926] (Phán quyết về các phản đối sơ bộ) sửa PCIJ Series A số 7. [49] Vụ Trao đổi người dân giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ (1925) PCIJ Series B số 10. [50] Vụ Áp dụng Công ước về Ngăn chặn và trừng phạt tội ác diệt chủng giữa (Croatia và Serbia) [2008] (Phán quyết về các phản đối sơ bộ) ICJ Reports 412. [52] Vụ Quy chế pháp lý của vùng Đông Carelia (Ý kiến tư vấn) [1923] ICJ Series B số 5. [53] Vụ Giải thích các Hiệp ước hòa bình (Ý kiến tư vấn) [1950] ICJ Reports 65. [55] Vụ Ngư trường (Anh v Na Uy) [1951] ICJ Reports 116. [58] Vụ Tàu Lotus [1927] PCIJ Series A số 10. [59] Hugh Haneyside, ‘The Lotus Principle in ICJ Jurisprudence: Was the Ship Ever Afloat?’ (2007), < https://repository.law.umich.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1145&context=mjil > [60] Vụ Yêu cầu bồi thường với những chấn thương do thi hành nghĩa vụ của Liên hiệp quốc [1949] ICJ, Tổng quan, < https://www.icj-cij.org/en/case/4 >. [62] Quy chế Uỷ ban Luật pháp quốc tế (ILC). [63] [67] Christopher Greenwood (2008), Sources of International Law: An Introduction [64] William E. Butler (1979), Resolutions of International Organizations: The "Treaty" Theory. [65] [66] Hiến chương Liên hợp quốc.

bottom of page