top of page

TRANG TÌM KIẾM

Tìm thấy 77 kết quả với một nội dung tìm kiếm trống

  • [20] CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG WTO

    Tác giả: Chu Trang Anh, Phạm Quốc Hào Kể từ khi thành lập vào ngày 01/01/1995, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) giữ vai trò quan trọng trong quá trình thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại giữa các quốc gia thành viên thông qua đàm phán, ký kết các hiệp định tự do hoá thương mại và rà soát chính sách thương mại của quốc gia thành viên. Với mục tiêu xây dựng môi trường thương mại toàn cầu ổn định, minh bạch cũng như giải quyết công bằng các tranh chấp thương mại, WTO đã xây dựng thành công một hệ thống giải quyết tranh chấp toàn diện nhằm đảm bảo tất cả thành viên tuân thủ luật thương mại quốc tế. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được coi là một trong những thành tựu lớn nhất của hệ thống thương mại đa phương, góp phần duy trì sự ổn định, công bằng và tính dễ dự đoán trong quan hệ thương mại quốc tế. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp này cũng đối mặt với nhiều thách thức và hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh xuất hiện các cuộc chiến thương mại cũng như sự phát triển của các hiệp định thương mại khu vực và quá trình cải cách, cập nhật chậm trễ các quy tắc của WTO. Do đó, bài viết này sẽ tập trung phân tích cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giữa các quốc gia thành viên và những lãnh thổ thuế quan riêng biệt, từ đó đưa nhận xét ưu và nhược điểm của cơ chế này.[1] I. Lịch sử phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng trên cơ sở Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) và kế thừa các quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947).[2] Trước khi WTO ra đời vào tháng 01/1995, GATT 1947 đã xây dựng một hệ thống giải quyết tranh chấp trong suốt gần 50 năm với nền tảng là Điều XXII, Điều XXIII GATT 1947 và các quy tắc và thủ tục chuyên biệt được hệ thống hoá trong khuôn khổ của Hiệp định này.[3] Theo đó, Điều XXII GATT 1947 đặt ra yêu cầu về thủ tục tham vấn (“consultation”) giữa các thành viên Hiệp định này và thiết lập các nhóm làm việc để giải quyết các tranh chấp cụ thể.[4] Điều XXIII quy định quy trình giải quyết tình trạng quyền lợi thương mại của một quốc gia thành viên bị vô hiệu hóa (“nullification") hoặc bị suy yếu (“impairment”) do một Bên ký kết không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thương mại.[5] Ban đầu, tranh chấp trong khuôn khổ GATT 1947 được giải quyết thông qua Phán quyết của Chủ tịch Hội đồng GATT, sau này nhiệm vụ hoà giải tranh chấp được chuyển sang cho các ban hội thẩm (“panel”).[6] Những ban hội thẩm này bao gồm từ 03 đến 05 chuyên gia độc lập có nhiệm vụ đưa ra báo cáo cùng phán quyết giải quyết tranh chấp để chuyển đến Hội đồng GATT.[7] Báo cáo của ban hội thẩm có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp trên cơ sở chấp thuận của Hội đồng GATT. Hạn chế lớn nhất của cơ chế này xuất phát từ việc hệ thống giải quyết tranh chấp GATT 1947 hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận, đòi hỏi sự đồng ý giữa các bên ký kết để thành lập ban hội thẩm, thông qua báo cáo của ban hội thẩm và cho phép áp dụng các biện pháp tạm thời với các bên không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ.[8] Hơn nữa, quá trình giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ GATT 1947 thường bị trì hoãn hoặc chậm trễ dẫn đến việc bên thắng kiện chịu thiệt hại nghiêm trọng do sản phẩm hoặc lĩnh vực sản xuất mất khả năng cạnh tranh trong quá trình giải quyết tranh chấp.[9] Ngoài ra, việc thông qua các thỏa thuận nhiều bên của Vòng đàm phán Tokyo (thường được gọi là Bộ quy tắc Vòng đàm phán Tokyo), bao gồm các thủ tục giải quyết cho từng tranh chấp mới cụ thể đã dẫn đến việc hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947 chồng chéo, không thống nhất và làm gia tăng các biện pháp trừng phạt đơn phương với các quốc gia đang phát triển. Những hạn chế này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với các quốc gia phát triển, đang phát triển về việc xây dựng một hệ thống giải quyết tranh chấp mới trong Vòng đàm phán Uruguay. Kết quả là các bên đã thông qua Quyết định ngày 12 tháng 4 năm 1989, đưa ra những cải tiến sơ bộ đối với quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp của GATT, bao gồm các điều khoản về ban hội thẩm, khung thời gian giải quyết tranh chấp, và cải tiến thủ tục thông qua báo cáo của ban hội thẩm và xem xét phúc thẩm. Hơn nữa, trong khuôn khổ Vòng đàm phán Uruguay, các quốc gia đã thông qua Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) nhằm xây dựng một hệ thống giải quyết tranh chấp mới trong WTO trên cơ sở kế thừa hệ thống GATT 1947.[10] DSU đặt ra một hệ thống giải quyết tranh chấp cho các Hiệp định trong khuôn khổ WTO được liệt kê tại Phụ lục 1 của Thỏa thuận này, bao gồm Hiệp định Marrakesh, các Hiệp định Thương mại Đa phương và thương mại tuỳ nghi của một số Thành viên.[11] Một trong những thay đổi quan trọng nhất của hệ thống giải quyết tranh chấp mới là việc DSU đặt ra 03 nguyên tắc giải quyết tranh chấp: (i) cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ của các Bên ký kết, (ii) giải quyết tích cực tranh chấp và (iii) cấm áp dụng các biện pháp trả đũa đơn phương khi chưa có sự cho phép của WTO.[12] Bên cạnh đó, cơ sở pháp lý của hệ thống giải quyết tranh chấp WTO còn được mở rộng và bao gồm các điều khoản về thủ tục giải quyết tranh chấp đặc biệt tại một số Hiệp định trong khuôn khổ WTO, tiêu biểu như Điều 11 Hiệp định về các Biện pháp Kiểm dịch Thực vật (SPS).[13] II. Các cơ quan của WTO tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp Trong cơ cấu tổ chức của WTO hiện nay có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, bao gồm: Tổng giám đốc và Ban thư ký của WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp, Ban hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm, trọng tài viên, chuyên gia độc lập và các cơ quan khác. Tuy nhiên, với mục tiêu giới thiệu những nét tiêu biểu về hệ thống giải quyết tranh chấp trong WTO, bài viết này sẽ chỉ tập trung vào ba cơ quan có vai trò quan trọng nhất trong hệ thống này là: (i) cơ quan giải quyết tranh chấp; (ii) ban hội thẩm và (iii) cơ quan Phúc thẩm. 1. Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) Được thành lập trên cơ sở DSU, thành viên của DSB bao gồm đại diện từ tất cả các thành viên WTO tương tự như Đại Hội đồng WTO với nhiệm vụ chính là “quản lý những quy tắc và thủ tục của DSU này và các điều khoản về tham vấn và giải quyết tranh chấp của các hiệp định có liên quan, trừ khi trong hiệp định có liên quan có quy định khác”.[14] Căn cứ theo Điều 2.1 DSU, DSB có quyền thành lập ban hội thẩm, thông qua các báo cáo từ ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến nghị, đồng thời cho phép tạm dừng các nghĩa vụ theo các hiệp định có liên quan.[15] Điều đáng lưu ý là DSB không trực tiếp xem xét giải quyết tranh chấp mà chỉ là cơ quan thông qua quyết định.[16] Để thông qua các quyết định tại DSB, nguyên tắc đồng thuận sẽ được áp dụng. Trong chú thích số 1 Điều 2.4 DSU giải thích quyết định sẽ được DSB thông qua “nếu không có thành viên nào tại cuộc họp của DSB quyết định về vấn đề này chính thức phản đối quyết định đã được đề xuất.”[17] Tuy nhiên, đối với quyết định thành lập ban hội thẩm, thông qua báo cáo của ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, DSB sẽ áp dụng nguyên tắc đồng thuận phủ quyết hay đồng thuận tiêu cực. Điều này có nghĩa là quyết định của DSB gần như được tự động thông qua với chỉ một ngoại lệ là tất cả thành viên DSB bỏ phiếu chống.[19] Nguyên tắc đồng thuận phủ quyết đã khắc phục được hạn chế lớn nhất của hệ thống giải quyết tranh chấp GATT 1947, nơi áp dụng nguyên tắc đồng thuận truyền thống (quyết định chỉ được thông qua nếu tất cả thành viên đều bỏ phiếu thuận), giảm thiểu tình trạng đình trệ trong quá trình đưa ra quyết định. 2. Ban hội thẩm (Panel) Tương tự như ban hội thẩm của hệ thống GATT 1947, ban hội thẩm trong cơ chế giải quyết của WTO sẽ bao gồm từ 03 đến 05 thành viên có nhiệm vụ xem xét các khía cạnh pháp lý của vụ việc và đệ trình báo cáo lên DSB, trong đó đưa ra kết luận về việc liệu các khiếu nại của bên nguyên đơn có cơ sở pháp lý vững chắc hay không.[20] Nếu ban hội thẩm nhận thấy rằng các khiếu nại thực sự có cơ sở pháp lý và hành vi của quốc gia bị đơn cấu thành vi phạm các nghĩa vụ của WTO, ban hội thẩm sẽ đưa ra khuyến nghị mang tính ràng buộc đối với các Bên tranh chấp. Tựu chung lại, ban hội thẩm có nhiệm vụ chịu trách nhiệm xét xử sơ thẩm các tranh chấp giữa các Thành viên WTO. Điều này có nghĩa là không có ban hội thẩm thường trực tại WTO, thay vào đó, một ban hội thẩm sẽ được thành lập để giải quyết từng tranh chấp cụ thể. 3. Cơ quan Phúc thẩm (Appellate Body) Khác với ban hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm là một trong những sáng kiến mới của Vòng Đàm phán Uruguay và không tồn tại trong hệ thống giải quyết tranh chấp cũ theo GATT 1947. Cơ quan này gồm 07 thành viên có chuyên môn cao về luật pháp, thương mại quốc tế và những vấn đề trong khuôn khổ các hiệp định có liên quan đến WTO, được bầu trên cơ sở đồng thuận giữa thành viên WTO tại DSB với nhiệm kỳ kéo dài 04 năm (tối đa 02 nhiệm kỳ).[21] Cơ quan phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai và cấp cuối cùng của hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. Đối với điều kiện kháng cáo, Điều 17.4 DSU quy định “chỉ các bên có tranh chấp, chứ không phải các bên thứ ba, mới có quyền kháng cáo báo cáo của ban hội thẩm [trừ trường hợp] bên thứ ba đã thông báo cho DSB về quyền lợi đáng kể đối với vấn đề tranh chấp theo khoản 2 Điều 10”.[22] Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Cơ quan phúc thẩm sẽ xét lại các vấn đề pháp lý còn tranh cãi trong báo cáo của ban hội thẩm và đi đến quyết định duy trì, bãi bỏ hoặc điều chỉnh hợp lý các kết luận pháp lý ban đầu của Ban hội thẩm.[23] Cần chú ý rằng, Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm không có quyền tạo ra hoặc hạn chế các quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO theo các hiệp định liên quan. III. Trình tự giải quyết tranh chấp Quy trình giải quyết tranh chấp của WTO gồm 03 giai đoạn chính: (i) tham vấn giữa các bên; (ii) xét xử bởi Ban hội thẩm hoặc bởi Cơ quan Phúc thẩm; và (iii) thực thi phán quyết, bao gồm khả năng áp dụng các biện pháp trả đũa trong trường hợp bên thua kiện không thực thi phán quyết.[24] Sơ đồ trình tự giải quyết tranh chấp trong WTO (Nguồn: The World Trade Organization) 1. Giai đoạn Tham vấn 1.1. Tham vấn (Consultation) Theo Điều 3.7 DSU, mục tiêu mà DSU ưu tiên hướng đến là một giải pháp phù hợp với các hiệp định của WTO và được các bên liên quan thống nhất.[25] Vì vậy, tham vấn song phương là giai đoạn giải quyết tranh chấp chính thức đầu tiên.[26] Trước hết, Bên có khiếu nại phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia, đồng thời thông báo yêu cầu đó đến DSB cũng như các Hội đồng và Ủy ban có liên quan.[27] Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải thiện chí tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu tham vấn.[28] Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, như trường hợp hàng hoá liên quan có nguy cơ hư hỏng, thời hạn để tiến hành tham vấn có thể được rút ngắn còn 20 ngày.[29] Việc tham vấn được bảo mật và không ảnh hưởng đến bất kỳ quyền nào của các Bên trong các thủ tục tố tụng sau đó.[30] Sau khi các cuộc tham vấn không đem lại được một giải pháp thỏa đáng cho các bên trong vòng 60 ngày thì Bên có khiếu nại có thể đề nghị được xét xử bởi Ban hội thẩm.[31] Trường hợp chưa kết thúc 60 ngày tham vấn mà các bên thống nhất cho rằng tham vấn sẽ không đem lại một giải pháp thỏa đáng cho tranh chấp thì Bên có khiếu nại vẫn có thể tiến hành đề nghị thành lập một Ban hội thẩm trước thời hạn trên.[32] Thông thường các quốc gia đều mong muốn giải quyết các bất đồng ở giai đoạn tham vấn nhằm hạn chế tối đa các thiệt hại về lợi ích cho tất cả các bên, đồng thời đảm bảo tính bảo mật của các thông tin liên quan đến tranh chấp. Vì lý do đó, đến nay, đa số các tranh chấp trong WTO thường chỉ dừng lại ở bước tham vấn này.[33] 1.2. Môi giới, Trung gian, Hoà giải (Good Office, Mediation, Consultation) Cùng với tham vấn, môi giới, trung gian, và hòa giải là một trong các hình thức giải quyết tranh chấp phi tư pháp trong hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. Môi giới, trung gian, và hòa giải có thể bắt đầu và chấm dứt vào bất kỳ thời điểm nào kể từ khi yêu cầu tham vấn được đệ trình, kể cả khi Ban Hội thẩm đã được thành lập và tiến hành hoạt động.[34] Tương tự tham vấn, các thủ tục này được tiến hành trên cơ sở tự nguyện, bảo mật và không ảnh hưởng đến bất kỳ quyền nào của các Bên trong các thủ tục tố tụng sau đó.[35] 2. Giai đoạn Hội thẩm và Phúc thẩm 2.1. Thành lập Ban hội thẩm (Panel Establishment) Như đã đề cập ở Mục 1, nếu các cuộc tham vấn không giải quyết được tranh chấp thì các bên sẽ tiến vào giai đoạn Hội thẩm. Việc thành lập Ban hội thẩm là bước đầu tiên của giai đoạn này.[36] Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được trình bày dưới dạng văn bản và gửi tới DSB để cơ quan này ra quyết định thành lập Ban hội thẩm.[37] Đồng thời, yêu cầu này phải nêu rõ quá trình tham vấn, xác định cụ thể các biện pháp trong tranh chấp (“measures at issue”), và tóm tắt các cơ sở pháp lý cho việc khiếu nại.[38] Ban hội thẩm sẽ bao gồm 03 thành viên, trừ khi các bên trong tranh chấp thống nhất trong vòng 10 ngày kể từ quyết định thành lập Ban hội thẩm rằng Ban hội thẩm sẽ gồm 05 thành viên.[39] Ngoài ra, trong vòng 20 ngày kể từ quyết định thành lập Ban hội thẩm, nếu các bên trong tranh chấp không thống nhất chỉ định được thì thành viên Ban hội thẩm sẽ do Tổng Giám đốc WTO chỉ định trong số các quan chức chính phủ/phi chính phủ, hoặc các chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực luật, chính sách thương mại quốc tế đáp ứng các yêu cầu về tính chuyên môn và tính độc lập.[40] 2.2. Hoạt động của Ban hội thẩm (Panel Procedures) Quá trình xét xử thực chất (“substantive”) có thể bắt đầu bằng việc các bên trao đổi văn bản đệ trình về bất kỳ vấn đề sơ bộ (“preliminary issue”) nào mà Bên bị đơn đưa ra.[40] Trường hợp không có vấn đề sơ bộ nào được đưa ra, Ban hội thẩm sẽ ấn định một thời gian biểu cụ thể cho phiên xét xử đầu tiên, trong đó các bên trình bày các văn bản giải trình tình tiết vụ việc và các lập luận liên quan trong bản đệ trình (written submission), và phiên xét xử thứ hai, trong đó đại diện của các Bên lần lượt trình bày ý kiến và trả lời các câu hỏi của Ban hội thẩm trong phiên xét xử (oral hearings).[42] Sau phiên xét xử thứ hai, Ban hội thẩm soạn thảo và chuyển đến các bên phần Tóm tắt nội dung tranh chấp của báo cáo để họ cho ý kiến trong một thời hạn nhất định. Trên cơ sở các ý kiến này, Ban hội thẩm đưa ra Báo cáo tạm thời, trong đó trình bày mô tả vụ việc, các lập luận, và kết luận của Ban hội thẩm để các bên cho ý kiến về bản Báo cáo tạm thời này.[43] Ban hội thẩm có thể tổ chức thêm một phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể các vấn đề liên quan nếu các bên có yêu cầu.[44] Sau đó Ban hội thẩm soạn thảo Báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các thành viên WTO và chuyển cho DSB thông qua.[45] 2.3. Thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm (Adoption of Panel Report) Báo cáo của Ban hội thẩm được gửi tới tất cả các thành viên WTO. Trong vòng 60 ngày kể từ thời điểm Báo cáo được gửi tới các thành viên WTO, Báo cáo sẽ được DSB thông qua, trừ khi một trong các bên tranh chấp thông báo đến DSB về ý định kháng cáo hoặc DSB thống nhất không thông qua Báo cáo.[46] 2.4. Trình tự Phúc thẩm (Appellate Review) Nếu một trong các bên tranh chấp thông báo đến DSB về ý định kháng cáo trước khi Báo cáo của Ban hội thẩm được DSB thông qua, tranh chấp sẽ được chuyển đến Cơ quan Phúc thẩm xem xét, với những trình tự và thủ tục riêng cho giai đoạn phúc thẩm.[47] Tuy nhiên, thủ tục xét xử phúc thẩm nhìn chung phải hoàn tất trong vòng 60 ngày và trong mọi trường hợp không được vượt quá 90 ngày kể từ ngày một trong các bên tranh chấp nộp thông báo kháng cáo.[48] 3. Giai đoạn Thi hành 3.1. Thi hành (Implementation) Sau khi DSB thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm (và Cơ quan phúc thẩm), DSB sẽ gửi các khuyến nghị hoặc phán quyết (“recommendations or rulings”) đến (i) Bên thua kiện (trong trường hợp Bên khiếu nại khiếu nại thành công) để Bên thua kiện tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với các quy định của WTO; hoặc (ii) các bên (trong trường hợp Bên khiếu nại khiếu nại không thành công) để tìm ra sự điều chỉnh thỏa đáng cho cả hai bên.[49] Bên thua kiện phải thông báo ý định thực hiện các khuyến nghị của mình tại cuộc họp DSB được tổ chức trong vòng 30 ngày kể từ ngày Báo cáo được thông qua.[50] Nếu Bên thua kiện cho rằng Bên đó không thực hiện được ngay các khuyến nghị trên, Bên đó có thể được gia hạn trong một khoảng thời gian hợp lý (“reasonable”) được DSB chấp nhận theo yêu cầu của Bên đó, hoặc theo thỏa thuận của các bên tranh chấp.[51] Trên thực tế, các quốc gia thành viên WTO rất ít khi tuyên bố không thể thực hiện được các khuyến nghị của DSB.[52] DSB cũng là cơ quan giám sát việc thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết của các bên.[53] 3.2. Bồi thường và Trả đũa (Compensation and Retaliation) Nếu Bên thua kiện không thể thực hiện các khuyến nghị của DSB trong một khoảng thời gian hợp lý, Bên thắng kiện có quyền yêu cầu Bên thua kiện tham gia đàm phán nhằm thỏa thuận một mức bồi thường cho Bên thắng kiện. Việc bồi thường phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với các hiệp định có liên quan.[54] Nếu các bên không thống nhất được mức bồi thường thỏa đáng trong vòng 20 ngày kể từ khi hết hạn thực hiện khuyến nghị, Bên thắng kiện có thể yêu cầu DSB cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa thương mại đối với Bên thua kiện.[55] Ví dụ, Bên thắng kiện có thể không thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan có hiệu lực ràng buộc theo Điều II của GATT 1994 đối với Bên thua kiện.[56] Mức độ của các biện pháp trả đũa được DSB quyết định căn cứ trên mức độ ảnh hưởng mà hành vi của Bên thua kiện gây ra cho Bên thắng kiện.[57] Cần lưu ý rằng bồi thường và trả đũa chỉ là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử dụng nhằm đảm bảo lợi ích của Bên thắng kiện trong thời gian Bên thua kiện không thể thực hiện được khuyến nghị của DSB. Các biện pháp này không làm chấm dứt nghĩa vụ thực hiện khuyến nghị của Bên thua kiện.[58] IV. Kết luận Có thể thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một hệ thống giải quyết tranh chấp toàn diện nhằm đảm bảo tất cả thành viên tuân thủ luật thương mại quốc tế. Tuy nhiên, vì bao gồm nhiều giai đoạn thực hiện mà mỗi vụ tranh chấp được xét xử bởi WTO thường sẽ kéo dài và đôi khi còn đi vào bế tắc, từ đó gây ra những thiệt hại kinh tế đáng kể cho Bên có khiếu nại. Trước bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới phát triển ngày càng mạnh mẽ, WTO cần có các giải pháp để nâng cao hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, từ đó củng cố vai trò của WTO trong hệ thống thương mại quốc tế hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bạn có bất kỳ ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Những lãnh thổ thuế quan riêng biệt được hiểu là những vùng lãnh thổ (không phải quốc gia) có quyền tự quyết trong quan hệ thương mại quốc tế và những vấn đề khác trong phạm vi điều chỉnh của WTO (Ví dụ: Liên minh Châu Âu (EU), Đài Loan, Hồng Kông,...). [2] [6] [7] World Trade Organization Secretariat, A Handbook on the WTO Dispute Settlement System (1st edn, Cambridge University Press 2004). [3][28][43][45] VCCI, Văn Bản Điều Chỉnh Hoạt Động Giải Quyết Tranh Chấp Trong WTO, Trung tâm WTO và Hội nhập, (26/10/2010) < https://trungtamwto.vn/chuyen-de/176-van-ban-dieu-chinh-hoat-dong-giai-quyet-tranh-chap-trong-wto > truy cập ngày 02 tháng 08 năm 2023. [4] Điều XXII, GATT 1947. [5] Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Tổ chức Thương mại thế giới (WTO-OMC), Học viện Quan hệ quốc tế (4/2008) tr 38. [8] Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Tổ chức Thương mại thế giới (WTO-OMC), Học viện Quan hệ quốc tế (4/2008) tr 39, xem thêm tại World Trade Organization Secretariat, A Handbook on the WTO Dispute Settlement System (1st edn, Cambridge University Press 2004). [9] Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Tổ chức Thương mại thế giới (WTO-OMC), Học viện Quan hệ quốc tế (4/2008) tr 39. [10] Phụ lục 2 Hiệp định Marrakesh thành lập WTO. [11] Phụ lục 1, Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [12] Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Tổ chức Thương mại thế giới (WTO-OMC), Học viện Quan hệ quốc tế (4/2008) tr 39-40. [13] Điều XXIII, GATT 1947, xem thêm tại Nguyễn Thị Thu Trang, Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO (19/10/2008) < https://phapluatdansu.edu.vn/2008/10/19/06/41/c%C6%A1-ch%E1%BA%BF-gi%E1%BA%A3i-quy%E1%BA%BFt-tranh-ch%E1%BA%A5p-trong-wto/ > truy cập ngày 02 tháng 08 năm 2023. [14] [15] Điều 2.1, Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [16] Nguyễn Thị Thu Trang, Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO (19/10/2008) < https://phapluatdansu.edu.vn/2008/10/19/06/41/c%C6%A1-ch%E1%BA%BF-gi%E1%BA%A3i-quy%E1%BA%BFt-tranh-ch%E1%BA%A5p-trong-wto/ > truy cập ngày 02 tháng 08 năm 2023. [17] Chú thích số 1; Điều 2.4, Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [18] Điều 6.1, 16.4, 17.14 và 22.6, Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [19] Điều 11 và Điều 19, Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [20] Điều 2.4, Điều 17.2 và Điều 17.3 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [21] Điều 17.4 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [22] Điều 17.13 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [23] World Trade Organization, The process — Stages in a typical WTO dispute settlement case: Flow chart of the Dispute Settlement Process < https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/disp_settlement_cbt_e/c6s1p1_e.htm > truy cập ngày 11 tháng 08 năm 2023. [24] Điều 3.7 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [25] Điều 4 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [26] Điều 4.4 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. Các Hội đồng và Ủy ban có liên quan (“relevant Councils and Committees”) là các Hội đồng và Ủy ban có quyền giám sát các hiệp định có liên quan đến tranh chấp. [27] Điều 4.3 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [29] Điều 4.6 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [30] Điều 4.7 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [31] Điều 4.7 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [32] World Trade Organization, The process — Stages in a typical WTO dispute settlement case: Consultations < https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/disp_settlement_cbt_e/c6s2p1_e.htm#fnt2 > truy cập ngày 11 tháng 08 năm 2023. [33] Điều 5.3 và Điều 5.5 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [34] Điều 5.1 và Điều 5.2 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [35] [40] World Trade Organization, The process — Stages in a typical WTO dispute settlement case: The Panel Stage < https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/disp_settlement_cbt_e/c6s3p3_e.htm > truy cập ngày 11 tháng 08 năm 2023. [36] Điều 6.1 và Điều 6.2 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [37] Điều 6.2 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [38] Điều 8.5 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [39] Điều 8.1, Điều 8.2 và Điều 8.7 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [41] Điều 12.6 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [42] [44] Phụ lục 3, Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [46] [47] Điều 16.4 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [48] Điều 17.5 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [49] [52] World Trade Organization, The process — Stages in a typical WTO dispute settlement case: Implementation by the “losing” Member < https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/disp_settlement_cbt_e/c6s7p1_e.htm > truy cập ngày 11 tháng 08 năm 2023. [50] Điều 21.3 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [51] Điều 21.3.a và Điều 21.3.b Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [53] Điều 2 và Điều 21.6 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [54] Điều 22.1 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. [55] Điều 22.2 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. Điều 22.2 DSU quy định các biện pháp trả đũa này dưới tên gọi “việc tạm dừng các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan”. [56] World Trade Organization, The process — Stages in a typical WTO dispute settlement case: Countermeasures by the prevailing Member (suspension of obligations) < https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/disp_settlement_cbt_e/c6s10p1_e.htm > truy cập ngày 11 tháng 08 năm 2023. [57] Điều 22.4 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. Nguyên văn: “The level of the suspension of concessions or other obligations authorized by the DSB shall be equivalent to the level of the nullification or impairment.” [58] Điều 22.1 Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp.

  • [7] QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA ĐƯỜNG CƠ SỞ VÀ VẤN ĐỀ ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG TRONG YÊU SÁCH TỨ SA CỦA TRUNG QUỐC

    Tác giả: Nguyễn Khánh Linh, Tăng Bảo Đan Việc xây dựng đường cơ sở của các quốc gia trên biển là yếu tố quan trọng bậc nhất vì từ đó các vùng biển và quy chế pháp lý của chúng mới được xác định. Mặc dù đã tồn tại ba loại đường cơ sở theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982), thực tế vẫn tồn tại những tranh chấp liên quan đến việc xây dựng đường cơ sở, đặc biệt là xác lập đường cơ sở của các thực thể nổi trên biển thuộc các quốc gia lục địa, tiêu biểu không thể không nhắc tới yêu sách “Tứ Sa” của Trung Quốc đối với bốn “quần đảo” tại Biển Đông. 1. Quy chế pháp lý về đường cơ sở Điều 5 của UNCLOS 1982 đưa ra định nghĩa về đường cơ sở thông thường, trong khi Điều 6 và Điều 13 quy định về các trường hợp đặc biệt của đường cơ sở, gắn với các đảo, rặng san hô và bãi cạn lúc nổi lúc chìm. Điều 46 và 47 quy định thêm về đường cơ sở quần đảo áp dụng đối với các quốc gia quần đảo. Đường cơ sở là căn cứ để xác định chiều rộng của lãnh hải, từ đó xác định được hầu hết các vùng biển như nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, biển cả và trong một số trường hợp là thềm lục địa và vùng.[1] Theo đó, đường cơ sở được nối dựa trên các điểm cơ sở (basepoints) được xác định.[2] a. Đường cơ sở thông thường Đường cơ sở thông thường được quy định “là đường ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc theo bờ biển như được vạch trên bản đồ có tỷ lệ lớn được quốc gia ven biển công nhận chính thức.”[3 ] T heo đó, để xác định ngấn nước thủy triều thấp nhất thì các thực tế các quốc gia thường sử dụng hai phương pháp (i) Trung bình nước ròng triều cường (Mean Low-Water Springs), Trung bình của hai triều thấp trong những ngày xảy ra triều cường, và (ii) Thủy triều thiên văn thấp nhất (Lowest Astronomical Tide), Thủy triều thấp nhất dự đoán xảy ra.[4] Và do đườn g n gấn nước cần được vạch trên bản đồ với tỷ lệ lớn, nên các đặc tính tự nhiên không ổn định sẽ được đơn giản hóa dựa trên những nét chính.[5] Cuối cùng, đường cơ sở thông thường phả i được chính quốc gia ven biển đó công nhận một cách chính thức, và không loại trừ khả năng đường cơ sở này có thể bị phản đối bởi các quốc gia không ven biển.[6] b. Đường cơ sở thẳng Theo UNCLOS 1982, đường cơ sở thẳng là đường được vẽ dọc theo bờ biển, theo “hướng chung của bờ biển”. Đường cơ sở này được dùng để đo chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia. Đường cơ sở thẳng có thể được vẽ trong những trường hợp cụ thể, khi (i) đường bờ biển khúc khuỷu, lồi lõm; (ii) đường bờ biển có chuỗi đảo chạy dọc và gần bờ, và (iii) đường bờ biển không ổn định do có đồng bằng châu thổ hay các điều kiện tự nhiên khác. [7] Trong những trường hợp như vậy, các quốc gia ven biển sẽ lựa chọn các điểm cơ sở (basepoints) và nối các điểm cơ sở đó lại tạo thành đường cơ sở thẳng theo "những chỗ khúc khuỷu của bờ biển" và không quá dài. [8] UNCLOS 1982 cũng quy định rõ rằng các đường cơ sở thẳng không được vẽ "chênh lệch ở bất kỳ mức độ đáng kể nào so với hướng chung của bờ biển", trừ những trường hợp cụ thể. [9] Phương pháp đường cơ sở thẳng trong UNCLOS 1982 được pháp điển hóa từ một vụ việc thực tiễn với phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) [10] - Vụ Ngư trường Na Uy năm 1951. [11] Theo đó, với điều kiện tự nhiên là đường bờ biển khúc khuỷu, khoét sâu và lồi lõm, Na Uy đã sáng tạo ra phương pháp đường cơ sở thẳng bằng việc nối những điểm lồi hoặc lõm nhất trên bờ biển và chuỗi đảo chạy dọc bờ biển để tạo nên đường cơ sở. [12] Anh cho rằng phương pháp đường cơ sở do Na Uy xác lập năm 1939 không dựa trên các nguyên tắc và tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế, mà vốn dĩ vẫn chưa tồn tại quy định về đường cơ sở thẳng vào thời điểm bấy giờ. [13] Tuy nhiên, Tòa ICJ công nhận đường cơ sở của Na Uy và cho rằng các quốc gia ven biển có thể linh hoạt trong trường hợp bờ biển có các đặc điểm địa lý khác thường. [14] Việc sử dụng đường cơ sở thẳng là công cụ cần thiết để các quốc gia ven biển bảo vệ các lợi ích và tài nguyên biển của mình, đặc biệt trong trường hợp đường bờ biển bị thụt vào sâu hoặc có các đảo ven biển.[15] Lưu ý rằng các trường hợp sử dụng các đường cơ sở thẳng có thể được xem xét bởi các tòa án quốc tế, đảm bảo rằng việc vẽ đường cơ sở thẳng này phù hợp với UNCLOS 1982 và luật pháp quốc tế.[16] c. Đường cơ sở quần đảo Cơ chế xây dựng đường cơ sở quần đảo được áp dụng dành riêng cho các quốc đảo (archipelago state), quy định tại Điều 47 của UNCLOS 1982. Về cơ bản, cách xây dựng đường cơ sở này là nối liền các điểm ngoài cùng xa bờ nhất của các đảo, các thực thể lúc chìm lúc nổi của quốc đảo. [17] Tuy nhiên khi so sánh về mặt bản chất, đường cơ sở quần đảo là một trường hợp phái sinh từ đường cơ sở thẳng dựa trên thực tế các quốc đảo sẽ thỏa mãn điều kiện vẽ đường cơ sở thẳng vì có (i) bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm, (ii) chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, và (iii) bờ biển cực kỳ không ổn định do địa hình châu thổ hay đặc điểm tự nhiên khác. [18] Thế nhưng một quốc gia không thể tự tiện sử dụng đường cơ sở quần đảo cho quốc gia của mình hay các thực thể xa bờ. Điều đặc biệt cần lưu ý là để áp dụng đường cơ sở này, quốc gia ấy cần phải là một quốc đảo đáp ứng đủ các điều kiện được quy định tại Điều 46 của UNCLOS 1982. Đường cơ sở quần đảo tạo ra các vùng biển như nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế,… Những vùng biển này có quy chế pháp lý giống như những vùng biển được tạo ra khi phân định bằng hai loại đường cơ sở thông thường và đường cơ sở thẳng. [19] 2. Phân tích yêu sách “Tứ Sa” của Trung Quốc a. Lập luận của Trung Quốc Việc Trung Quốc xác lập đường cơ sở quanh bốn “quần đảo” tại Biển Đông đã gây nên nhiều tranh cãi, khi từ các quần đảo này Trung Quốc xác lập các vùng biển của mình theo quy chế pháp lý của UNCLOS 1982. Về cơ bản, yêu sách “Tứ Sa” của Trung Quốc là yêu sách yêu cầu chủ quyền đối với bốn nhóm đảo tại Nam Hải (biển Đông): quần đảo Đông Sa, Tây Sa (Hoàng Sa), Trung Sa, Nam Sa (Trường Sa) và các vùng nước xung quanh các quần đảo. [20] Yêu sách này được đưa ra lần đầu vào năm 2017, [21] dần được phát triển và được công bố trong các công hàm của Trung Quốc, tiêu biểu là Công hàm số CML/14/2019 và Công hàm số CML/11/2020 gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Tuy nhiên trên thực tế “Tứ Sa” chỉ là một cách diễn đàn khác của yêu sách “Đường lưỡi bò” (hay còn có các tên gọi khác là yêu sách đường chữ U, yêu sách đường chín đoạn) - bản yêu sách đã bị phản bác và từ chối thông qua Vụ kiện Biển Đông với Phillipines vào năm 2016. Có thể thấy, ngay sau khi Trung Quốc bị khước từ yêu cầu được công nhận chủ quyền của mình, yêu sách “Tứ Sa” ra đời với lập luận khôn khéo với đối tượng cụ thể là bốn quần đảo và các vùng biển liên quan, nhưng bản chất của yêu sách này vẫn bao quát hầu như toàn bộ khu vực Biển Đông. [22] Một điểm đặc biệt nữa ở yên sách Tứ Sa là yêu sách này chưa bao giờ được Trung Quốc chính thức tuyên bố mà chỉ xuất hiện qua những công hàm của mình. Căn cứ pháp lý của Trung Quốc để đưa ra yêu sách này, theo như Công hàm số CML/42/2020 vào ngày 17/4/2020, bao gồm: (i) Trung Quốc đã có thực tiễn lịch sử lâu đời tại đây và được duy trì liên tục bởi chính phủ Trung Quốc, (ii) dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc, và (iii) UNCLOS 1982. [23] Song, từ góc độ pháp lý của luật pháp quốc tế đều chứng minh rằng những lập luận và căn cứ của Trung Quốc là phi lý và đang đánh tráo khái niệm đối với vấn đề xác định đảo và các thực thể trên biển. b. Lập luận phản biện pháp lý của Việt Nam và thế giới Trước hết, việc Trung Quốc yêu cầu chủ quyền đối với bốn nhóm đảo không dựa trên các chứng cứ lịch sử mang tính thuyết phục. Tại Phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực thành lập theo Phụ lục VII, khi đề cập tới yêu sách đường chữ U, Phán quyết đã chỉ rõ: “Trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước”. [24] Bên cạnh đó, Tòa cũng nhận thấy các bằng chứng về việc Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước và tài nguyên ở Biển Đông là không rõ ràng, vì có rất nhiều đệ trình từ các quốc gia khác cho thấy rằng những hoạt động đi biển cũng như cư dân của các quốc gia này cũng đã sử dụng các đảo tại Biển Đông. [25] Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử này đối với các vùng biển phía bên trong “Đường 9 đoạn”. Thứ hai, các thực thể thuộc bốn nhóm đảo không thỏa mãn các quy định của luật pháp quốc tế để Trung Quốc yêu sách chủ quyền. Phán quyết của Tòa Trọng tài cho rằng, theo Điều 121(3) của UNCLOS 1982 thì “không có thực thể nào thuộc quần đảo Trường Sa đáp ứng điều kiện là đảo. [26] Trung Quốc đồng thời quy định bãi ngầm Trung Sa (Macclesfield) thuộc quần đảo Hoàng Sa, vì vậy Trung Quốc có chủ quyền với Trung Sa. Tuy nhiên, theo UNCLOS 1982 thì các cấu trúc lúc nổi lúc chìm và bãi ngầm không thể được dùng để xác định lãnh hải của riêng nó khi các cấu trúc này có vị trí rất xa so với lãnh hải của lục địa hay đảo. [27] Ngoại lệ duy nhất khi chủ quyền có thể được quy định đối với bãi cạn lúc nổi lúc chìm là khi bãi cạn nằm trong lãnh hải của một đảo, từ đó quốc gia có chủ quyền đối với lãnh hải và đối với bãi cạn nằm trong nó. [28] Bên cạnh đó, các bãi cạn lúc nổi lúc chìm và các bãi ngầm đã được quy định rõ ràng trong luật pháp quốc tế theo UNCLOS 1982 và các tập quán quốc tế, vì vậy không thể được quy định dựa trên các luật và nguyên tắc của thụ đắc lãnh thổ như Trung Quốc lập luận. Điều này dẫn đến kết luận rằng vẽ phương pháp vẽ đường cơ sở thông thường dựa trên các thực thể riêng lẻ là phương pháp hợp pháp duy nhất có thể áp dụng cho các thực thể ở Biển Đông. [29] Bên cạnh đó, theo phán quyết của Trọng tài về vụ việc tại Biển Đông, khả năng cao là các thực thể này chỉ có thể tạo ra lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) như các tuyên bố của Trung Quốc. [30] Thứ ba, bằng cách sử dụng đường cơ sở quần đảo, Trung Quốc tiếp tục những yêu sách phi lý đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển, trái ngược với UNCLOS 1982 và các tập quán quốc tế. [31] Với việc vẽ đường cơ sở quần đảo, Trung Quốc cũng đã ngang nhiên tự vẽ đường cơ sở thẳng bao quanh các đá ở khu vực Hoàng Sa (vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam) vào năm 1996 trong khi nước này không phải là quốc gia quần đảo (theo quy định về đường cơ sở quần đảo được phân tích bên trên). Đường cơ sở quần đảo được thiết lập bởi việc nối các điểm ngoài cùng của các đảo và các rặng san hô khô chỉ dành riêng cho các quốc gia quần đảo, [32] và tất cả các bên tham gia UNCLOS 1982 đã đồng ý với điều đó. Trên thực tế, trong quá trình đàm phán UNCLOS 1982, các quốc gia đã nhất trí loại bỏ việc áp dụng đường cơ sở quần đảo và đường cơ sở thẳng đối với các quần đảo phụ thuộc của các quốc gia lục địa .[33] Trung Quốc nằm trong số các quốc gia đó và sau này thậm chí còn thừa nhận UNCLOS 1982 không điều chỉnh vấn đề về quần đảo xa xôi của các quốc gia lục địa. [34] Do đó, Trung Quốc giờ đây lập luận rằng các quốc gia lục địa đã bảo lưu một cách hiệu quả việc xem xét các quần đảo xa xôi như một đơn vị, và rằng luật tập quán quốc tế cho phép các quốc gia lục địa tạo ra đầy đủ quyền đối với các vùng biển từ các đơn vị quần đảo bên ngoài. [35] Nhìn chung, “Tứ Sa” là một trong những phép thử của Trung Quốc với thế giới, nhằm tuyên bố tham vọng dài hạn của Trung Quốc là được bành trướng lãnh thổ và quyền lực tại khu vực Biển Đông. Bất kể tên gọi của các yêu sách này là gì, thì các quốc gia ven biển cũng sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt là với Việt Nam - một quốc gia ven Biển Đông, có đường bờ biển trải dài hàng nghìn km, có nhiều đảo đá thuộc Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, rất quan trọng để Việt Nam và các quốc gia trên thế giới phân tích và phản biện về các tuyên bố pháp lý của Trung Quốc đối với các vùng biển này, nếu các tuyên bố đó đi ngược lại với luật pháp quốc tế và gây phương hại đến sự ổn định khu vực. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật quốc tế (NXB. Thế giới 2021) 238. [2], [5], [6] United Nations, Office for Ocean Affairs and the Law of the Sea, Baselines: An examination of the Relevant Provisions of the UNCLOS (1989) Chapter 1, Page 3. [3] Điều 5 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. [4] Sam Bateman and Clive Schofield, ‘State practice regarding straight baselines in East Asia – Legal, technical and political issues in a changing environment, paper presented for the international conference on Difficulties in Implementing the Provisions of UNCLOS, Monaco’ (2008) < https://www.iho.int/mtg_docs/com_wg/ABLOS/ABLOS_Conf5/Papers/Session7-Paper1-Bateman.pdf > truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2023. [7], [8], [9] Điều 7 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. [10] Sands, ‘Frameworks, Standards and Implementation – Principles of International Environmental Law’ (1995) Manchester University Press Vol.1. [11], [12], [13], [14] Fisheries case , Judgement of December 18th, I951 ICJ Reports, 1951, p.116. [15], [16] Soyer, B., & Tekin, S., ‘Straight Baselines in the Law of the Sea: Concept and Implications’ (2017) 32(4) International Journal of Marine and Coastal Law, p.613-638. [17] Điều 47(1) Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. [18] Điều 7(2) Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. [19] Điều 48, Điều 49 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. [20] Bùi Thị Thu Hiền, ‘Quá trình hình thành và phát triển yêu sách “Tứ Sa” của Trung Quốc ở biển Đông nhìn từ góc độ luật pháp quốc tế’ (2022) 7 Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc < https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/349939/CVv180S72022057.pd > truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2023. [21], [29], [31] Nguyen Thi Lan Anh, ‘The “Four-Sha” Claim: Signalling a Post Covid-19 Global Order’ Maritime Issues (April 29, 2020) < http://www.maritimeissues.com/uploaded/The%20“Four-Sha”%20Claim_Signalling%20a%20Post%20Covid-19%20Global%20Order(2).pdf > truy cập ngày 17 tháng 03 năm 2023. [22] Đại sứ Nguyễn Hồng Thao chia sẻ quan điểm với Tuần Việt Nam, ‘Đường 9 đoạn và yêu sách Tứ Sa của Trung Quốc’ (22/6/2020) < https://vietnamnet.vn/duong-9-doan-va-yeu-sach-tu-sa-cua-trung-quoc-650587.html >, truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2023. [23] Official Letter CML/14/2019 of December 12, 2019 in response to Malaysia's same-day submission to the Continental Shelf Boundary Commission and Official Letter CML/11/2020 of March 23, 2020 of the Delegation of the People's Republic of China to the United Nations to the Secretary-General of the United Nations, < https://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mys85_2019/CML_14_2019_E.pdf >; xem thêm: Nguyen Thi Lan Anh, ‘The “Four-Sha” Claim: Signalling a Post Covid-19 Global Order’ Maritime Issues (April 29, 2020). [24], [25], [26] South China Sea Arbitration, ‘An Arbitral Tribunal Constituted under Annex VII to the 1982 UNCLOS’ (12 July 2016) Registry PCA. [27] Điều 13 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. [28] Territorial and Maritime Dispute (Nicaragua v. Colombia) , Judgment, ICJ Reports 2012, p. 624. [30], [34], [35] Chinese Society of International Law, ‘The South China Sea Arbitration Awards: A Critical Study’ (2018) 17 Chinese Journal of International Law, 207. [32] Điều 47 và Điều 46(a) Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. [33] Ashley Roach, ‘Offshore Archipelagoes enclosed by Straight Baselines: An Accessive Claim?’ (2018) 49(2) ODIL p.176 - 178.

  • [19] CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

    Tác giả: Dương Duy Khang, Nguyễn Phương Linh Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một trong những thiết chế hợp tác quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. Nhằm đảm bảo các mục đích của WTO, các hiệp định trong khuôn khổ WTO đã xây dựng hệ thống các nguyên tắc không phân biệt đối xử và mở cửa thị trường. Trong bài viết này, nhóm tác giả xin được giới thiệu đến với các bạn đọc nội dung và phạm vi áp dụng các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật WTO. 1. Nguyên tắc về Đối xử tối huệ quốc - Most-Favoured-Nation (MFN) Nguyên tắc MFN là một trong hai nguyên tắc quan trọng nhất trong hệ thống các hiệp định của WTO, bên cạnh nguyên tắc về Đối xử Quốc gia (NT). Tầm quan trọng của nguyên tắc MFN được thể hiện bởi việc nguyên tắc này được pháp điển hóa thành điều khoản đầu tiên của GATT. Từ đó, MFN được thể hiện thêm tại Điều 2 của GATS, và Điều 4 của Hiệp định TRIPS.[1] Nhìn chung, theo Điều I của Hiệp định GATT, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại thế giới.[2] Trong khuôn khổ thoả thuận của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các quốc gia không được phép phân biệt các đối tác thương mại với nhau. Nếu xuất hiện ưu đãi đặc biệt nào đó, những quốc gia thành viên còn lại của WTO buộc phải được đối xử tương tự.[3] Đối với các quốc gia thành viên của WTO, nguyên tắc MFN là một nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý. Sau khi WTO kế thừa GATT 1947,[4] toàn bộ văn bản hệ thống về nguyên tắc MFN phải được xác định là một nguyên tắc cốt lõi, và nghĩa vụ thực hiện nguyên tắc MFN giúp duy trì sự bền vững của hệ thống thương mại đa phương. Sự hội nhập giữa các khu vực và những ngoại lệ liên qua cũng đồng thời phải thực hiện MFN một cách toàn diện nhằm ngăn chặn việc làm hao mòn nguyên tắc MFN.[5] Theo Hiệp định GATT, nguyên tắc MFN “sẽ được áp dụng cho sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ hay giao tới mọi bên ký kết khác ngay lập tức và một cách không điều kiện”.[6] Mặc dù, GATT không có định nghĩa rõ sản phẩm cùng loại (“like products”) theo Điều I là gì; tuy nhiên, trong Hiệp định số 261/WTO/VB về Chống bán phá giá, khái niệm "sản phẩm cùng loại" được hiểu là “sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem xét”.[7] Dù sao, khái niệm “sản phẩm cùng loại” phải được hiểu tùy vào từng bối cảnh vụ việc khác nhau. Ví dụ như trong Vụ Japan-Alcoholic Beverages II , Cơ quan phúc thẩm nhận xét về khái niệm này bằng việc so sánh nó như chiếc đàn ác-coóc-đê-ông có “tính cùng loại” dãn ra và co lại tại những vị trí khác nhau khi các điều khoản khác nhau của Hiệp định WTO được áp dụng. Độ rộng của đàn ác-coóc-đê-ông tại một vị trí cụ thể phải được xác định theo điều khoản cụ thể mà thuật ngữ “tương tự” được viện dẫn, cũng như theo bối cảnh và hoàn cảnh của vụ việc cụ thể mà điều khoản đó được áp dụng.[8] Ngoài các án lệ cụ thể, cũng có các học giả cho rằng Ban hội thẩm của WTO khi xem xét liệu các sản phẩm có là “cùng loại” hay không thì cần xem xét: (i) Đặc điểm của sản phẩm; (ii) Người sử dụng cuối cùng; (iii) Quy định thuế quan của các thành viên khác. Cũng có đề xuất rằng Ban hội thẩm của WTO cân nhắc thêm đến thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng khi quyết định tính “cùng loại” của các sản phẩm.[9] Ngoài ra, nguyên tắc MFN trong GATT cũng đã tạo ra nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc cho các chủ thể của WTO. Ngoài bản chất của nguyên tắc, hai trường hợp dựa trên Điều khoản Cho phép (“Enabling Clause”),[10] quy định các ngoại lệ và miễn trừ của nghĩa vụ đối xử MFN theo hai cách. Thứ nhất, cho phép các bên ký kết dành sự đối xử ưu đãi một chiều cho hàng hoá nhập khẩu từ các quốc gia đang phát triển. Thứ hai, cho phép thiết lập các hiệp định thương mại khu vực giữa các nước kém phát triển nhất.[11] Có thể thấy, MFN là một nguyên tắc thương mại không phân biệt đối xử cốt lõi của luật WTO. MFN đóng vai trò quan trọng trong quan hệ thương mại quốc tế và đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp phần củng cố khung pháp lý về thương mại theo hướng tiến bộ, từng bước hội nhập sâu rộng, vững chắc cho các quốc gia thành viên. 2. Nguyên tắc về Đối xử Quốc gia - National Treatment (NT) Bên cạnh nguyên tắc MFN, nguyên tắc NT cũng được xây dựng trong các Hiệp định GATT, GATS và TRIPS nhằm đảm bảo nguyên tắc không phân biệt, xóa bỏ rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại quốc tế và chống lại chủ nghĩa bảo hộ thương mại.[12] Khác với nguyên tắc MFN bảo đảm sự đối xử bình đẳng giữa các sản phẩm nước ngoài, nguyên tắc NT ngăn cản sự phân biệt giữa sản phẩm nội địa và sản phẩm nước ngoài và vì thế chỉ áp dụng đối với các biện pháp nội địa và không bao gồm các biện pháp áp lên một sản phẩm khi qua hải quan.[13] Tương tự như nguyên tắc MFN, nguyên tắc NT yêu cầu sản phẩm nước ngoài phải được đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm nội địa và các biện pháp nội địa không được áp dụng nhằm mục đích bảo hộ sản phẩm nội địa.[14] Trong khuôn khổ Hiệp định GATT, các biện pháp nội địa bao gồm các khoản thuế, các khoản thu nội địa, pháp luật, quy định, hay yêu cầu tác động đến việc mua bán nội địa, chào bán, mua, vận chuyển, phân phối, hay khai thác sản phẩm cũng như các quy tắc về định lượng yêu cầu pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm ở khối lượng hay tỷ trọng nhất định.[15] Tuy nhiên, rộng hơn nguyên tắc MFN, nội hàm của nguyên tắc NT không đơn thuần bao gồm “sản phẩm cùng loại” mà bao gồm cả các sản phẩm mang tính chất thay thế và cạnh tranh trực tiếp được đặt trong mối quan hệ cạnh tranh với sản phẩm nội địa.[16] Nội dung trên đã được Ban Phúc thẩm của WTO khẳng định trong Vụ Japan-Alcoholic Beverages II và Vụ Canada-Periodicals .[17] Nhằm xác định liệu có sự vi phạm nguyên tắc NT trong phạm vi câu thứ nhất Điều III(2) Hiệp định GATT hay không, hai vấn đề cần được xác định là: (i) liệu sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm nội địa trong một vụ tranh chấp có phải sản phẩm cùng loại hay không; (ii) khoản thuế hay thu nội địa liên quan được áp lên sản phẩm nhập khẩu cần được có vượt quá khoản thuế hay thu nội địa được áp lên sản phẩm tương tự.[18] Một số tiêu chí có thể được áp dụng nhằm xác định sản phẩm cùng loại phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, có thể kể đến là: (i) các đặc điểm, bản chất, và chất lượng của sản phẩm; (ii) tính năng cuối cùng của sản phẩm đó trong một thị trường cụ thể; (iii) thói quen và sở thích của người tiêu dùng; và (iv) sự phân loại theo các chế độ thuế.[19] Các tiêu chí này đã được xem xét trong các vụ như Vụ Japan-Alcoholic Beverages II; [20] Vụ Canada-Periodicals ;[21] Vụ Argentina – Hides and Leather ;[22] và Vụ Philippines – Distilled Spirits [23]. Tuy nhiên, khi xem xét sự phân loại dựa trên các chế độ thuế, chỉ các chế độ thuế mang tính phổ biến và áp dụng chung cho nhiều quốc gia mới có tính tham khảo thay vì các chế độ thuế ưu đãi của mà các quốc gia riêng lẻ cam kết.[24] Bên cạnh đó, khi xem xét các sản phẩm liên quan trong một vụ tranh chấp có phải sản phẩm cùng loại hay không, các sản phẩm đó cần phải đặt trong mối quan hệ cạnh tranh với nhau bởi vì nguyên tắc NT hướng tới mục đích ngăn cản việc bảo hộ thương mại và không ngăn cản các quốc gia thực hiện các biện pháp nội địa nhằm các mục đích cộng đồng khác không phải bảo hộ thương mại.[25] Điều đó có nghĩa là các sản phẩm được so sánh có thể mang một tính chất nào đó khác nhau (ví dụ như khác nhau về thành phần tạo thành) nhưng lại là những sản phẩm cạnh tranh trực tiếp nhau trong một thị trường nhất định và gần như hoàn toàn có thể thay thế cho nhau thì vẫn có thể xem là sản phẩm cùng loại.[26] Sau khi đã xác định các sản phẩm liên quan là sản phẩm cùng loại, một khoản thuế hay thu nội địa vượt quá mức so với khoản thuế hay thu nội địa được áp dụng với sản phẩm nội địa, dù chỉ là một mức vượt quá rất nhỏ, cũng cấu thành sự vi phạm nguyên tắc NT - câu thứ nhất Điều III(2).[27] Như đã đề cập ở trên, nội hàm của câu thứ hai nguyên tắc NT rộng hơn, bao gồm cả những sản phẩm có tính chất cạnh tranh trực tiếp và thay thế được so với sản phẩm nội địa. Khái niệm “sản phẩm có tính chất cạnh tranh trực tiếp và thay thế được” có thể được giải thích qua ví dụ sau: “Quốc gia A nhận được cam kết ưu đãi về thuế từ quốc gia B. Vì quốc gia B không thể trồng được quả cam, quốc gia này có thể áp bất kỳ mức thuế nào lên quả cam. Tuy nhiên, khi áp một mức thuế quá cao lên quả cam, quốc gia B đã bảo hộ quả táo - loại quả mà quốc gia B sản xuất được. Bởi vì khoản thuế nội địa lên quả cao đã cao đến mức mà người tiêu dùng sẽ chọn quả táo thay vì quả cam, quốc gia B đã khiến cam kết ưu đãi về thuế của mình dành cho quốc gia A vô hiệu và khiến quốc gia A không thực hiện được mục đích là mang quả cam của mình vào thị trường quốc gia B.”[28] Khi xem xét liệu một sản phẩm có phải là sản phẩm cạnh tranh trực tiếp và thay thế được, một số yếu tố có thể xem đến bên các đặc tính của sản phẩm liên quan là: (i) hệ số co giãn chéo theo giá (cross-price elasticity); (ii) sự phân loại theo chế độ thuế; (iii) điều kiện canh tranh của một thị trường liên quan; (iv) mức độ có thể thay thế được (elasticity of substitution).[29] Sau khi đã xác định các sản phẩm liên quan là các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp và thay thế được, các vấn đề cần phải xác định tiếp theo nhằm khẳng định một vi phạm nguyên tắc NT - câu thứ hai là: (i) liệu các sản phẩm đó có bị áp thuế khác nhau hay không; (ii) liệu mức thuế khác nhau đó có nhằm mục đích bảo hộ sản phẩm nội địa hay không.[30] Tuy nhiên, khác với các sản phẩm cùng loại yêu cầu khoản thuế áp lên phải bắt buộc bằng nhau, các khoản thuế đối với các sản phẩm cạnh tranh nhau trực tiếp và thay thế được có thể có sự khác biệt ở mức độ có thể bỏ qua, tức là ở mức độ mà mục đích bảo hộ sản phẩm nội địa sẽ không có tác dụng.[31] Khác với nguyên tắc NT trong Hiệp định GATT mang tính áp dụng chung, phạm vi của nguyên tắc NT trong Hiệp định GATS phụ thuộc vào mức độ cam kết của một quốc gia. Nói một cách khác, một quốc gia có thể đặt ra các giới hạn trong đối xử của mình đối với các dịch vụ cùng loại của nước ngoài và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cùng loại, phụ thuộc vào điều kiện và tiêu chuẩn mà quốc gia đó đã đưa ra.[32] Một quốc gia có thể đáp ứng nguyên tắc trên bằng cả đối xử tương tự hay khác biệt đối với dịch vụ nước ngoài và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.[33] Một biện pháp chỉ vi phạm nguyên tắc trên khi biện pháp đó làm thay đổi mối quan hệ cạnh tranh giữa dịch vụ nội địa hay nhà cung cấp dịch vụ nội địa so với dịch vụ nước ngoài cùng loại hay nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cùng loại nhằm mục đích ưu đãi dịch vụ nội địa hay nhà cung cấp dịch vụ nội địa.[34] Tuy nhiên, những bất lợi trong quan hệ cạnh tranh xuất phát từ bản chất nước ngoài của dịch vụ cùng loại hay nhà cung cấp dịch vụ cùng loại, một quốc gia không phải bồi thường cho những bất lợi trên.[35] Khi xem xét tính chất cùng loại của một dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ, các yếu tố cụ thể trong những trường hợp cụ thể cần được tính đến và đặt trong mối quan hệ cạnh tranh giữa các dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ liên quan. 3. Nguyên tắc liên quan đến Tiếp cận Thị Trường - Market Access (MA) Bên cạnh nguyên tắc MFN và nguyên tắc NT, nguyên tắc MA được xây dựng trong Hiệp định GATT và GATS nhằm tự do hóa thương mại quốc tế bằng cách thúc đẩy suy giảm các rào cản thuế và phi thuế.[36] Trong khuôn khổ Hiệp định GATT, nguyên tắc MA yêu cầu các quốc gia tiến hành các vòng đàm phán nhằm đạt được các cam kết về giảm đáng kể mức thuế, không gia tăng mức thuế thấp hay không áp dụng các loại thuế mới không được đặt ra trước đó đối với các loại hàng hóa.[37] Việc tiến hành đàm phán cần tuân theo một số định hướng sau: (i) đàm phán trên cơ sở các bên cùng có lợi; (ii) tính đến nhu cầu của các bên ký kết và từng lĩnh vực cụ thể; (iii) nhu cầu của các quốc gia thế giới thứ ba trong việc áp dụng linh hoạt các biện pháp bảo vệ về thuế nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế và các nhu cầu đặc biệt khác nhằm duy trì các mức thuế vì các mục đích thu nhập; (iv) các hoàn cảnh liên quan khác, bao gồm các nhu cầu về tài khóa, phát triển, chiến lược của các bên ký kết.[38] Bên cạnh các biện pháp về thuế, nguyên tắc MA cũng ngăn cấm các quốc gia áp dụng các biện pháp hạn chế mang tính định lượng như hạn ngạch và các biện pháp về giấy phép xuất khẩu/nhập khẩu.[39] Một số biện pháp phi thuế liên quan khác mà các quốc gia không được thực hiện nhằm tạo rào cản thương mại: (i) sự thiếu minh bạch trong quy định quản lý thương mại; (ii) sự áp dụng các quy định thương mại một cách bất công và tùy ý; (iii) thủ tục thuế quan, rào cản kỹ thuật đối với thương mại, và mua sắm công.[40] Khác với hàng hóa, thương mại dịch vụ chủ yếu chịu tác động từ các biện pháp nội địa. Trong khuôn khổ Hiệp định GATS, một quốc gia chỉ có nghĩa vụ đối xử không kém ưu đãi hơn đối với các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác trong giới hạn các cam kết mà quốc gia đó đưa ra.[41] Điều này có nghĩa là một quốc gia chỉ không được phép đưa ra các giới hạn đối với thương mại dịch vụ vượt quá các cam kết của mình. Một số giới hạn đối với thương mại dịch vụ có thể kể đến là: (i) giới hạn đối với số lượng nhà cung cấp dịch vụ; (ii) giới hạn đối với tổng giá trị của giao dịch dịch vụ hay tài sản dịch vụ; (iii) giới hạn đối với số nhân công.[42] 4. Nguyên tắc liên quan đến chống bán phá giá - (Anti-dumping) Theo Điều VI về Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng trong Hiệp định GATT 1994 , một sản phẩm được xác định là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh của sản phẩm cùng loại được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (anti-dumping) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay.[43] Nguyên tắc chung nêu ra trong Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá ngang nhau. Mức thuế chống phá giá sẽ phụ thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định. Theo Điều VI của GATT 1994, các thành viên WTO có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, nếu sau khi điều tra ra rằng (i) việc bán phá giá đang diễn ra; (ii) ngành sản xuất trong nước, mà ngành đó đang sản xuất một sản phẩm cùng loại với quốc gia nhập khẩu, đang gặp thiệt hại về vật chất; và (iii) tồn tại một mối quan hệ nhân quả giữa hai kết quả trên.[44] 4. Kết luận WTO là một trong những thiết chế quan trọng nhất về lĩnh vực thương mại quốc tế. Nhằm hoạt động hiệu quả, bốn nguyên tắc cơ bản của WTO đã được xây dựng trong bộ các hiệp định trong khuôn khổ WTO bao gồm: (i) Nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc - MFN; (II) Nguyên tắc Đối xử Quốc gia - NT; (iii) Nguyên tắc liên quan đến Tiếp cận Thị trường - MA và (iv) Nguyên tắc liên quan đến chống bán phá giá - Anti-Dumping. Trong đó, nguyên tắc MFN và nguyên tắc NT mang vai trò bảo vệ hàng hóa nhập khẩu khỏi sự phân biệt đối xử với các hàng hóa nhập khẩu cùng loại vào và sản phẩm nội địa cùng loại trong một lãnh thổ thuế quan. Bên cạnh đó, nguyên tắc MA và nguyên tắc Anti-Dumping giúp mở cửa thị trường và bảo đảm các điều kiện cạnh tranh lành mạnh bên trong thị trường. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bạn có bất kỳ thắc mắc/ ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] World Trade Organization, Understanding the WTO: The Agreements, “ Overview: a navigational guide ”. < https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/agrm1_e.htm > [2][6] World Trade Organization, Understanding the WTO: Basics, “ Principles of the trading system ”. < https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/fact2_e.htm#seebox > [3] Hiệp định GATT, Điều I khoản 1. [4] A. Wang, The Interpretation and Application of the Most-Favored-Nation Clause in Investment Arbitration, Chương 1, History of the MFN Clause in International Law, Trang 22. < https://doi.org/10.1163/9789004517899_003 > [5] International Protection of Investments (2020), The Substantive Standards, Cambridge University Press, Phần II Chương 1: Most-Favored-Nation Treatment Principle, trang 255 – 264. [7] Điều 2, khoản 6, Hiệp định số 261/WTO/VB về Chống bán phá giá -Thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại GATT 1994. [8] WTO, Báo cáo của cơ quan phúc thẩm, vụ Japan-Alcoholic Beverages II, trang 114. [9] Peter Van den Bossche et. al (2013), The Law and Policy of the World Trade Organization, 3rd Edition, Cambridge University Press, trang 331. [10] Quyết định năm 1979 về đối xử khác biệt và ưu đãi hơn, có đi có lại và tham gia đầy đủ hơn của các nước đang phát triển” hoặc “Quyết định ngày 28/11/1979 (L/4903)”, hay còn gọi là “Điều khoản cho phép” cho phép các nước đang phát triển gia nhập các hiệp định toàn cầu hoặc khu vực, trong đó quy định giảm hoặc loại bỏ thuế quan và các rào cản phi thuế quan trong thương mại giữa các nước này với nhau. Nó cho phép vi phạm nguyên tắc MFN theo hướng có lợi cho các nước đang phát triển. [11] Council Regulation (EC) No.2501/2001, 10/12/2001, “The General Arrangements”, đoạn 2(a),(d). [12] Hiệp định GATT Điều III; Hiệp định GATS Điều XVII; Hiệp định TRIPS Điều III; Matthias Herdegen, Principles of International Economic Law (Oxford University Press, 2013), trang 195. [13] Hanoi Law University, Textbook on International Trade and Business Law (Youth Publishing House 2017), trang 79. [14] Hiệp định GATT Điều III. [15] Hiệp định GATT Điều III(1),(2). [16] Hiệp định GATT Điều III(1) chỉ đề cập đến sản phẩm được nhập khẩu và nội địa bị áp dụng các biện pháp nội địa nhằm bảo hộ sản phẩm nội địa. Câu thứ nhất Hiệp định GATT Điều III(2) đề cập đến sản phẩm nội địa cùng loại. Câu thứ hai Hiệp định GATT Điều III(2) đề cập đến các khoản thuế và thu nội địa được áp dụng trái với Điều III(1). Phụ lục A, ghi chú bổ sung Điều III giải thích: “Một khoản thuế phù hợp với câu thứ nhất đoạn 2 sẽ chỉ trái với câu thứ hai đoạn 2 khi có mối quan hệ cạnh tranh giữa một sản phẩm bị áp thuế và một sản phẩm cạnh tranh trực tiếp và thay thế nhưng không bị áp thuế tương tự”. [17] Appellate Body Report, Japan – Alcoholic Beverages II, đoạn 19; Appellate Body Report, Canada – Periodicals, đoạn 19. [18] WTO, Appellate Body Report, Canada-Periodicals, đoạn 468; Hanoi Law University, Textbook on International Trade and Business Law (Youth Publishing House 2017) trang 80. [19] Working Party on Border Tax Adjustments, BISD 18S/97, đoạn 18; Matthias Herdegen, Principles of International Economic Law (Oxford University Press, 2013) trang 198. [20] Appellate Body Report, Japan – Alcoholic Beverages II, trang 20. [21] Appellate Body Report, Canada – Periodicals, trang 21-22. [22] Panel Report, Argentina – Hides and Leather, đoạn 11.167. [23] Panel Report, Philippines – Distilled Spirits, đoạn 7.34-7.37. [24] WTO, Appellate Body Report, Japan-Alcoholic Beverages II, đoạn 114-115. [25] WTO, Panel Report 1992, United States - Measures Affecting Alcoholic and Malt Beverages, đoạn 5.23 - 5.26. [26] WTO, Panel Report 1992, United States - Measures Affecting Alcoholic and Malt Beverages, đoạn 5.23 - 5.26; WTO, Appellate Body Report 2011, Philippines: Taxes on Distilled Spirits, đoạn 125, 148, 149. [27] WTO, Appellate Body Report, Japan – Alcoholic Beverages II, đoạn 114-115. [28] WTO, Analytical Index of the GATT - Điều 3, trang 159, chú thích chân trang số 128. [29] WTO, Appellate Body Report, Japan: Taxes on Alcoholic Beverages, đoạn 25. [30] WTO, Report of the Panel 2005, Mexico: Tax Measures on Soft Drinks and Other Beverages, đoạn 8.66. [31] WTO, Panel Report 1987, Japan - Customs Duties, Taxes and Labelling Practices on Imported Wines and Alcoholic Beverages, đoạn 5.11. [32] Hiệp định GATS Điều XVII(1). [33] Hiệp định GATS Điều XVII(2). [34] Hiệp định GATS Điều XVII(3). [35] Hiệp định GATS Điều XVII (fn 10). [36] Hiệp định GATT Điều XXVIIIbis; Hiệp định GATS Điều 15. [37] Hiệp định GATT Điều XXVIIIbis(1),(2). [38] Hiệp định GATT Điều XXVIIIbis(3). [39] Hiệp định GATT Điều XVI(1). [40] Hanoi Law University, Textbook on International Trade and Business Law (Youth Publishing House 2017), trang 93. [41] Hiệp định GATS Điều XVI. [42] Hiệp định GATS Điều XVI(2). [43] Báo Nhân dân (2004), Thông tin Pháp luật Tài chính, “Bán phá giá trong thương mại quốc tế và thực tiễn Việt Nam”. < https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-ttpltc?dDocName=BTC337377 > [44] World Trade Organization, Anti-dumping: technological information on anti-dumping, The UR Agreement: Basic principles. < https://www.wto.org/english/tratop_e/adp_e/adp_info_e.htm#:~:text=Under%20Article%20VI%20of%20GATT,the%20importing%20country%20is%20suffering >

  • [18] TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) VÀ CÁC HIỆP ĐỊNH CƠ BẢN

    Tác giả: Lương Vũ Khánh Ly, Lê Nhật Quỳnh Thương mại từ lâu đã là một khía cạnh quan trọng của nhân loại nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trao đổi văn hóa và quan hệ địa chính trị. Trong thời kỳ hiện đại, thương mại toàn cầu đã mở rộng, kết nối các quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa lẫn dịch vụ. Nhằm đảm bảo tính ổn định và công bằng giữa bối cảnh thương mại quốc tế phát triển mạnh, Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO) đã được ra đời. Trong bài viết này, nhóm tác giả sẽ giới thiệu tổng quan cho các độc giả về Tổ chức Thương mại Thế giới cùng với các hiệp định cơ bản của cơ quan này. I. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 1. Lịch sử hình thành Tổ chức Thương mại Thế giới Sau Thế chiến II, các nước phát triển, dẫn đầu là Hoa Kỳ, đã tìm kiếm một hệ thống thương mại cởi mở, không phân biệt đối xử để cải thiện sự ổn định kinh tế và hòa bình. Từ năm 1948, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) được ra đời với 23 thành viên sáng lập, đóng vai trò là khung pháp lý của hệ thống thương mại quốc tế. Các thành viên này cũng đã cùng một số quốc gia khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (International Trade Organization - ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hợp Quốc.[1] ITO được thành lập để giải quyết các rào cản thương mại, tuy nhiên việc thành lập tổ chức này không thành do vấp phải phản đối từ một vài quốc gia, tiêu biểu trong số đó là Hoa Kỳ.[2] Do đó Hiệp định GATT là hiệp định quốc tế nhiều bên duy nhất điều chỉnh quan hệ thương mại hàng hóa trên phạm vi toàn cầu từ năm 1948 cho đến khi WTO ra đời vào năm 1995.[3] Tổ chức Thương Mại thế giới được thành lập vào ngày 01/01/1995. Tổ chức này thành lập theo các kết quả đạt được tại vòng đàm phán thương mại đa phương Uruguay. Đây cũng là vòng đàm phán cuối cùng trong một loạt các cuộc đàm phán thương mại định kỳ được tổ chức dưới sự bảo trợ của tiền thân của WTO - GATT. [4] 2. Nhiệm vụ và chức năng Để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là một cơ quan quản lý thương mại toàn cầu, WTO đã đặt ra những nhiệm vụ cũng như chức năng của mình trong các vấn đề liên quan đến thương mại thế giới. Về mục tiêu, WTO đặt ra 03 mục tiêu lớn, [5] bao gồm: (1) Nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo đầy đủ việc làm; (2) Mở rộng sản xuất, thương mại hàng hóa và dịch vụ; (3) Sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên thế giới với mục đích phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Về chức năng, WTO có 05 chức năng chính, [6] bao gồm: (1) Giám sát, hỗ trợ và thống nhất việc thực hiện và thỏa thuận thương mại đa phương và nhiều bên; (2) Thiết lập khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO; (3) Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương nhiều bên; (4) Bảo đảm và kiểm điểm việc thực hiện mục tiêu và tuân thủ quy định của WTO; (5) Hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB) trong việc hoạch định chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. 3. Số lượng thành viên Tính đến thời điểm hiện tại, WTO có tổng cộng 164 thành viên, chiếm 98% nền thương mại toàn cầu. Thành viên của tổ chức này là các quốc gia và các vùng lãnh thổ tự trị về quan hệ ngoại thương (Liên minh châu Âu - EU, Hong Kong, Macao). 4. Cơ cấu tổ chức Về cơ cấu tổ chức, WTO bao gồm: Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, Ban Thư ký, các Hội đồng và các Ủy ban. [7] Trong bộ máy tổ chức, Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan quyền lực cao nhất của WTO, bao gồm các đại diện của tất cả các thành viên thuộc tổ chức này. Hội nghị được họp định kỳ 02 năm một lần nhằm đưa ra các quyết định và thực hiện chức năng của WTO. [8] Đại hội đồng là cơ quan thường trực, cơ quan chấp hành của WTO và bao gồm đại diện tất cả Thành viên của tổ chức. Đại hội đồng họp giữa hai kì Hội nghị Bộ trưởng và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Hội nghị Bộ trưởng trong khoảng thời gian đó. [9] Đồng thời, Đại hội đồng sẽ thực hiện một số chức năng như: đưa ra sự sắp xếp phù hợp để hợp tác hiệu quả với các tổ chức quốc tế liên chính phủ hoặc phi chính phủ; [10] thực hiện chức năng của Cơ quan giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Body) và Cơ quan rà soát chính sách thương mại (Trade Policy Review Mechanism). Ban Thư ký là cơ quan phụ trách việc hành chính của WTO. Ban Thư ký gồm khoảng 620 nhân viên và được điều hành bởi Tổng giám đốc. Hoạt động chính của Ban Thư ký bao gồm: Hỗ trợ các cơ quan của WTO; hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các nước đang phát triển và kém phát triển; hỗ trợ các hoạt động giải quyết tranh chấp và đàm phán gia nhập WTO; thống kê và đưa ra phân tích về tình hình, chính sách và triển vọng của thương mại quốc tế. [11] Cuối cùng là các Hội đồng thương mại và các Ủy ban chuyên trách. Ba Hội đồng về Thương mại hàng hóa (Hội đồng GATT), về Thương mại dịch vụ (Hội đồng GATS) và về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hội đồng TRIPS). Ba Hội đồng này đều bao gồm đại diện của tất cả Thành viên WTO với nhiệm vụ chính là giám sát việc thực thi các Hiệp định liên quan. [12] 5. Quá trình thông qua quyết định trong WTO Thủ tục và quy trình ra quyết định của WTO được quy định cụ thể tại Điều IX và X của Hiệp định Marrakesh. Theo thông lệ của GATT, WTO sẽ áp dụng nguyên tắc đồng thuận, tức là một quyết định sẽ được thông qua khi mà không có bất kì Thành viên nào phản đối. [13] Tuy nhiên, trong các trường hợp sau quyết định của WTO được thông qua theo các cơ chế bỏ phiếu đặc biệt (không áp dụng nguyên tắc đồng thuận): (1) Giải thích các điều khoản của các Hiệp định: Được thông qua nếu có 3/4 số phiếu ủng hộ; [14] (2) Dừng tạm thời nghĩa vụ WTO cho một thành viên: Được thông qua nếu có 3/4 số phiếu ủng hộ; [15] (3) Sửa đổi các Hiệp định (trừ việc sửa đổi các điều khoản về quy chế tối huệ quốc trong GATT, GATS và TRIPS): Được thông qua nếu có 2/3 số phiếu ủng hộ. [16] II. Các Hiệp định cơ bản của WTO Ba trụ cột chính của WTO gồm có: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994); Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS 2001); Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS 1994). 1. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại năm 1994 a. Giới thiệu chung về Hiệp định Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại năm 1994 (the General Agreement on Tariffs and Trade 1994), hay còn được gọi là GATT 1994, là văn kiện được WTO lập ra để điều chỉnh trọng tâm khía cạnh thương mại hàng hóa. Lịch sử ra đời của GATT 1994 có mối liên hệ với Hiệp định chung ban đầu về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947). Theo đó, tiền thân của WTO - GATT 1947 cung cấp các quy tắc cơ bản của hệ thống thương mại đa phương từ năm 1948 cho đến khi WTO được thành lập vào năm 1995. Cũng trong thời gian này, GATT 1947 chấm dứt hiệu lực, thay vào đó là sự ra đời của GATT 1994. Theo Hiệp định Marrakesh, GATT 1994 là một văn kiện hoàn toàn khác biệt về mặt pháp lý với GATT 1947, [17] tuy nhiên hai văn kiện này có mối liên hệ rất lớn, đặc biệt là về nội dung. b. Nội dung chính của Hiệp định Về cấu trúc, GATT 1994 gồm: i) các quy định trong GATT 1947; ii) các quy định của các văn kiện pháp lý có hiệu lực trước khi WTO ra đời, là kết quả của các vòng đàm phán trước Vòng Uruguay; iii) các thỏa thuận liên quan đến việc giải thích một số điều của GATT 1994; và iv) Nghị định thư Marrakesh về GATT 1994. Về nội dung, nội dung cơ bản của GATT 1994 liên quan đến i) thuế quan; ii) các rào cản phi thuế quan; iii) các biện pháp phòng vệ thương mại. (i) Thuế quan Theo quy định của GATT 1994, mỗi thành viên của WTO phải đưa ra các ràng buộc thuế quan. Đây là mức thuế suất trần được ghi trong biểu cam kết thuế quan đối với từng mặt hàng mà mỗi thành viên không được tăng thuế trở lại. [18] Các thành viên của WTO, về nguyên tắc, chỉ có thể bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan. (ii) Các rào cản phi thuế quan Các rào cản phi thuế quan là “các biện pháp của chính phủ ngoài thuế quan làm hạn chế luồng thương mại, chẳng hạn các chế định lượng, cấp phép nhập khẩu các thỏa thuận hạn chế tự nguyện…”.[19] Trong GATT 1994, các rào cản phi thuế quan được điều chỉnh bởi nhiều quy định khác nhau, như hạn ngạch; cấp pháp nhập khẩu; kiểm định hàng hóa trước khi xếp hàng; xác định trị giá tính thuế; các biện pháp kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ; thiếu minh bạch; áp dụng các biện pháp thương mại một cách không công bằng và tùy tiện; thủ tục hải quan; quy tắc xuất xứ; mua sắm chính phủ…[20] (iii) Các biện pháp phòng vệ thương mại Theo Điều VI và XIX của GATT 1994, thành viên WTO có thể áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tồn tại dưới ba hình thức: biện pháp chống phá giá, biện pháp chống trợ cấp và biện pháp tự vệ.[21] Ngoài ra, các biện pháp phòng vệ thương mại được quy định chi tiết hơn ở ba hiệp định là Hiệp định Chống bán phá giá (ADA), Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) và Hiệp định Tự vệ (ASM). 2. Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) a. Giới thiệu chung về Hiệp định Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) là một trong những hiệp định quan trọng nhất của WTO. Hiệp định có hiệu lực vào năm 1995, là bộ quy tắc đa phương đầu tiên và duy nhất bao trùm thương mại dịch vụ quốc tế. Hiệp định đặt ra khuôn khổ mà trong đó các công ty và cá nhân có thể hoạt động. Mục tiêu của Hiệp định được thể hiện ở một số điểm: (1) thiết lập một hệ thống các quy tắc có tính tin cậy để điều chỉnh thương mại dịch vụ; (2) đảm bảo cho tất cả các Thành viên WTO được đối xử bình đẳng và công bằng khi tham gia vào thương mại dịch vụ: (3) thúc đẩy các hoạt động kinh tế nhờ vào các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ; (4) thúc đẩy thương mại và phát triển nhờ vào quá trình tự do hóa từng bước dịch vụ.[22] b. Nội dung chính của Hiệp định Về nghĩa vụ chung, các nghĩa vụ này được thể hiện qua Phần II của GATS với 14 điều khoản. Cụ thể, các nghĩa vụ này bao gồm: Nguyên tắc MFN (Điều II), Minh bạch (Điều III) và tiết lộ thông tin bí mật (Điều IIIbis), Tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển (Điều IV), Hội nhập kinh tế (Điều V), Quy định trong nước (Điều VI) và công nhận (Điều VII), Độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền (Điều VIII), Thanh toán và chuyển khoản (Điều XI), Mua sắm chính phủ (Điều XIII), Tự về và trợ cấp (Điều X và XV), Tự vệ và trợ cấp (Điều X và XV), Các trường hợp ngoại lệ (Điều XIV và XV). Về các cam kết riêng, GATS có quy định về mở cửa thị trường (Điều XVI), đãi ngộ quốc dân (Điều XVII) và các cam kết bổ sung (Điều XVIII). Theo đó, mỗi Thành viên WTO sẽ có một Biểu cam kết riêng về dịch vụ. Ngoài ra, các Thành viên WTO chỉ có nghĩa vụ mở cửa thị trường, dành đãi ngộ quốc dân cho dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đối với những dịch vụ thuộc ngành đã được đưa vào trong Biểu cam kết.[23] 3. Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS) a. Giới thiệu chung về Hiệp định Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS) được thiết lập với ý nghĩa là một phần của Những Thoả thuận Thương mại Đa phương trong vòng Đàm phán Uruguay trong khuôn khổ Thỏa thuận chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).[24] Hiệp định TRIPS là Phụ lục 1C của Thỏa thuận Marrakesh. Hiệp định có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các Thành viên WTO và có hiệu lực vào năm 1995. Hiệp định là một trong những trụ cột quan trọng nhất của WTO và bảo hộ sở hữu trí tuệ, là phần không thể tách rời trong hệ thống thương mại đa phương của WTO.[25] b. Nội dung chính của Hiệp định Hiệp định TRIPS bao gồm những nội dung chính sau đây: (i) tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt được; (ii) quy định về kiểm soát thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; (iii) quy định chi tiết về thực thi quyền sở hữu trí tuệ; (iv) quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ.[26] (i) Tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt được Các tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt được (Standards Concerning The Availability) áp dụng đối với 07 đối tượng của sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế (bao gồm giống cây trồng), thiết kế bố trí mạch tích hợp và thông tin bí mật. (ii) Quy định về kiểm soát thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ Quy định về kiểm soát thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ được tập trung thể hiện qua các Điều 8(2), Điều 31(k) và Điều 40 của Hiệp định.[27] Hiệp định cho phép các Thành viên WTO tự do xử lý những hoạt động chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, các nước thành viên có quyền xử lý những hoạt động đó; định nghĩa hoạt động chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và điều kiện hoặc hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ; thiết lập và xác định nội dung của pháp luật cạnh tranh nhằm khống chế hoặc ngăn chặn những hoạt động trên.[28] Ngoài ra, các biện pháp khống chế hoặc ngăn chặn những thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ phải “phù hợp với các quy định khác của Hiệp định”, phải “thích hợp với luật pháp của các quốc gia” và “cần thiết”. (iii) Quy định chi tiết về thực thi quyền sở hữu trí tuệ Theo Hiệp định TRIPS, các quốc gia Thành viên của WTO phải quy định các thủ tục thực thi hiệu quả chống lại hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được đề cập trong Hiệp định. Ngoài ra, các thủ tục thực thi phải được áp dụng theo cách thức nhằm tránh tạo ra những rào cản cho hoạt động thương mại hợp pháp và phải “đúng đắn, công bằng, không phức tạp và tốn kém một cách không cần thiết, không bao gồm những thời hạn bất hợp lý hoặc những trì hoãn không có lý do chính đáng”.[29] Bên cạnh nguyên tắc chung, Hiệp định TRIPS còn có các quy định về các chế tài, thủ tục dân sự và hành chính; các biện pháp tạm thời, kiểm soát biên giới và hình sự. (iv) Quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ Quy định về giải quyết tranh chấp trong Hiệp định TRIPS được dựa theo Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Theo đó, Hiệp định TRIPS viện dẫn Điều XXII và Điều XXIII của GATT 1994 để áp dụng đối với thương lượng và giải quyết tranh chấp theo Hiệp định TRIPS và những tranh chấp “phi bạo lực”.[30] Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bạn có bất kỳ thắc mắc/ ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] VNExpress, ‘WTO - lịch sử hình thành và phát triển’, https://vnexpress.net/wto-lich-su-hinh-thanh-va-phat-trien-2748477.html , truy cập ngày 14 tháng 08 năm 2023. [2] World Trade Organization, ‘The GATT years: from Havana to Marrakesh’, https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/fact4_e.htm , truy cập ngày 14 tháng 08 năm 2023. [3] Bộ Tư pháp, Đặc san Tuyên truyền pháp luật, Số 06/2010 [4] World Trade Organization, ‘History of the multilateral trading system’, https://www.wto.org/english/thewto_e/history_e/history_e.htm , truy cập ngày 14 tháng 08 năm 2023. [5] Hiệp định Thành lập WTO, Lời nói đầu. [6] World Trade Organization, ‘What we do’, https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/what_we_do_e.htm , truy cập ngày 14 tháng 08 năm 2023. [7] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 105. [8] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 107. [9] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 108. [10] Hiệp định Marrakesh, Điều V. [11] World Trade Organization, ‘Overview of the WTO Secretariat’, https://www.wto.org/english/thewto_e/secre_e/intro_e.htm , truy cập ngày 15 tháng 08 năm 2023. [12] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 109. [13] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 110. [14] Hiệp định Marrakesh, Điều IX.2. [15] Hiệp định Marrakesh, Điều IX.3. [16] Hiệp định Marrakesh, Điều X.3. [17] August R, Mayer D, Bixby M, ‘International business law: text, cases, and readings’ (2009), Tái bản lần thứ 5, NXB Pearson, tr. 347. [18] Hiệp định GATT 1994, Điều II. [19] Walter Goode, ‘Dictionary of Trade Policy Terms’ (2007), Cambridge University Press, tr. 182. [20] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 91. [21] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 94. [22] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 98. [23] Học viện Ngoại giao (2020), Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 102. [24] [25] Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, ‘Tổng quan về Hiệp định TRIPS’, https://thanhtra.most.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/4/225/tong-quan-ve-hiep-dinh-trips.aspx , truy cập ngày 15 tháng 08 năm 2023. [26] [27] [28] Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, ‘Nội dung chính của Hiệp định Trips’, https://thanhtra.most.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/4/235/noi-dung-chinh-cua-hiep-dinh-trips.aspx , truy cập ngày 15 tháng 08 năm 2023. [29] Hiệp định TRIPS, Điều 41. [30] Hiệp định TRIPS, Điều 64.

  • [6] VẤN ĐỀ LẠM DỤNG QUYỀN ƯU ĐÃI, MIỄN TRỪ NGOẠI GIAO, LÃNH SỰ TRONG THỰC TIỄN

    Tác giả: Chu Trang Anh, Phạm Quốc Hào I. Hạn chế của việc áp dụng Công ước Viên 1961 và Công ước Viên 1963 Công ước Viên về Quan hệ ngoại giao năm 1961 (“Công ước Viên 1961”) và Công ước Viên về Quan hệ lãnh sự năm 1963 (“Công ước Viên 1963”) là hai văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng, khẳng định các quyền ưu đãi, miễn trừ của viên chức ngoại giao và lãnh sự giữa các quốc gia, đồng thời tạo điều kiện để họ thực thi hiệu quả chức năng ngoại giao, lãnh sự trên nguyên tắc có đi có lại.[1] Với những lợi ích đó, tính đến nay có 193 quốc gia là thành viên của Công ước Viên năm 1961,[2] và 182 quốc gia là thành viên của Công ước Viên năm 1963.[3] Mặc dù Công ước Viên 1961 và Công ước Viên 1963 đã góp phần phát triển quan hệ quốc tế nhưng cũng có không ít các rắc nối nảy sinh từ đây.[4] Hai công ước này trao cho các viên chức ngoại giao, lãnh sự quyền miễn trừ hình sự, dân sự, hành chính,[5] điều này có nghĩa rằng các các viên chức ngoại giao, lãnh sự có khả năng phạm tội mà không bị truy tố, dù cho họ có bị nước sở tại tuyên bố “persona non grata” (người không được chào đón).[6] Ngoài ra, vì được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể, các viên chức ngoại giao còn không thể bị bắt, giam giữ, lục soát thân thể và chỗ ở trong bất cứ tình huống nào.[7] Quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao cũng cho phép các viên chức ngoại giao thoát khỏi trách nhiệm dân sự khi có các hành vi gây thương tích cho người khác.[8] Thực tế cho thấy tồn tại các trường hợp viên chức ngoại giao, hoặc gia đình, nhân viên của họ lạm dụng các quyền ưu đãi, miễn trừ được quy định trong Công ước Viên 1961 để thoát khỏi việc bị truy tố vì nhiều tội khác nhau, từ các trường hợp vi phạm giao thông đến các hành vi phạm tội đáng lên án nhất, chẳng hạn như lạm dụng trẻ em.[9] Bài viết sau đây sẽ trình bày và phân tích các trường hợp lạm dụng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trên thực tế. II. Các trường hợp lạm dụng quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao, lãnh sự 1. Các trường hợp quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao dành cho viên chức ngoại giao bị lợi dụng bởi cá nhân, tổ chức tội phạm mà viên chức ngoại giao có liên quan không nhận thức hoặc không biết Trường hợp này thường liên quan đến quyền bất khả xâm phạm về hồ sơ lưu trữ và tài liệu của cơ quan đại diện ngoại giao. Một điều cần lưu ý là mặc dù Điều 27 Công ước Viên 1961 có nhắc đến thuật ngữ “túi ngoại giao” (diplomatic bags hoặc diplomatic pouches), Công ước không quy định cụ thể về kích thước hoặc hình dạng của “túi ngoại giao” mà chỉ quy định rằng chúng phải mang “dấu hiệu thể hiện rõ ràng tính chất của chúng” (visible external marks of their character).[10] Trên thực tế, các “túi ngoại giao” có thể bao gồm xe tải hoặc thậm chí là container lớn.[11] Khi được vận chuyển qua các quốc gia, các “túi ngoại giao” không bị kiểm tra an ninh, bao gồm cả việc không bị soi chiếu điện tử.[12] Nhiều cá nhân, tổ chức tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, đã lợi dụng quyền ưu đãi, miễn trừ được nêu trên để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật mà viên chức ngoại giao có liên quan không hề hay biết. Năm 2012, một chiếc túi vải thô đựng 16kg cocain đã được ngụy trang thành một chiếc túi ngoại giao có logo Liên hợp quốc đã vận chuyển từ Mexico đến trụ sở Liên hợp quốc ở New York.[13] Công ty vận chuyển cho biết chiếc túi không có địa chỉ hoặc bất kỳ thông tin nào về người gửi nên nhân viên đã dựa vào logo để gửi chiếc túi đến trụ sở Liên hợp quốc.[14] Năm 2020, các quan chức Ấn Độ phát hiện 30kg vàng trị giá hai triệu đô la được nhập lậu vào nước này từ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) trong một chiếc túi ngoại giao.[15] Các viên chức của UAE tuyên bố không biết gì về chuyến hàng này.[16] 2. Các trường hợp phạm tội, trong đó một viên chức ngoại giao lạm dụng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, đóng vai trò là thủ phạm chính của một hành vi phạm tội 2.1. Trường hợp vi phạm pháp luật hình sự Hạn chế trong quá trình áp dụng và giám sát Công ước Viên 1961 và Công ước Viên 1963 của các quốc gia đã tạo điều kiện cho những hành vi lợi dụng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao lãnh sự, đặc biệt là hoạt động của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như buôn lậu ma tuý, động vật hoang giã, làm giả thị thực.[17] Một trong những ví dụ tiêu biểu nhất của tội phạm xuyên quốc gia đứng đầu bởi viên chức ngoại giao, lãnh sự là những hoạt động phi pháp của các nhà ngoại giao Triều Tiên trong giai đoạn từ năm 1982 đến năm 2016. Năm 2004, cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ bắt giữ hai viên chức lãnh sự Triều Tiên tại Bulgaria sử dụng xe biển ngoại giao vận chuyển 600.000 viên ma tuý tổng hợp fenethylline trị giá bảy triệu đô la nhập lậu từ Bulgaria cho hai công dân Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul.[18] Ngoài ra, viên chức ngoại giao, lãnh sự Triều Tiên còn đóng vai trò chủ chốt trong hơn 16 vụ việc buôn bán trái động vật hoang dã ở Nam Châu Phi kể từ năm 2010, trong đó vào tháng 5 năm 2015 ở thủ đô Maputo của Mozambique, một viên chức lãnh sự Triều Tiên đã bị bắt giữ khi đang vận chuyển 4,5kg sừng tê giác bất hợp pháp và cảnh sát đồng thời tịch thu 100.000 đô la tìm thấy trong xe.[19] Trước những vụ việc lợi dụng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và quan ngại về chương trình hạt nhân của Triều Tiên, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết S/RES/2321 năm 2016, trong đó tại đoạn 20 nhấn mạnh: “yêu cầu tất cả các Quốc gia kiểm tra hàng hóa quá cảnh qua lãnh thổ của họ, bao gồm cả các sân bay của họ, có nguồn gốc từ Triều Tiên, hoặc hàng hóa đến Triều Tiên, hoặc đã được môi giới hoặc tạo điều kiện bởi Triều Tiên”.[20] Trong một số trường hợp, những hoạt động phi pháp trên cơ sở lợi dụng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao lãnh sự còn có sự tham gia cấu kết của các băng đảng hay tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, tiêu biểu như vụ việc bắt giữ đường dây buôn heroin cầm đầu bởi đại sứ Tajikistan tại Kazakhstan. Vào tháng 5 năm 2000, ủy ban An ninh Quốc gia Kazakhstan đã tiến hành bắt giữ đại sứ Tajikistan Sadullojon Nematov cùng năm viên chức lãnh sự và thu giữ khoảng 62kg heroin, 54.000 đô la tiền mặt và một lệnh chuyển tiền trị giá gần hai triệu bảng Anh. Lực lượng cảnh sát Kazakhstan đã cáo buộc rằng số heroin này sẽ được giao cho người đứng đầu phái đoàn thương mại Tajikistan ở Almaty và là một phần của đường dây ma túy rộng lớn hơn do các băng đảng buôn ma tuý Tajikistan điều hành.[21] 2.2. Trường vi phạm các quan hệ dân sự, tài chính Bên cạnh những hành vi vi phạm pháp luật hình sự của nước sở tại thì quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao còn bị làm dụng bởi viên chức ngoại giao, lãnh sự trong các quan hệ dân sự. Một trong những hành vi lạm dụng quyền ưu đãi, miễn trừ phổ biến nhất là vi phạm quy định về đỗ xe, vượt đèn đỏ và các lỗi vi phạm pháp luật giao thông nhỏ khác. Theo thống kê của tờ The Guardian, tổng hóa đơn phạt hành chính liên quan đến các lỗi vi phạm giao thông của các nhà ngoại giao tại Liên hợp quốc năm 2016 là hơn 16 triệu đô la.[22] Cùng với khoảng thời gian này tại London, viên chức ngoại giao lãnh sự đã bị xử phạt khoảng 4.858 vụ việc vi phạm giao thông, tạo ra khoản nợ 477.499 bảng.[23] Ngoài vi phạm giao thông, đã có nhiều trường hợp viên chức ngoại giao lãnh sự lạm dụng quyền miễn thuế, lệ phí, miễn khám và khai báo hải quan được ghi nhận tại Điều 23 và 39 Công ước Viên 1961 nhằm thực hiện hành vi gian lận tài chính, trốn thuế. Cụ thể, vào năm 2014, bảy nhà ngoại giao Gambia tại Vương Quốc Anh đã bị khởi tố vì sử dụng đại sứ quán ở London để bán hơn nửa triệu bao thuốc lá miễn thuế trên thị trường chợ đen cho cộng đồng người Gambia ở nước này thông qua việc mua số lượng lớn thuốc lá miễn thuế từ các cửa hàng chuyên bán cho các lãnh sự, đại sứ quán.[24] 3. Các trường hợp phạm tội, trong đó các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao bị viên chức ngoại giao, lãnh sự lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu gián điệp, khủng bố hoặc có hành động sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực Vấn đề lạm dụng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao không chỉ dừng lại ở tội phạm hình sự, dân sự, tài chính mà còn mở rộng đối với hành vi gián điệp, khủng bố, sử dụng vũ lực nhằm vào nước nhận được thực hiện bởi viên chức ngoại giao, lãnh sự buộc nước nhận phải tuyên bố “persona non grata” đối với những viên chức ngoại giao, lãnh sự đó. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1984, trong một cuộc biểu tình đối diện Đại sứ quán Libya ở London nhằm phản đối việc hai sinh viên Tripoli bị kết án tử hình vì tội phản quốc tại Libya, một nhân viên ngoại giao đã sử dụng súng tiểu liên bắn từ cửa sổ tầng một của đại sứ quán đã vào đám đông người biểu tình khiến mười một người đã bị trúng đạn và một sĩ quan cảnh sát tử vong.[25] Sau khi vụ xả súng kết thúc, Chính phủ Anh cắt đứt quan hệ ngoại giao với Libya vào ngày 22 tháng 4 năm 1984 và tuyên bố “persona non grata” và trục xuất toàn bộ nhân viên ngoại giao bên trong đại sứ quán. Tương tự, vào năm 1980, ba cán bộ viên chức ngoại giao Syria bị trục xuất khỏi Tây Đức sau khi chính phủ nước này phát hiện họ đang cung cấp chất nổ được sử dụng cho các cuộc tấn công ở Berlin. Lịch sử quan hệ quốc tế cũng đồng thời chứng kiến việc viên chức ngoại giao bị trục xuất trước các cáo buộc thực hiện hành vi gián điệp vào nước sở tại. Cụ thể, vào năm 1971, sau khi liên tiếp đưa ra những cảnh báo để Liên Xô giảm bớt người làm trong lực lượng KGB thực hiện chức năng ngoại giao trong các cơ quan đại diện của Liên Xô tại Anh, Chính phủ Anh đã chính thức tuyên bố “persona non grata” đối với 90 cán bộ ngoại giao Liên xô để ngăn chặn hoạt động gián điệp nhằm khai thác thông tin nội bộ của nước mình.[26] Năm 1999, Stanislav Borisovich Gusev - một nhân viên Đại sứ quán Nga tại Hoa Kỳ - đã sử dụng thiết bị nghe lén từ xa được giấu kỹ trong một phòng hội nghị được dùng bởi các nhà ngoại giao cao cấp của Mỹ. Sau khi bị phát hiện, Stanislav Borisovich Gusev đã bị Chính phủ Mỹ bắt giữ và trục xuất về Liên Bang Nga.[27] III. Kết luận Quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các viên chức ngoại giao, lãnh sự, từ đó góp phần đảm bảo, phát triển quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, với thực tiễn việc lạm dụng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao như hiện nay, đã đến lúc cộng đồng quốc tế, thông qua các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, đánh giá lại các quy định lâu đời này, nhằm vừa duy trì khái niệm cơ bản của quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự, vừa xác định các giới hạn hợp lý đối với những viên chức ngoại giao, lãnh sự được hưởng các quyền này. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Rosalyn Higgins, The Abuse of Diplomatic Privileges and Immunities: Recent United Kingdom Experience (The American Journal of International Law, 1985) 641. [2] United Nations Treaty Collection (UNTC), Vienna Convention on Diplomatic Relations < https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=IND&mtdsg_no=III-3&chapter=3&clang=_en > truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2023. [3] United Nations Treaty Collection (UNTC), Vienna Convention on Consular Relations < https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=IND&mtdsg_no=III-6&chapter=3 > truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2023. [4] Báo Thế giới & Việt Nam, Khi "miễn trừ" có tác dụng ngược (07/10/2013) < https://baoquocte.vn/khi-mien-tru-co-tac-dung-nguoc-1381.html > truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2023. [5] Điều 31, Công ước Viên 1961 và Điều 41, Công ước Viên 1963. [6] Nehaluddin Ahmad, Gary Lilienthal, Arman Haji Asmad, Abuse of Diplomatic Immunities and Its Consequences Under the Vienna Convention: A Critical Study, (2021) 12. [7] Nehaluddin Ahmad, Gary Lilienthal, Arman Haji Asmad, Abuse of Diplomatic Immunities and Its Consequences Under the Vienna Convention: A Critical Study, (2021) 12; Điều 29, Công ước Viên 1961. [8], [9] Mitchell S. Ross, Rethinking Diplomatic Immunity: A Review of Remedial Approaches to Address the Abuses of Diplomatic Privileges and Immunities, (American University International Law Review.4, no.1, 1989) 174. [10], [11], [17] Yuliya G. Zabyelina, The untouchables: transnational organized crime behind diplomatic privileges and immunities (2013), 346-347. [12] Điều 27(5), Công ước Viên 1961. [13], [14] SkyNews, Cocaine Worth £1m Sent To UN 'By Mistake' (27/01/2012) < https://news.sky.com/story/cocaine-worth-1m-sent-to-un-by-mistake-10481579 > truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2023. [15], [16] David Westenhaver, Diplomatic Pouches: The Bags the Police Can’t Search, (xplrd, 2021) < https://xplrd.net/history/diplomatic-pouches-the-bags-the-police-cant-search/# > truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2023. [18] VOA, North Korea to Withdraw Diplomats Accused of Drug Trafficking, (2004) [19] The Guardian, North Korean diplomats implicated in illegal rhino horn trade, (2016) < https://www.theguardian.com/world/2016/jul/15/north-korean-diplomats-implicated-in-illegal-rhino-horn-trade-report-africa > truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2023 [20] Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Nghị quyết S/RES/2321, (2016) < https://www.un.org/securitycouncil/s/res/2321-%282016%29 > truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2023 [21] Marat Mamadshoyev, Tajik Drugs in Kazakh Capital: A Victory for the Special Services or for Diplomatic Intrigue?, eurasianet, (2000) < https://eurasianet.org/tajik-drugs-in-kazakh-capital-a-victory-for-the-special-services-or-for-diplomatic-intrigue > truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2023 [22] [23] The Guardian, A fine mess: how diplomats get away without paying parking tickets, (2016) < https://www.theguardian.com/cities/2016/sep/23/fine-diplomats-not-paying-parking-tickets > truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2023 [24] The independent, Gambian diplomats found guilty of using London embassy for tobacco fraud, (2014) < https://www.independent.co.uk/news/uk/crime/gambian-diplomats-found-guilty-of-using-london-embassy-for-tobacco-fraud-9911414.html > truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2023 [25] Jane Chace Sweeney, State-Sponsored Terrorism: Libya's Abuse of Diplomatic Privileges and Immunities, Dickinson Journal of International Law, (1986) < https://elibrary.law.psu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1052&context=psilr > truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023 [26] The Guardian, From the archive, 25 September 1971: Britain expels 90 Russian diplomat spies, (2014) < https://www.theguardian.com/world/2014/sep/25/britain-russia-spies-expelled-archive-1971 > truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023 [27] The New York Times, U.S. Expelling Russian Diplomat in Bugging of State Dept, (1999) < https://archive.nytimes.com/www.nytimes.com/library/world/europe/121099russia-us-spy.htm > truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023

  • [16] CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LUẬT VŨ TRỤ QUỐC TẾ

    Tác giả: Chu Trang Anh, Phạm Quốc Hào. Lịch sử phát triển của Luật vũ trụ quốc tế gắn liền với sự ra đời của các điều ước quốc tế về vũ trụ, tiêu biểu là Hiệp ước về các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của các quốc gia trong lĩnh vực thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ bao gồm Mặt trăng và các thiên thể khác năm 1967 (Hiệp ước Thượng tầng không gian năm 1967) và Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972 (Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại năm 1972). Những điều ước quốc tế này có tầm quan trọng lịch sử đối với việc định hình quan hệ quốc tế trong lĩnh vực vũ trụ, quy định việc sử dụng hòa bình và đặt tiền đề cho văn kiện pháp lý liên quan đến không gian vũ trụ. Tuy nhiên, các điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ đều thiếu vắng cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả và không thể đáp ứng đầy đủ với sự tham gia ngày càng lớn của các thực thể tư nhân và tổ chức liên chính phủ trong quá trình khai thác không gian vũ trụ. Vì vậy, bài viết này sẽ tập trung phân tích các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể của Luật vũ trụ quốc tế hiện nay và các tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai. 1. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Luật vũ trụ quốc tế Hiện nay, các tranh chấp quốc tế đến các hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ có thể được chia làm ba nhóm tương ứng với từng chủ thể của Luật vũ trụ quốc tế: (i) tranh chấp giữa các quốc gia; (ii) tranh chấp liên quan đến các tổ chức liên chính phủ; và (iii) tranh chấp liên quan đến các thực thể tư nhân.[1] a. Tranh chấp giữa các quốc gia Tranh chấp liên quan đến khoảng không vũ trụ giữa các quốc gia là một trong các tranh chấp của luật quốc tế và vì vậy có thể được giải quyết thông qua phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) nếu cả hai bên tranh chấp nhận thẩm quyền của tòa trên cơ sở Điều 36(1) Quy chế ICJ.[2] Hiện nay đã có một số điều ước quốc tế điều chỉnh các hoạt động trong khoảng không vũ trụ ghi nhận ICJ như một cơ quan tài phán tiềm năng, tiêu biểu như Công ước quốc tế về tổ chức vệ tinh hàng hải (INMARSAT), Công ước về Bảo vệ tầng ôzôn năm 1985 và quyết định của Hội nghị toàn quyền Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) năm 1994 tại Kyoto ủy quyền cho Hội đồng Điều hành xin ý kiến tư vấn từ ICJ.[3] Tuy nhiên, cần phải lưu ý ICJ chưa từng đưa ra bất cứ phán quyết, ý kiến tư vấn đối với tranh chấp về các hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ giữa các quốc gia. Năm Công ước về vũ trụ của Liên hợp quốc đã xây dựng những nguyên tắc, và định nghĩa cơ bản đối với Luật vũ trụ quốc tế và thậm chí đặt ra cơ chế cụ thể nhằm giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể đối với trường hợp của Công ước về Trách nhiệm Bồi thường thiệt hại năm 1972.[4] Theo đó, Điều 9 của Công ước quy định việc tranh chấp cần trước hết được giải quyết theo con đường đàm phán ngoại giao, cụ thể, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại “phải được đưa ra đối với quốc gia phóng hành qua các kênh ngoại giao”. Ngoài ra, Điều 14 của Công ước cũng quy định “nếu một quốc gia không duy trì quan hệ ngoại giao đối với quốc gia phóng hành, quốc gia đó có thể yêu cầu quốc gia khác đại diện cho lợi ích của mình theo Công ước này”.[5] Trường hợp không thể giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao thì Điều 14 và 15 của Công ước này quy định thành lập Uỷ ban chuyên biệt theo yêu cầu của các bên liên quan bao gồm đại diện của quốc gia nguyên đơn và đại diện của quốc gia bị đơn.[6] Căn cứ vào Điều 18 và 19 của Công ước, Uỷ ban chuyên biệt này sẽ có nhiệm vụ xác định số tiền bồi thường nếu có và đưa ra quyết định cuối cùng mang tính ràng buộc đối với các bên tranh chấp.[7] Bên cạnh một số biện pháp giải quyết tranh chấp được ghi nhận trong 05 Công ước về vũ trụ của Liên hợp quốc liên quan đến hoạt động vũ trụ hiện nay, các quốc gia ngày càng có xu hướng giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài. Một ví dụ tiêu biểu là Công ước về Liên minh Viễn thông Quốc tế năm 1992 cũng có quy định về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong phạm vi điều chỉnh của Công ước. Theo đó, tại Điều 57, Công ước này quy định các quốc gia thành viên có thể giải quyết tranh chấp của mình về các vấn đề liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước “thông qua các kênh ngoại giao hoặc theo các thủ tục được thiết lập bởi các hiệp ước song phương hoặc đa phương được ký kết giữa các quốc gia đó để giải quyết tranh chấp quốc tế”.[8] Trường hợp không thể giải quyết thông qua con đường ngoại giao thì “bất kỳ quốc gia thành viên nào đều có thể nhờ đến trọng tài theo thủ tục được xác định trong Công ước.”[9] Bên cạnh đó, Công ước về Cơ quan Vũ trụ châu u (EAS) cũng đồng thời có điều khoản ghi nhận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Cụ thể, Điều 17 của Công ước này quy định tranh chấp về việc áp dụng Công ước giữa các quốc gia sẽ được giải quyết thông qua một Tòa Trọng tài ba thành viên, trong đó mỗi bên tranh chấp được chỉ định một trọng tài viên. Hai trọng tài viên đầu tiên sẽ chỉ định trọng tài viên thứ ba và người này cũng đồng thời là chủ tịch hội đồng trọng tài.[10] b. Tranh chấp liên quan đến các tổ chức quốc tế liên chính phủ Trước xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa của thế giới, các tổ chức quốc tế liên chính phủ (IGO) đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực vũ trụ.[11] Tranh chấp liên quan đến chủ thể này có thể được chia thành ba loại chính: (i) tranh chấp giữa các IGO và các quốc gia (nhà nước); (ii) tranh chấp giữa các IGO với nhau; và (iii) tranh chấp giữa các IGO và các thực thể tư nhân.[12] Với tranh chấp giữa các IGO và các quốc gia, tồn tại hai trường hợp: (i) quốc gia trong tranh chấp là thành viên của IGO đó; và (ii) quốc gia trong tranh chấp không phải là thành viên của IGO đó.[13] Đối với trường hợp thứ nhất, tranh chấp thường được giải quyết bởi các thỏa thuận nội bộ trong khuôn khổ của IGO. Đối với trường hợp thứ hai, tranh chấp có thể được giải quyết bằng các biện pháp giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế nói chung.[14] Có thể thấy rằng trong cả hai trường hợp, không có sự tách biệt rõ ràng giữa luật quốc tế nói chung và Luật vũ trụ nói riêng. Xuất phát từ việc không có nhiều IGO trong lĩnh vực vũ trụ, các tranh chấp giữa các IGO với nhau ít khi xảy ra.[15] Tuy nhiên, loại tranh chấp này lại rất phức tạp và quan trọng, bởi tồn tại khả năng các IGO khác nhau có các quốc gia thành viên như nhau và thiết lập các cơ chế giải quyết khác nhau. Về lý thuyết, các tranh chấp như vậy thường sẽ được giải quyết bởi luật quốc tế. Tuy nhiên trên thực tế, các quốc gia là thành viên của cả hai IGO thường ưu tiên giải quyết tranh chấp tại các tòa án quốc gia và/hoặc dựa trên luật quốc gia.[16] Tranh chấp giữa các IGO và các thực thể tư nhân cũng là trường hợp tương đối phức tạp, trong đó các bên thường có xu hướng áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc gia và theo luật quốc gia. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào việc liệu thực thể tư nhân đó có thuộc phạm vi thẩm quyền của quốc gia là thành viên của IGO trong tranh chấp hay không.[17] Hai thiết chế giải quyết tranh chấp tư pháp phổ biến trong luật quốc tế là thông qua Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA), về nguyên tắc cũng được áp dụng đối với các tranh chấp trong lĩnh vực vũ trụ. Tuy nhiên, ICJ chỉ có thể giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia hữu quan, và chỉ khi các quốc gia đó đã công nhận thẩm quyền của ICJ.[18] Trong một số trường hợp, ICJ chỉ có thể đưa ra ý kiến tư vấn (không có giá trị ràng buộc pháp lý) cho các IGO, nếu được ủy quyền hợp lệ theo Điều 65 của Quy chế Toà án Công lý Quốc tế.[19] Thiết chế giải quyết tranh chấp thứ hai là PCA vốn cũng chỉ giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, nhưng trong những năm trở lại đây đã chấp nhận giải quyết tranh chấp liên quan đến các IGO ở mức độ hạn chế.[20] Cụ thể, từ năm 1993 đến năm 1996, PCA đã thông qua ba Quy tắc Tùy chọn của Tòa án Trọng tài Thường trực.[21] Theo đó, PCA hiện có thể cung cấp biện pháp trọng tài cho tranh chấp giữa hai bên mà chỉ có một bên là quốc gia,[22] tranh chấp giữa một bên là IGO và một bên là quốc gia,[23] và tranh chấp giữa một bên là IGO và một bên là thực thể tư nhân.[24] Có thể thấy, trước sự tham gia ngày càng sâu rộng của các IGO và các thực thể tư nhân vào hoạt động vũ trụ, vai trò của tòa PCA trong việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực này cũng được nâng cao. c. Tranh chấp liên quan đến các thực thể tư nhân Vào tháng 4 năm 1990, tên lửa Pegasus của Tập đoàn Khoa học Quỹ đạo được phóng vào vũ trụ, đánh dấu lần đầu tiên một công ty tư nhân đưa thành công một vật thể vũ trụ vào quỹ đạo.[25] Từ những năm 1990 trở đi, sự nới lỏng kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động thương mại vũ trụ cũng đã tạo điều kiện cho các chủ thể phi nhà nước này tham gia vào các hoạt động thương mại vũ trụ,[26] từ đó việc phát sinh tranh chấp liên quan đến các thực thể tư nhân là điều khó tránh khỏi. Tranh chấp liên quan đến các thực thể tư nhân có thể được chia thành ba loại chính: (i) tranh chấp giữa các quốc gia (nhà nước) và các thực thể tư nhân; (ii) tranh chấp giữa các IGO và các thực thể tư nhân; và (iii) tranh chấp giữa các thực thể tư nhân với nhau.[27] Trong đó, loại tranh chấp thứ hai đã được phân tích ở mục 2.b. phía trên. Trường hợp tranh chấp giữa các quốc gia và các thực thể tư nhân lần đầu tiên xảy ra vào ngày 10 tháng 2 năm 2009, khi một vệ tinh Cosmos 2251 đã qua sử dụng của Nga va chạm với vệ tinh Iridium 33 còn hoạt động của một công ty tư nhân Mỹ, khiến hai vệ tinh bị phá hủy ngay lập tức.[28] Tại thời điểm đó, hai văn kiện pháp lý quốc tế được áp dụng để giải quyết vụ việc này là Hiệp ước Thượng tầng không gian năm 1967 và Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại năm 1972.[29] Theo đó, quốc gia phóng hành (“launching State”) sẽ phải chịu trách nhiệm nhiệm bồi thường thiệt hại do vật thể vũ trụ của mình gây ra.[30] Tuy nhiên, trong khi có thể dễ dàng xác định vệ tinh Cosmos 2251 được phóng bởi Nga, thì việc xác định quốc gia phóng vệ tinh Iridium lại phức tạp hơn. Điều 1(c) của Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại năm 1972 quy định quốc gia phóng hành: (i) là quốc gia phóng hay được quốc gia khác chuẩn bị cho việc phóng vật thể vào vũ trụ; hoặc (ii) là quốc gia có lãnh thổ hay cơ sở mà vật thể được phóng lên.[31] Trong trường hợp của vệ tinh Iridium, dù công ty tư nhân Mỹ đã thực hiện công tác chuẩn bị cho việc phóng, nhưng Nga lại cung cấp cơ sở cho vệ tinh được phóng lên lại lãnh thổ của Kazakhstan.[32] Đồng thời, vệ tinh Iridium cũng không được đăng ký tại Liên hợp quốc, theo Điều 1 của Công ước về đăng ký các vật thể được phóng vào không gian vũ trụ 1974.[33] Do đó, rất khó để xác định liệu quốc gia phóng vệ tinh Iridium là Mỹ, Nga hay Kazakhstan. Đồng thời, mặc dù Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại năm 1972 quy định rằng cần phải xác định yếu tố “lỗi” (“fault”) khi thiệt hại xảy ra,[34] nhưng Công ước lại chưa có quy định cụ thể thế nào là yếu tố “lỗi”.[35] Sau cùng, tranh chấp giữa Iridium-Cosmos dường như đã được giải quyết bởi thỏa thuận của các bên, thay vì áp dụng Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1972.[36] Tuy tranh chấp giữa các thực thể tư nhau với nhau là loại tranh chấp phổ biến nhất được giải quyết bằng biện pháp trọng tài, PCA lại đóng vai trò rất hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp giữa hai bên đều là tư nhân. Trên thực tế, trong các hợp đồng thương mại quốc tế, Quy tắc trọng tài của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) thường được ưu tiên lựa chọn.[37] Theo đó, nếu các bên tranh chấp không đồng ý với tổ trọng tài được chỉ định bởi PCA, bất kỳ bên nào trong tranh chấp cũng có thể yêu cầu Tổng Thư ký PCA thành lập một “cơ quan có thẩm quyền được chỉ định” (“appointing authority”), cơ quan này sau đó sẽ tiến hành lựa chọn các trọng tài thay thế.[38] Một điều cần lưu ý là tranh chấp giữa các thực thể tư nhân với nhau, về bản chất, là vấn đề của luật quốc gia và các tòa án quốc gia ngay cả khi các thực thể này thuộc phạm vi thẩm quyền của các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, trong một lĩnh vực quốc tế như hoạt động vũ trụ, với sự tham gia và phối hợp giữa nhiều thành phần công và tư khác nhau thì việc áp dụng luật quốc gia để giải quyết tranh chấp vẫn là một vấn đề gây tranh cãi.[39] Hạn chế của việc áp dụng luật quốc gia xuất phát từ việc hiện nay có rất nhiều cơ chế giải quyết bằng luật quốc gia, nhưng chỉ có số ít cơ chế hoàn toàn giống nhau, dẫn đến việc kết quả đạt được cũng khác nhau.[40] Từ đó, các rủi ro như không nhất thể hóa luật tư, vấn đề chọn tòa án (“forum shopping”), hay vấn đề về quyền miễn trừ nhà nước (“sovereign immunity”) đều có khả năng phát sinh.[41] 2. Hạn chế của khung pháp lý quốc tế hiện nay trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến vũ trụ Trong năm điều ước quốc tế về vũ trụ của Liên hợp quốc, Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại năm 1972 là văn kiện pháp lý duy nhất đặt ra cụ thể vấn đề giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể của Luật vũ trụ quốc tế.[42] Như đã đề cập ở phần đầu tiên của bài viết, Công ước này quy định tranh chấp được giải quyết theo con đường đàm phán ngoại giao hoặc thành lập Uỷ ban chuyên biệt theo yêu cầu của các bên liên quan bao gồm đại diện của quốc gia nguyên đơn và đại diện của quốc gia bị đơn.[43] Mặc dù Công ước đã thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra, song, những cơ chế trên chưa từng một lần được áp dụng trong thực tiễn. Điều này đến từ việc phạm vi điều chỉnh của Công ước chỉ hạn chế trong việc bồi thường đối với các thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra trên mặt đất hay với tàu bay đang bay đáp ứng định nghĩa về “thiệt hại”, quy định tại Điều 1(a) và bất kỳ loại tranh chấp nào liên quan đến các hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ mới được hình thành đều nằm ngoài phạm vi của Công ước.[44] Hơn nữa, cần phải lưu ý rằng Điều 22(4) của Công ước đã quy định “bất kỳ yêu cầu bồi thường nào liên quan đến thiệt hại gây ra đối với một tổ chức liên chính phủ quốc tế đã đưa ra tuyên bố chấp nhận các nguyên tắc được ghi nhận tại khoản 1 của Điều này phải được đệ trình bởi một Quốc gia thành viên của tổ chức đó và [cũng đồng thời] là Quốc gia thành viên của Công ước này”.[45] Như vậy, các tổ chức liên chính phủ không có địa vi pháp lý độc lập khi áp dụng Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại năm 1972 và vì thế không thể yêu cầu thành cầu thành lập Uỷ ban chuyên trách nhằm giải quyết tranh chấp nếu không được một quốc gia thành viên đại diện.[46] Bên cạnh Công ước trên, UNCITRAL, cùng một số các Điều ước quốc tế điều chỉnh các hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ như Công ước về Liên minh Viễn thông Quốc tế năm 1992, EAS đồng thời ghi nhận giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể của Luật vũ trụ quốc tế bằng trọng tài.[47] Tuy nhiên, tương tự như Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại năm 1972, điểm yếu lớn nhất của những cơ chế trọng tài này là phạm vi giải quyết tranh chấp chỉ giới hạn trong khuôn khổ của các Điều ước quốc tế trên và chưa ghi nhận địa vị pháp độc lập của các tổ chức liên chính phủ và các thực thể tư nhân.[48] 3. Kết luận Như vậy, từ việc nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp trong Luật vũ trụ quốc tế, chúng ta đã hiểu rõ hơn về các khung pháp lý quốc tế hiện nay trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến vũ trụ và các hạn chế của khung pháp lý đó. Sự tham gia ngày càng sâu rộng của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các thực thể tư nhân trong hoạt động hàng không vũ trụ đã đặt ra yêu cầu trọng yếu về một cơ chế giải quyết tranh chấp thống nhất, hiệu quả và có thể áp dụng cho cả các thực thể phi chính phủ. Việc sớm thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp nêu trên sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để tất cả các chủ thể được tham gia và cạnh tranh công bằng trong hoạt động thăm dò và khai thác khoảng không vũ trụ trong tương lai. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1], [12], [26], [41] Đồng Thị Kim Thoa, Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Luật vũ trụ quốc tế , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10(195), (2011) < http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207564 > truy cập ngày 14 tháng 04 năm 2023. [2], [48] Theo Peter P.C. Haanappel, Dr. Frans G. von der Dunk, Dr. Stephan Hobe, Dispute Settlement in International Space Law A Multi-Door Courthouse for Outer Space, G´erardine Meishan Goh Leiden , (2006), < https://scholarlypublications.universiteitleiden.nl/handle/1887/11860 > Truy cập ngày 05 tháng 04 năm 2023. [3], [11], [13], [14], [15], [16], [17], [19], [20], [27], [39], [40] Frans G. von der Dunk, SPACE FOR DISPUTE SETTLEMENT MECHANISMS - DISPUTE RESOLUTION MECHANISMS FOR SPACE? A few legal considerations , Space, Cyber, and Telecommunications Law Program Faculty Publications, (2001) < (PDF) SPACE FOR DISPUTE SETTLEMENT MECHANISMS - DISPUTE RESOLUTION MECHANISMS FOR SPACE? A few legal considerations (researchgate.net) > truy cập ngày 05 tháng 04 năm 2023. [4] Năm Điều ước vũ trụ của Liên hợp quốc bao gồm: Hiệp ước về các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của các quốc gia trong lĩnh vực thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ bao gồm Mặt trăng và các thiên thể khác năm 1967 (Hiệp ước Thượng tầng không gian năm 1967), Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972 (Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1972), Công ước về Đăng ký các vật thể được phóng vào khoảng không vũ trụ (Công ước về đăng ký 1975), Hiệp ước điều chỉnh các hoạt động của các quốc gia trên Mặt trăng và các thiên thể khác (Hiệp ước Mặt trăng 1979), Hiệp ước về cứu hộ nhà du hành vũ trụ, trao trả nhà du hành vũ trụ và các vật thể được phóng vào vũ trụ (Hiệp ước về cứu hộ 1968). [5] Điều 14 Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [6] Điều 14, Điều 15 Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [7] Điều 18, Điều 19 Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [8], [9] Điều 57 Công ước về Liên minh Viễn thông Quốc tế năm 1992. [10] Điều 17 Công ước về cơ quan vũ trụ Châu Âu. [18] Điều 36 Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế. [21], [37] Lotta Viikari, Law and Language in Partnership and Conflict: Towards More Effective Settlement of Disputes in the Space Sector, A Special Issue of the Lapland Law Review (2011), 243. [22] Optional Rules for Arbitrating Disputes between Two Parties of Which Only One is a State (1993). [23] Optional Rules for Arbitration Between International Organizations and States (1996). [24] Optional Rules for Arbitration Between International Organizations and Private Parties (1996). [25] Space, 'New Space Frontiers' (US 2014): Book Excerpt, (18/12/2014) < https://www.space.com/28052-new-space-frontiers-book-excerpt.html > truy cập ngày 15 tháng 04 năm 2023. [28], [42] Fabio Tronchetti, The PCA Rules for dispute settlement in outer space: A significant step forward , Space Policy, (2013), 29(3), 181-189. [29], [33], [35], [36] Brian Weeden, 2009 Iridium-Cosmos Collision Fact Sheet, (10/11/2010) < https://swfound.org/media/6575/swf_iridium_cosmos_collision_fact_sheet_updated_2012.pdf > truy cập ngày 15 tháng 04 năm 2023. [30] Điều 7 Hiệp ước quốc tế về những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của các quốc gia trong lĩnh vực thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ bao gồm Mặt trăng và các thiên thể khác năm 1967. Điều 2 và Điều 3 Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [31] Điều 1(c) Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [32] Ram S. Jakhu, Iridium-Cosmos collision and its implications for space operations, Yearbook on Space Policy 2008/2009, 255. [34] Điều 3 Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [38] Điều 6 Quy tắc trọng tài của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế. [43] Điều 9, Điều 14 và Điều 15 Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [44] Điều 1(a) Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [45] Điều 22(4) Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra năm 1972. [46], [47] Fabio Tronchetti, Fundamentals of Space Law and Policy , (2013), 81-84 < Fundamentals of Space Law and Policy | SpringerLink > truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2023.

  • [9] QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA EO BIỂN QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ EO BIỂN ĐÀI LOAN

    Tác giả: Dương Hải Anh, Dương Duy Khang. Xuyên suốt chiều dài lịch sử hàng hải thế giới, eo biển quốc tế đã và đang đóng vai trò cực kỳ quan trọng khi là tuyến giao thông nối liền các quốc gia và châu lục lại với nhau. Trong số các eo biển, eo biển Đài Loan luôn thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế khi vừa là tuyến đường hàng hải tấp nập liên kết nhiều nền kinh tế hàng đầu thế giới, vừa là nơi xảy ra những căng thẳng chính trị giữa nhiều bên. Trước bối cảnh xung đột liên quan đến eo biển Đài Loan ngày một leo thang, có cái nhìn tổng quan về quy chế pháp lý của eo biển nói chung và eo biển Đài Loan nói riêng là cần thiết cho tất cả các bên liên quan. 1. Quy chế pháp lý của eo biển quốc tế a. Các điều khoản chung theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) đã phát triển Phần III về “Quy chế pháp lý của eo biển dùng cho hàng hải quốc tế”. Tuy vậy, mục “Những điều khoản chung” lại chưa hề đề cập một định nghĩa hay mô tả nào về “eo biển dùng cho hàng hải quốc tế”, mà chỉ nhắc đến phạm vi áp dụng của các quy định này. Điều 34(1) UNCLOS 1982 quy định về “Quy chế pháp lý của vùng nước hình thành eo biển dùng cho hàng hải quốc tế” như sau: “Quy chế của việc qua lại các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế được quy định ở Phần này không ảnh hưởng về bất kỳ phương diện nào đến quy chế pháp lý của các vùng nước hình thành nên eo biển đó, cũng như đến việc thực hiện chủ quyền và quyền tài phán đối với những vùng nước đó và vùng trời, vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển tương ứng của các quốc gia ven eo biển đó.” Hơn nữa, việc thực hiện chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven eo biển quốc tế cần phải tuân theo các quy định của Phần này và cả những quy định khác trong luật quốc tế.[1] Đáng chú ý là, các quy định trong Phần này không được đụng chạm đến: (i) nội thủy thuộc một eo biển, trừ khi việc vạch ra một tuyến đường cơ sở thẳng theo đúng với phương pháp nói ở Điều 7 đã gộp vào trong nội thủy những vùng nước trước đây không được coi là nội thủy; (ii) chế độ pháp lý của các vùng nước nằm ngoài lãnh hải của các quốc gia ven eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay thuộc biển cả.[2] Ngoài ra, một số trường hợp khác cũng được đề cập trong mục về quy chế quá cảnh. b. Quyền quá cảnh Điều 37 UNCLOS 1982 quy định về phạm vi áp dụng quyền quá cảnh có đề cập tới eo biển quốc tế. Quy định về eo biển quốc tế đã được thay đổi cơ bản so với quy định tại Công ước Geneva 1958 về Lãnh hải và Tiếp giáp lãnh hải (vốn quy định eo biển quốc tế là phần ‘giữa một bộ phận của biển cả với một bộ phận khác của hoặc vùng biển lãnh hải của một quốc gia khác)[3]: “Mục này được áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và giữa một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế.”[4] Như tên gọi của Phần này, các điều khoản ở đây quy định một quyền khác so với quyền qua lại vô hại - quyền quá cảnh của các quốc gia. Các quy định về quá cảnh có thể xem là giải pháp thỏa hiệp ở giữa hai nhóm quốc gia trong vòng đàm phán UNCLOS thứ III: (i) các cường quốc hàng hải muốn thực hiện quyền tự do hàng hải qua eo biển; (ii) các quốc gia ven eo biển quan tâm đến bảo vệ an ninh và các lợi ích khác trong vùng nước lãnh hải.[5] Thuật ngữ “quá cảnh” được định nghĩa ở Điều 38(1) như sau: “Quá cảnh có nghĩa là việc thực hiện quyền tự do hàng hải và tự do hàng không theo quy định của Phần này với mục đích duy nhất là đi qua liên tục và nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, để rời khỏi hoặc lại đến lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của quốc gia đó.” Với quyền quá cảnh, các quốc gia hàng hải được hưởng quyền qua lại rộng hơn so với quyền qua lại không gây hại nhưng hẹp hơn các quyền được hưởng trong biển cả; các quốc gia ven eo biển bị thu hẹp thẩm quyền đối với việc quản lý tàu thuyền được hưởng quy chế quá cảnh so với tàu thuyền dưới quy chế qua lại không gây hại.[6] Đặc biệt, quy chế quá cảnh cho phép sự qua lại của máy bay và có thể là tàu ngầm, với ít giới hạn hơn đối với hành vi qua lại và ít sự kiểm soát hơn của quốc gia ven eo biển.[7] Quá cảnh không thể bị đình chỉ vì an ninh hay vì lý do nào khác [8], đồng thời các quốc gia ven eo biển phải thông báo về nguy hiểm hàng hải và hàng không trên eo biển mà các quốc gia này có sự hiểu biết về.[9] Tuy nhiên, quy chế quá cảnh sẽ không được áp dụng trong các trường hợp sau: (i) các eo biển mà việc qua lại được điều chỉnh một phần hay toàn bộ bởi công ước quốc tế lâu dài và có hiệu lực đặc biệt đối với các eo biển này;[10] (ii) các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế, nếu như có thể vượt qua eo biển đó bằng một con đường ở biển cả hay một con đường qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn;[11] (iii) các eo biển do lãnh thổ đất liền của một quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc gia này tạo thành, khi ở ngoài khơi hòn đảo đó có một con đường đi trên biển cả, hay có một con đường đi qua một vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn;[12] (iv) các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.[13] 2. Liệu eo biển Đài Loan có đáp ứng đủ các điều kiện pháp lý để trở thành eo biển quốc tế? a. Chế độ pháp lý của eo biển Đài Loan Dưới góc độ pháp lý, để đánh giá chế độ pháp lý của eo biển Đài Loan, các điều khoản liên quan của UNCLOS 1982 sẽ được viện dẫn. Do các đặc điểm địa lý và chức năng, eo biển Đài Loan là “eo biển dùng cho hàng hải quốc tế”[14], vì vậy được điều chỉnh trực tiếp bởi Phần III của UNCLOS 1982. Tuy nhiên, Điều 34 Phần III UNCLOS 1982 cũng chỉ rõ “Chế độ đi qua các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế mà phần này quy định không ảnh hưởng gì về bất cứ phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước các eo biển này, cũng như đến việc quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng nước ấy, ở đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời trên các vùng nước đó”[15] và bởi thế, việc phân chia các vùng nước trên eo biển, với căn cứ là đường cơ sở, được thực hiện như luật định. Với đặc điểm rộng 70 đến 220 hải lý, nằm giữa Trung Quốc và Đài Loan, dựa trên UNCLOS 1982, eo biển Đài Loan được tạo thành từ nhiều vùng nước như: nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế.[16] Cụ thể hơn, để xác định vị trí của từng vùng nước, phải tiến hành xác định đường cơ sở của hai phía Đài Loan và Trung Quốc, từ đó xác định các vùng nước theo luật định. Về đường cơ sở của Trung Quốc, theo công bố, nước này có hai hệ thống đường cơ sở thẳng, một gồm 49 điểm cơ sở dọc theo bờ biển lục địa nước này và đường còn lại gồm 28 điểm nằm ở phía bắc Biển Đông.[17] Trong đó, đáng lưu ý ở điểm mặc dù tuyên bố chủ quyền với Đài Loan, Trung Quốc không công bố bố đường cơ sở đối với thực thể này.[18] Về phía Đài Loan, mặc dù không phải là thành viên của UNCLOS 1982, Đài Loan tuyên bố tuân thủ theo quy định của văn kiện này để thực thi quyền tài phán trên biển và các vấn đề hàng hải liên quan.[19] Vào ngày 10/3/1999, Đài Loan công bố hệ thống đường cơ sở thẳng bao quanh hầu hết bờ biển của mình.[20] Xoay quanh góc nhìn của các bên liên quan tới vấn đề này, Trung Quốc, Đài Loan và Hoa Kỳ đưa ra những quan điểm khác nhau. Vào ngày 13/6/2022, khi được hỏi về eo biển Đài Loan, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Wang Wenbin đã phát biểu như sau: “Trung Quốc có chủ quyền và quyền tài phán đối với eo biển Đài Loan. Đồng thời tôn trọng các quyền hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng biển liên quan. Không có cơ sở pháp lý nào về vùng biển quốc tế (international water) trong luật biển quốc tế. Việc một số quốc gia gọi eo biển Đài Loan là vùng biển quốc tế để kiếm cớ thao túng các vấn đề liên quan đến Đài Loan, đe dọa chủ quyền và an ninh của Trung Quốc là một luận điệu sai lầm. Trung Quốc kiên quyết phản đối điều này.”[21] Đáp trả phát ngôn này, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Đài Loan Joanne Ou cho rằng Trung Quốc đang ngụy biện và rằng:“Eo biển Đài Loan là vùng biển quốc tế và vùng biển bên ngoài lãnh hải của chúng tôi tuân theo nguyên tắc tự do hàng hải của luật pháp quốc tế.[22] Về phía Hoa Kỳ, trong một email gửi cho Reuters, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Ned Price nói rằng: “Eo biển Đài Loan là một tuyến đường thủy quốc tế, có nghĩa là eo biển Đài Loan là khu vực mà các quyền tự do trên biển, bao gồm tự do hàng hải và hàng không, được đảm bảo theo luật pháp quốc tế.”[23] Tuy nhiên, tất cả phát ngôn trên đều không thay đổi bản chất pháp lý rằng eo biển Đài Loan, dựa trên đặc điểm về địa lý và chức năng, là eo biển dùng cho hàng hải quốc tế. Quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trên eo biển Đài Loan sẽ khác nhau dựa trên chế độ pháp lý của từng vùng nước. Hơn nữa, do có chiều rộng từ 70 đến 220 hải lý mà vùng lãnh hải của cả hai bên chỉ rộng tối đa 24 hải lý nên eo biển Đài Loan luôn tồn tại một vùng đặc quyền kinh tế ở giữa. b. Tranh chấp về quyền qua lại của các quốc gia Tranh chấp trên eo biển Đài Loan không chỉ dừng lại ở câu hỏi liệu Đài Loan có phải “eo biển quốc tế” hay không, mà trọng tâm của vấn đề còn bao gồm quyền quá cảnh và qua lại của tàu thuyền nước ngoài tại eo biển này.[24] Như đã đề cập ở trên, trong khi phía Hoa Kỳ nhấn mạnh các quyền tự do,[25] phía Trung Quốc lại khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với eo biển Đài Loan, và tuyên bố tên gọi “vùng nước quốc tế” được gán cho eo biển Đài Loan là không có cơ sở pháp lý.[26] Như vậy, có thể cho rằng mối liên hệ ở đây là liệu có quyền tự do hàng hải và hàng không trên eo biển Đài Loan theo luật quốc tế và liệu nếu có, việc thực hiện các quyền này có xâm phạm đến chủ quyền của Trung Quốc hay không. Trước tiên, có thể thấy phía Trung Quốc đã đúng ở điểm rằng “không có cơ sở pháp lý dành cho vùng nước quốc tế”[27] khi Phần III UNCLOS 1982 chỉ quy định về “Eo biển dùng cho hoạt động hàng hải quốc tế”. Hơn nữa, việc quy định lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý, cùng với yếu tố địa lý của Đài Loan (dài 245 hải lý, rộng từ 85 đến 105 hải lý),[28] khiến eo biển Đài Loan trở nên gần bờ và là một phần của lãnh hải Trung Quốc (mặc dù không phải toàn bộ).[29] Điều này cũng khiến cho eo biển Đài Loan phân thành nhiều vùng nước khác nhau và tạo ra quy chế pháp lý riêng cho các tuyến đường hàng hải thuộc các vùng nước khác nhau.[30] Mặt khác, quy chế quá cảnh có thể không được áp dụng cho eo biển Đài Loan vì Điều 35(b) Phần III UNCLOS 1982 đã quy định quy chế này không ảnh hưởng đối với “quy chế pháp lý của vùng nước nằm ngoài vùng lãnh hải của quốc gia ven biển như là vùng đặc quyền kinh tế hay vùng biển cả”.[31] Hơn nữa, Điều 36 Phần III UNCLOS 1982 cũng quy định quy chế quá cảnh cũng không được áp dụng “khi qua eo biển đó, có một con đường đi trên biển cả, hay có một con đường đi qua một vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn”. Với vị trí địa lý của mình, như đã đề cập ở trên, eo biển Đài Loan luôn tạo thành một tuyến đường qua vùng biển cả hay vùng đặc quyền kinh tế,[32] và quy chế quá cảnh chỉ được áp dụng trong vùng lãnh hải của eo biển khi không có “sự thuận tiện” tương tự.[33] Như vậy, có thể hiểu rằng, Điều 35 và Điều 36 UNCLOS 1982 cùng với các quy định ở những Phần khác, kể cả quyền tự do hàng hải và tự do hàng không, có thể được áp dụng nếu như eo biển Đài Loan không thuộc phạm vi áp dụng của các quy định về eo biển dùng cho hàng hải quốc tế. Theo đó, eo biển Đài Loan có thể được xem là eo biển địa lý với “tuyến đường thủy” (international waterways) rộng hơn 24 hải lý; các quyền tự do hàng hải và hàng không cùng các quyền hợp pháp khác liên quan có thể được thực hiện ở vùng biển cả, vùng đặc quyền kinh tế và tuyến đường phù hợp cho hàng hải; và quy chế quyền qua lại vô hại sẽ được áp dụng trong vùng nước của eo biển dọc theo bờ biển của Trung Quốc và Đài Loan trong phạm vi 12 hải lý của vùng nước lãnh hải.[34] Phía Trung Quốc xem việc tàu thuyền Hoa Kỳ, đặc biệt là tàu chiến, là mối đe dọa đến chủ quyền của mình. Theo CGTN, một hãng tin được hỗ trợ bởi chính phủ Trung Quốc, việc tàu chiến của Hoa Kỳ thường xuyên qua lại eo biển Đài Loan gần như một lần mỗi tháng là hành động có ý đồ chính trị nhằm thể hiện sự ủng hộ đối với lực lượng ủng hộ sự độc lập của Đài Loan.[35] Trên bài viết ở tờ Thời báo hoàn cầu, ông Hu Xijin cho rằng việc Hoa Kỳ cho tàu chiến qua lại thường xuyên như thế là một hành động can thiệp vào quan hệ hai bên bờ và cố gắng làm thay đổi “tình trạng hiện tại” ở Đài Loan.[36] Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Li Huan cũng cho rằng việc Hoa Kỳ không gia nhập UNCLOS 1982 là nhằm mục đích duy trí “bá quyền hàng hải”, một mặt có thể thực hiện các quyền tự do hàng hải và hàng không, mặt khác có thể không chịu ràng buộc bởi các nghĩa vụ yêu cầu bời quốc gia ven biển.[37] c. Quan điểm của Việt Nam Về quan điểm, Việt Nam luôn bày tỏ ủng hộ chính sách “một Trung Quốc” và phản đối các hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập”. Thêm vào đó, Việt Nam cũng khẳng định không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia. Do vậy, Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ cấp nhà nước nào với Đài Loan.[38] Đồng thời, xoay quanh vấn đề eo biển, vào ngày 03/8/2022, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết Việt Nam kiên trì thực hiện chính sách “một Trung Quốc” và mong muốn các bên liên quan kiềm chế, không làm căng thẳng tình hình eo biển Đài Loan, đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.[39] Tổng hợp lại các phân tích ở trên, có thể thấy rằng các quy định về eo biển dùng cho hàng hải quốc tế là một giải pháp hài hòa lợi ích giữa các quốc gia. Đối với vấn đề eo biển Đài Loan, vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh đối với quy chế của eo biển này cũng như các quyền và nghĩa vụ hợp pháp liên quan của các quốc gia. Việc giải quyết các tranh chấp này cần thông qua đàm phán và thỏa thuận về lợi ích giữa các bên phù hợp với pháp luật quốc tế. Để trình bày các vấn đề trên, nhóm tác giả đã tham khảo quan điểm từ nhiều nguồn khác nhau tuy nhiên không thể tránh khỏi các sai sót. Nhóm tác giả rất mong nhận được các nhận xét, đóng góp từ thầy/cô và các bạn đọc. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] [15] Điều 34(2) Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [2] Điều 35(a)(b) Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [3] Điều 16(4) Công ước Geneva 1958 về Lãnh hải và vùng Tiếp giáp lãnh hải. [4] Điều 37 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [5] Abdul Ghafur Hamid, ‘The legal regimes of straits used for international navigation’ (Institute of Diplomacy and Foreign Relations - IDFR, IDFR Maritime Seminar Series - Straits of Malacca Kuala Lumpur, 10/11/2009) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [6] Nilufer Oral, ‘Straits used for international navigation and protection of the marine environment under the 1982 UN Convention on the law of the sea’ (British Institute of International and Comparative Law International Conference “UNCLOS at 30”) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [7] Malcolm N Shaw, International Law 6th Edition, p.577; Điều 38 đến Điều 42 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [8] Malcolm N Shaw, International Law 6th Edition, p.577; Điều 44 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [9] Điều 44 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [10] Điều 35(c) Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [11] Điều 36 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [12] Điều 38(1) Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [13] Điều 45 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [14] [18] [37] Li Huan, ‘Legal status of the Taiwan Strait’ (China-US Focus, 28/06/2022) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [16] Tran Dinh Hoanh, ‘China Cannot Hinder International Navigation through Taiwan Strait’ (Pacific Forum, 21/06/2022) truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023. [17] United States Department of State Bureau of Oceans and International Environmental and Scientific Affairs, ‘Straight Baseline Claim: China’ (Limits in the Seas, vol 117). [19] [30] [31] [33] Zou Keyuan, ‘Redefining the Legal I Status of the Taiwan Strait’ truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [20] United States Department of State Bureau of Oceans and International Environmental and Scientific Affairs, ‘Taiwan’s maritime claims’ (Limits in the Seas, vol 127). [21] [26] [27] (Ministry of Foreign Affairs of People Republic of China, ‘Foreign Ministry Spokesperson Wang Wenbin’s Regular Press Conference’ (13/06/2022) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [22] [23] [25] [29] [32] ‘US rebuffs China by calling Taiwan Strait an international waterway’ (Reuters, 15/6/2022) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [24] Lynn Kuok, ‘Narrowing the differences between China and the US over the Taiwan Strait’ (IISS, 13/07/2022) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [28] Zhang Xinjun, ‘International Law and the Passage of Foreign Warships through the Taiwan Strait’ (SCSPI, 08/11/2021) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [34] Office of the Staff Judge Advocate - U.S. Indo-Pacific Command, International Straits (International Law Studies, Volume 97), p 41. [35] Kong Qingjiang, ‘Why is the Taiwan Straits not 'international waters'?’ (CGTN, 17/06/2022) truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023. [36] Hu Xijin, ‘China stresses legal status of Taiwan Straits to deter US provocation’ (Global Times, 14/06/2022) truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023. [38] Báo Điện tử Chính phủ, Toàn Văn Tuyên Bố Chung Việt Nam - Trung Quốc (01/11/2022) truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023. [39] Trần Hiếu, ‘Việt Nam Lên Tiếng Về Tình Hình Eo Biển Đài Loan Hiện Nay’ (vietnamplus, 03/08/2022) truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.

  • [14] SƠ LƯỢC CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ

    Tác giả: Dương Hải Anh, Tăng Bảo Đan Kể từ nửa sau của thế kỷ 20, với sự phát triển của khoa học công nghệ, loài người chúng ta đã bắt đầu quá trình khám phá khoảng không vũ trụ. Bước sang thế kỷ 21, thế giới chứng kiến nhiều thách thức, xu hướng mới trong vũ trụ, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới du lịch vũ trụ, vệ tinh và biến đổi khí hậu.[1] Trong bối cảnh như vậy, các quốc gia trên thế giới đã tiến hành xây dựng nhiều văn kiện pháp lý cùng với một số tập quán quốc tế nhằm điều chỉnh những hoạt động diễn ra trong khoảng không vũ trụ. Để tiếp nối chủ đề về Luật vũ trụ quốc tế, chúng tôi xin gửi tới quý độc giả bài viết “Sơ lược chế độ pháp lý của khoảng không vũ trụ”. Trong bài viết này, nhóm tác giả sẽ đi tới cung cấp những kiến thức cơ bản nhất để người đọc có cái nhìn tổng quan về chế độ pháp lý của khoảng không vũ trụ. 1. Định nghĩa về khoảng không vũ trụ và vấn đề phân định a. Tổng quan định nghĩa về khoảng không vũ trụ và vấn đề phân định Thông thường, chúng ta hiểu khoảng không vũ trụ là không gian nằm ngoài bầu khí quyển trái đất, nơi có sự xuất hiện của các hành tinh, vệ tinh và phương tiện không gian. Thế nhưng, một điểm thú vị là dưới góc độ Luật pháp quốc tế thì câu chuyện không đơn giản như vậy. Nhìn chung, đa số các chuyên gia cho rằng khoảng không vũ trụ bắt đầu tại điểm mà động lực học quỹ đạo trở nên quan trọng hơn khí động lực học, hoặc từ điểm mà khí quyển không đủ để hỗ trợ một phương tiện bay ở tốc độ dưới quỹ đạo (suborbital speeds).[2] Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại, con người vẫn chưa thể đưa ra một định nghĩa, phân định rõ ràng, thống nhất và mang tính pháp lý về khoảng không vũ trụ. Cụ thể hơn, con người vẫn chưa thống nhất được ranh giới giữa khoảng không vũ trụ và bầu khí quyển. Sự chưa rõ ràng này thể hiện qua nhiều định nghĩa khác nhau về khoảng không vũ trụ. Điển hình theo Cơ quan Không gian Hoa Kỳ (NASA), khoảng không vũ trụ là phần nằm ngoài giới hạn của khí quyển trái đất.[3] Cũng liên quan tới vấn đề này, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) lại cho rằng: “Không gian khí quyển kết thúc ở đâu và khoảng không vũ trụ bắt đầu ở đâu? Đây không phải chỉ là một vấn đề thống kê”.[4] Tính đến nay, chưa có một sự phân định pháp lý chính thức về “khoảng không vũ trụ” trên toàn thế giới, mặc dù ngày càng có nhiều quy tắc và hiệp ước điều chỉnh các hoạt động ở khu vực này. Do chưa có sự phân định thống nhất mang tính pháp lý, hiện nay xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Các quan điểm về phân định điểm bắt đầu của khoảng không vũ trụ đều dựa trên các mức chiều cao so với mực nước biển khác nhau. Hiện nay, có năm mốc chiều cao thường được tham khảo để xác định ranh giới vũ trụ: 80 km, 100 km, 118 km, 122 km và 129-150 km.[5] Trong các cách phân định, cách phổ biến nhất được sử dụng là đường Karman - đường có độ cao 100km so với mặt nước biển được Liên đoàn Thể thao hàng không Thế giới (FAI) đưa ra.[6] Trong số các quốc gia trên thế giới, Đan Mạch đã tuyên bố rõ rằng đường Karman là ranh giới giữa khí quyển của nước này và khoảng không vũ trụ vào năm 2016.[7] b. Tầm quan trọng của vấn đề phân định khoảng không vũ trụ “Không gian của một quốc gia dừng lại ở đâu và khoảng không vũ trụ bắt đầu ở đâu?” đó là câu hỏi của Jonathan McDowell, nhà vật lý thiên văn thuộc Trung tâm Vật lý thiên văn Harvard-Smithsonian. Ông cho rằng “một khi có sự thống nhất về ranh giới của khoảng không vũ trụ, thế giới sẽ có sự thống nhất về ranh giới áp dụng luật vũ trụ” [8]. Một số bên khác cũng cho rằng việc có một ranh giới là cực kỳ quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh gia các quốc gia gia tăng số lượng các chương trình vũ trụ và các chủ thể tư nhân tăng cường tham gia vào hoạt động vũ trụ khiến cho lưu lượng giao tăng đáng kể.[9] Tuy nhiên, Hoa Kỳ và một số quốc gia khác đã phản đối việc phân định vũ trụ quốc tế. Những nước này cho rằng điều đó là không cần thiết và “không có vấn đề pháp lý hoặc thực tế nào phát sinh khi không có định nghĩa như vậy”.[10] Tóm lại, vấn đề phân định khoảng không vũ trụ là một vấn đề phức tạp, có nhiều ý kiến khác nhau, cả về độ cao ranh giới, cả về tầm quan trọng. 2. Cơ chế pháp lý của khoảng không vũ trụ a. Nguồn luật Khoảng không vũ trụ được điều chỉnh bởi điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung và các nguồn bổ trợ khác. Nổi bật trong số đó là năm hiệp ước, năm bộ quy tắc của Liên hợp quốc được xây dựng bởi các quốc gia trên thế giới cùng với tập quán quốc tế.[12][13] Bên cạnh đó, luật mềm cũng là một công cụ phổ biến điều chỉnh vấn đề này.[14] Dưới đây, một số ví dụ về nguồn luật cơ bản được đề cập. Vào ngày 04/07/1957, vệ tinh Sputnik 1 của Liên Xô đã được phóng qua độ cao 200km so với lãnh thổ của các quốc gia khác, sau đó đi vào vũ trụ và bay vòng quanh Trái Đất. Việc Liên Xô phóng vệ tinh vào vũ trụ không vấp phải bất kỳ sự phản đối nào từ các quốc gia trên thế giới. Điều này đánh dấu cho sự ra đời của Luật vũ trụ quốc tế với quy định: mỗi quốc gia có quyền phóng vệ tinh dân sự lên quỹ đạo gần Trái Đất mà không cần xin phép các quốc gia liên quan.[15] Thời gian sau đó xuất hiện một loạt các hiệp ước, bộ nguyên tắc mà bắt đầu là Hiệp ước Thượng tầng Không gian (1967) - “Bản Hiến chương” của vũ trụ.[16] Tiếp nối đó là hàng loạt các điều ước, bộ nguyên tắc cũng được coi là nền tảng: Hiệp ước về Cứu hộ nhà du hành vũ trụ, Trao trả nhà du hành vũ trụ và các vật thể được phóng vào khoảng không vũ trụ (1968), Công ước về Trách nhiệm bồi thường Thiệt hại (1972), Công ước về Đăng ký Vật thể được phóng vào khoảng không vũ trụ (1975), Hiệp ước Mặt trăng (1979), Tuyên bố về Nguyên tắc pháp lý, Nguyên tắc phát sóng, Nguyên tắc cảm biến từ xa, Nguyên tắc nguồn năng lượng hạt nhân, Tuyên bố về lợi ích.[17] Ngoài ra, Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, ngoài vũ trụ và dưới nước (1963) và Công ước Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) cũng được coi là quan trọng trong hệ thống pháp lý vũ trụ.[18] b. Các điều khoản cơ bản của Luật vũ trụ Có thể nói, các điều khoản cơ bản của Luật vũ trụ quốc tế đã được xây dựng dựa trên những hiệp ước và nguyên tắc kể trên. Các điều khoản này mang ý nghĩa quan trọng và đóng vai trò như một bộ khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội trên vũ trụ. Nội dung của của những điều khoản bao gồm[19]: Thứ nhất , các hoạt động trên vũ trụ phải được thực hiện vì lợi ích của toàn nhân loại.[20] Điều 1 Hiệp ước Thượng tầng Không gian (1967) nêu rõ khoảng không vũ trụ phải được sử dụng “vì lợi ích của tất cả các quốc gia, bất kể mức độ phát triển kinh tế hoặc khoa học của họ”. Thứ hai, khoảng không vũ trụ phải được tự do khám phá và sử dụng bởi toàn nhân loại.[21] Điều 1 Hiệp ước Thượng tầng Không gian (1967) nêu rõ khoảng không vũ trụ cần được “tự do thăm dò và sử dụng bởi tất cả các quốc gia mà không có bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào, trên cơ sở bình đẳng, phù hợp với luật pháp quốc tế và sẽ có quyền tự do tiếp cận tất cả các khu vực của các thiên thể”, “tự do nghiên cứu khoa học trong khoảng không vũ trụ, bao gồm cả Mặt trăng và các thiên thể khác, và các Quốc gia sẽ tạo điều kiện và khuyến khích hợp tác quốc tế trong cuộc điều tra đó”. Thứ ba, các quốc gia không được chiếm hữu khoảng không vũ trụ và các thiên thể bằng yêu sách chủ quyền, hoặc bằng cách sử dụng hoặc chiếm đóng, hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào khác.[22] Về bản chất, ba nguyên tắc trên đều dựa trên res communis , nghĩa là khoảng không vũ trụ là lãnh thổ thuộc sở hữu chung của nhân loại. Bởi thế, cần phải hiểu rõ đây không phải là lãnh thổ vô chủ ( res nullius ) nên các quốc gia cũng không thể tự tuyên bố chủ quyền ở bất kỳ khu vực nào trong khoảng không vũ trụ.[23] Thứ tư, mặt Trăng và các thiên thể khác chỉ được sử dụng cho mục đích hòa bình.[24] Thứ năm, các quốc gia không được đặt vũ khí hạt nhân hoặc vũ khí hủy diệt hàng loạt khác trong quỹ đạo hoặc trên các thiên thể hoặc đặt chúng trong khoảng không vũ trụ theo bất kỳ cách nào khác.[25] Thứ sáu, nhà du hành vũ trụ sẽ được coi là sứ giả của nhân loại và cần được cung cấp mọi sự giúp đỡ có thể trong trường hợp tai nạn, khó khăn hoặc hạ cánh khẩn cấp trên lãnh thổ của một nước khác hoặc trên biển.[26] Cần lưu ý rằng về vấn đề này, Hiệp ước về cứu hộ (1968) cũng góp phần bổ sung, giải thích Điều 5 và Điều 8 Hiệp ước Thượng tầng Không gian (1967). Tổng quan lại, các nước cần thực hiện mọi nỗ lực có thể để cứu hộ và giúp đỡ các phi hành gia gặp nạn và sau đó nhanh chóng trả lại cho nước phóng. Hơn nữa, các nước cần hỗ trợ cho nhau trong việc khôi phục các vật thể vũ trụ trở lại trái đất khi điểm hạ cánh nằm bên ngoài lãnh thổ của nước phóng.[27] Thứ bảy, các quốc gia chịu trách nhiệm về toàn bộ các hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ, dù được thực hiện bởi các cơ quan chính phủ hay phi chính phủ. Đồng thời, yêu cầu sự cho phép và giám sát liên tục của quốc gia đối với các tổ chức trong nước khi thực hiện các hoạt động trong khoảng không vũ trụ. Trong trường hợp các hoạt động được tiến hành bởi các tổ chức liên chính phủ, trách nhiệm tuân thủ Hiệp ước này thuộc về tổ chức đó và các quốc gia thành viên.[28] Thứ tám, các quốc gia sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ của họ gây ra và các quốc gia phải tránh gây ô nhiễm có hại cho vũ trụ và các thiên thể.[29] Cần lưu ý rằng về vấn đề này, Công ước về Trách nhiệm bồi thường Thiệt hại (1972) cũng góp phần bổ sung, giải thích thêm Điều 7 Hiệp ước Thượng tầng Không gian (1967). Tổng quan lại, nước phóng sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ của nước đó gây ra trên bề mặt Trái đất hoặc đối với máy bay và chịu trách nhiệm về thiệt hại do lỗi của nước đó trong vũ trụ.[30] Cũng cần lưu ý rằng, đôi khi các điều khoản kể trên cũng thuộc quy định của tập quán. Khác với các hiệp ước, chỉ ràng buộc các bên tham gia ký kết, tập quán tạo ra các quy phạm erga omnes , ràng buộc toàn bộ các thực thể tham gia vào các quan hệ trong vũ trụ. Do vậy, tuy có những bên không ký kết hiệp ước về khoảng không vũ trụ nhưng vẫn bị ràng buộc và được hưởng quyền lợi từ một số điều khoản nhất định.[31] Ngoài ra, trong vấn đề vũ trụ, trước những thách thức mới, việc thông qua các văn bản luật mềm dần trở thành phương pháp chính để phát triển và củng cố các nguyên tắc quốc tế.[32] Tuy không tạo ra nghĩa vụ ràng buộc cho các chủ thể, luật mềm là công cụ hữu hiệu hướng dẫn các hoạt động vũ trụ và đồng thời cho các chủ thể sự tự do, linh hoạt nhất định.[33] Thực tế, luật mềm có vai trò quan trọng khi:(i) hướng dẫn về cách giải thích và thực hiện các điều khoản hiệp ước hiện có;(ii) đại diện cho sự khởi đầu của một quá trình dẫn đến một hiệp ước quốc tế;(iii) đóng góp vào việc hình thành luật tục;(iv) tuyên bố các quy tắc chưa được viết ra hiện có.[34] Một ví dụ về văn kiện luật mềm hiện hành là Khung an toàn về Công nghệ và Điều kiện Kỹ thuật (STSC) do Ủy ban Vũ trụ Liên hợp quốc (UNCOPUOS) và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) phát triển. c. Thực trạng và thách thức pháp lý Thực tế hiện nay, cùng với sự phát triển của con người, một số vấn đề mới liên quan đến Luật vũ trụ có thể kể đến như sự tham gia ngày càng tăng của các chủ thể tư nhân trong khoảng không ngoài trái đất, du lịch vũ trụ, thu gom rác thải vũ trụ, bảo vệ tài nguyên vũ trụ hay vấn đề sử dụng vũ khí trong vũ trụ.[35] Do được xây dựng từ thời Chiến tranh Lạnh khi chỉ có ít chủ thể tham gia vào hoạt động hàng không vũ trụ, hệ thống luật hiện tại cần thiết có sự bổ sung, cập nhật các điều khoản. Về vấn đề này, Liên hợp quốc cũng gần đây đã công nhận nhu cầu cập nhật Luật vũ trụ sau hơn 50 năm không cập nhật.[36] Ngày 15/11/2021, chỉ hai tuần sau khi Ủy ban Thứ nhất của Đại hội đồng Liên hợp quốc chính thức công nhận vai trò then chốt của vũ trụ và các tài sản vũ trụ trong các nỗ lực quốc tế để cải thiện cuộc sống con người và những rủi ro hoạt động quân sự trong vũ trụ đối với những mục tiêu đó, Nga đã tạo ra một đám mây rác khổng lồ đe dọa nhiều tài sản vũ trụ, bao gồm cả các phi hành gia trên Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS).[37] Cụ thể hơn, Nga đã phá hủy một trong những vệ tinh cũ của chính mình bằng một quả tên lửa được phóng từ mặt đất từ đó tạo ra đám mây rác thải rất lớn. Không chỉ dừng lại ở đó, một ví dụ cũng điển hình không kém là hàng loạt vụ mất kiểm soát đối với vật thể không gian của Trung Quốc gây ra nhiều lo ngại.[38] Những điều kể trên ngày càng dấy lên sự quan ngại về hiệu quả của Luật vũ trụ quốc tế. 3. Kết luận Chế độ pháp lý của khoảng không vũ trụ là vấn đề được điều chỉnh bởi Luật vũ trụ với nguồn chính là các hiệp ước, bộ nguyên tắc khoảng không vũ trụ cộng với tập quán và được bổ sung bởi các nguồn luật mềm. Điểm cơ bản trong vấn đề pháp lý liên quan đến khoảng không vũ trụ là tám điều khoản cơ bản đóng vai trò như bộ khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội trên vũ trụ. Cũng chính từ nền tảng này, Luật vũ trụ ngày càng phát triển, góp phần không nhỏ vào những thành tựu không gian của con người. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các quan hệ xã hội trên vũ trụ diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp. Điều này đòi hỏi các quốc gia tích cực hợp tác quốc tế trong việc xây dựng hệ thống pháp lý điều chỉnh kịp thời và hiệu quả việc khám phá và sử dụng khoảng không vũ trụ. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Kostenko and Inesa, ‘ Current Problems and Challenges in International Space Law: Legal Aspects.’ ( Current Problems and Challenges in International Space Law: Legal Aspects. , 2020) < https://www.researchgate.net/publication/341306594_Current_Problems_and_Challenges_in_International_Space_Law_Legal_Aspects > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [2], [8], [9], [10] Nadia Drake, ‘Where, Exactly, Is the Edge of Space? It Depends on Who You Ask.’ ( National Geographic , 20 December 2018) < https://www.nationalgeographic.com/science/article/where-is-the-edge-of-space-and-what-is-the-karman-line > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [3] NASA, ‘Aerospace Science & Technology Dictionary’ ( NASA ) < https://www.hq.nasa.gov/office/hqlibrary/aerospacedictionary/508/s.html > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [4] OECD, ‘OECD Handbook on Measuring the Space Economy’ ( OECD , 2012) < https://read.oecd-ilibrary.org/economics/oecd-handbook-on-measuring-the-space-economy/definitions-and-industrial-classifications_9789264169166-3-en#page1 > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [5], [6] Bhavya Lal and Emily Nightingale, ‘Where Is Space? And Why Does That Matter? ’ ( EMBRY-RIDDLE Aeronautical University , 2014) < https://commons.erau.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1062&context=stm > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [7] ESPI, ‘ Delimitation of Outer Space’ (2017) ( European Space Policy Institute ) < https://www.espi.or.at/briefs/delimitation-of-outer-space/ > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [11] Statute of the International Court of Justice, Article 38. [12], [17] UNOOSA, ‘Space Law ’ ( UNITED NATIONS Office for Outer Space Affairs ) < https://www.unoosa.org/oosa/en/ourwork/spacelaw/index.html > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [13], [18] Jakhu, Ram S. and Freeland, Steven and Chen, David Kuan-Wei, The Sources of International Space Law: Revisited (March 17, 2021) < https://ssrn.com/abstract=3806175 or http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.3806175 > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [14] Georgetown University Law Library, ‘Space Law: The Law of Outer Space’ ( Georgetown ) < https://guides.ll.georgetown.edu/spacelaw?ssp=1&darkschemeovr=1&setlang=vi-VN&safesearch=moderate > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [15] International and National Provisions of Space Law Regulating the Use of Outer Space [16] He Qizhi, ‘The Outer Space Treaty in Perspective’ Volume 25, Number 2, page 93 Journal Of Space Law (1997). [19] Oleksandr Kobzar1, ‘International and National Provisions of Space Law Regulating the Use of Outer Space’ ( ResearchGate , 1 March 2019) < https://www.researchgate.net/publication/335596138_International_and_National_Provisions_of_Space_Law_Regulating_the_Use_of_Outer_Space > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [20], [21] Treaty on Principles Governing the Activities of States in the Exploration and Use of Outer Space, including the Moon and Other Celestial Bodies, Article I . [22] Treaty on Principles Governing the Activities of States in the Exploration and Use of Outer Space, including the Moon and Other Celestial Bodies, Article II. [23] John Hickman, ‘Still crazy after four decades: The case for withdrawing from the 1967 Outer Space Treaty’ (2007) < https://www.thespacereview.com/article/960/1 > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [24], [25] Treaty on Principles Governing the Activities of States in the Exploration and Use of Outer Space, including the Moon and Other Celestial Bodies, Article IV. [26] Treaty on Principles Governing the Activities of States in the Exploration and Use of Outer Space, including the Moon and Other Celestial Bodies, Article V. [27] ‘Agreement on the Rescue of Astronauts, the Return of Astronauts and the Return of Objects Launched into Outer Space’ ( UNITED NATIONS Office for Outer Space Affairs ) truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [28] Treaty on Principles Governing the Activities of States in the Exploration and Use of Outer Space, including the Moon and Other Celestial Bodies, Article VI. [29] Treaty on Principles Governing the Activities of States in the Exploration and Use of Outer Space, including the Moon and Other Celestial Bodies, Article VII. [30] ‘Agreement on the Rescue of Astronauts, the Return of Astronauts and the Return of Objects Launched into Outer Space’ ( UNITED NATIONS Office for Outer Space Affairs ) < https://www.unoosa.org/oosa/en/ourwork/spacelaw/treaties/introrescueagreement.html > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [31] Ram S. Jakhu and McGill, ‘The Relationship Between the Outer Space Treaty and Customary International Law’ ( SSRN , 2016). < https://www.researchgate.net/publication/334035756_The_Relationship_Between_the_Outer_Space_Treaty_and_Customary_International_Law > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [32], [33], [34] Christian Brünner, Alexander Soucek, Christian Brünner, Alexander Soucek ( Outer Space in Society, Politics and Law , 2011). < http://library.lol/main/F7443BF99E0359A945DADB24D6CBF156 > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [35], [37] Michelle L.D. Hanlon and Greg Autry, ‘The Rules of Space Haven’t Been Updated in 50 Years, and the UN Says It’s Time’ ( CNN , 3 January 2022) < https://edition.cnn.com/2022/01/03/world/space-law-united-nations-partner-scn/index.html > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [36] Michele Hanlon and Greg Autry, ‘Space Law Hasn’t Been Changed since 1967 – but the UN Aims to Update Laws and Keep Space Peaceful’ ( The Brooklyn Daily Eagle , 24 November 2021), < https://archive.ph/SWNNu#selection-8567.0-8567.24 > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023. [38] Amy Thompson, ‘ As China makes space strides, debris problem gains urgency’ ( aljazeera, 2022) < https://www.aljazeera.com/economy/2021/5/17/as-china-makes-space-strides-debris-problem-gains-urgency > truy cập ngày 15 tháng 06 năm 2023.

  • [8] QUYỀN QUA LẠI KHÔNG GÂY HẠI CỦA TÀU CHIẾN NƯỚC NGOÀI TRONG LÃNH HẢI

    Tác giả: Phạm Quốc Hào, Phan Nguyễn Quỳnh Nhi Vào những năm đầu của thế kỷ 17, quan hệ sản xuất tư bản ngày càng phát triển, cùng với sự phát hiện những lục địa mới đã giúp cho sản xuất thương nghiệp về biển dần được thúc đẩy. Tuy nhiên, cũng từ đây mà những mâu thuẫn xung quanh các nguyên tắc về tự do biển cả trở nên gay gắt hơn, dẫn đến sự thiết lập các quy chế lãnh hải cũng như quy chế biển cả. Để thuận tiện cho thương mại, các quốc gia đã thỏa hiệp rằng những quyền qua lại trên biển cần được bảo vệ trong vùng lãnh hải. Chính vì vậy, khái niệm về qua lại không gây hại đã ra đời và sau đó hình thành nên một phần của chế độ lãnh hải, và được ghi nhận trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982). [1] Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, có nhiều vấn đề liên quan tới quyền qua lại không gây hại, đặc biệt là quyền qua lại không gây hại của tàu chiến nước ngoài. Bài viết này sẽ giải đáp các quy định của UNCLOS 1982 về quyền qua lại không gây hại và đưa ra một số thực tiễn áp dụng của quốc gia về quyền qua lại không gây hại của tàu chiến nước ngoài. I. Tổng quan về sự ra đời và phát triển quyền qua lại không gây hại trong Luật Biển Quốc tế Lịch sử phát triển của quyền qua lại không gây hại gắn liền với sự phát triển của các lý thuyết về nguyên tắc tự do biển cả. Mãi cho đến những năm đầu thế kỷ 17, quyền qua lại không gây hại mới trở thành một chủ đề được tranh luận nhiều do bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nguyên tắc “Tự do Biển cả" ( Mare Liberum ), được đề cập tới trong cuốn sách cùng tên của Hugo Grotius năm 1609. Grotius cho rằng biển nên được để mở để các quốc gia được tự do đi lại và giao thương, với lập luận rằng Chúa tạo ra ánh nắng, không khí, sóng vì mục đích chung mà không dành riêng cho bất kỳ quốc gia nào. [2] Tuy nhiên, quan điểm này của Grotius nhanh chóng bị phản đối bởi những người ủng hộ lý thuyết “Biển Đóng” ( Mare Clausum ), tiêu biểu là hai học giả người Anh Scotsman William Wellwood và John Selden. Cuộc tranh luận tiếp diễn cho tới đầu thế kỷ thứ 18, với sự phát triển của công nghệ đã đe dọa tới an ninh của quốc gia. Trong một cuốn sách được viết bằng Tiếng Ý xuất bản vào năm 1782, nhà kinh tế học Ferdinando Galiani đã đề xuất lãnh hải sẽ có chiều dài cố định là ba dặm, vì ông cho rằng đây là giới hạn tối đa mà pháo binh có thể đạt tới vào thời điểm đó. Ngay sau đó, quyền qua lại không gây hại của tàu nước ngoài trong vùng lãnh hải cũng đã được ghi nhận. [3] Vào đầu thế kỷ 20, khi luật biển đã đạt được mức độ ổn định với một số quy tắc tập quán quy định việc công nhận hai vùng biển riêng biệt: lãnh hải và biển cả trong Công ước Geneva 1958 về Luật Biển. Theo đó, trong lãnh hải, các quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền, và có nghĩa vụ công nhận quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài. [4] Hội nghị Lahay 1893 đã đưa ra giải pháp cho những vấn đề xung quanh các quy định lúc bấy giờ, trong đó có quy định về quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài, bao gồm cả tàu chiến trong lãnh hải của một quốc gia. [5] Tại Hội nghị, rất nhiều quốc gia đã bày tỏ sự không hài lòng của mình đối với Điều 16 Công ước Geneva 1958, khi Điều này cho phép tất cả các loại tàu nước ngoài được quyền qua lại không gây hại qua vùng lãnh hải của một quốc gia mà không tính đến trường hợp tàu chiến. [6] Tuy nhiên, cho đến khi UNCLOS 1982 ra đời, Công ước này cũng không tạo ra nhiều thay đổi đối với Điều khoản trên, nhưng đã bổ sung thêm các Điều khoản khác để làm rõ hơn những quy định liên quan tới tàu chiến. [7] II. Quyền qua lại không gây hại của tàu chiến trong Luật Quốc tế 1. Thuật ngữ “tàu chiến”, “qua lại”, “qua lại không gây hại” và “lãnh hải” “Tàu chiến” hay có thể gọi là tàu quân sự (warship) được định nghĩa tại Điều 29 của UNCLOS 1982. Theo đó, tàu chiến hay tàu quân sự là “mọi loại tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của các tàu thuyền quân sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương và đoàn thủy thủ phải tuân theo các điều lệnh kỷ luật quân sự.” [8] Từ định nghĩa này, ta có thể hiểu rằng tất cả các tàu thuyền thuộc biên chế của quân chủng Hải quân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển mới được coi là tàu chiến theo quy chế hoạt động đã được quy định tại Điều 30 và Điều 31 của UNCLOS 1982. Điều 18(1) của UNCLOS 1982 cũng đưa ra định nghĩa về “qua lại” là “đi ở trong lãnh hải” với một trong hai mục đích sau: (i) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy, không đậu lại trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc (ii) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hay một công trình cảng trong nội thủy. [9] Theo quy định tại Điều 18(2) của UNCLOS 1982, để được coi là qua lại không gây hại hay quyền qua lại vô hại (innocent passage), cần thỏa mãn hai điều kiện: (i) qua lại nhanh chóng, liên tục, và (ii) phải không ảnh hưởng đến hòa bình, trật tự và an ninh của quốc gia ven biển. [10] Như vậy, việc qua lại không gây hại phải được thực hiện theo đúng với các quy định của UNCLOS 1982 và các quy tắc khác của luật pháp quốc tế. Điều khoản này cũng đưa ra ba trường hợp ngoại lệ mà tàu có thể dừng lại, đó là: (i) sự cố thông thường về hàng hải, (ii) vì lý do bất khả kháng mà bị mắc nạn, hoặc (iii) vì mục đích cứu người hoặc phương tiện tàu thuyền, phương tiện bay gặp nạn. [11] Điều 3 của UNCLOS 1982 quy định: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước.” [12] Điều 2 của UNCLOS 1982 cho phép quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải, bao gồm cả vùng nước, vùng trời phía trên và vùng đáy biển, lòng đất dưới đáy biển. Với những quy định về quyền qua lại không gây hại và quyền miễn trừ của tàu chiến, chủ quyền của quốc gia ven biển là không tuyệt đối trong khu vực này. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quốc gia không có bất kỳ thẩm quyền nào liên quan tới hai quyền này. [13] 2. Quyền qua lại không gây hại của tàu chiến trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) Quyền qua lại không gây hại được ghi nhận tại Điều 17 của UNCLOS 1982, trong đó quy định “với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải”. [14] Tuy nhiên, UNCLOS 1982 không có điều khoản nào quy định cụ thể về quyền qua lại không gây hại của tàu chiến mà chỉ đặt ra nghĩa vụ đối với tàu ngầm và phương tiện đi ngầm trong lãnh hải tại Điều 20: “Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc tịch.” và tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân và tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất vốn nguy hiểm hoặc độc hại tại Điều 23: “Các tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng như các tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, buộc phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng những biện pháp phòng ngừa đặc biệt theo quy định của các điều ước quốc tế đối với loại tàu thuyền đó.” [15] Sự thiếu vắng quy định trực tiếp về quyền qua lại không gây hại của tàu chiến đã dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau của các quốc gia khi áp dụng và giải thích UNCLOS 1982. Quan điểm đầu tiên được ủng hộ bởi Hoa Kỳ và các cường quốc hàng hải như Đức, Hà Lan, khẳng định tàu chiến được hưởng quyền qua lại không gây hại như mọi loại tàu khác trong lãnh hải mà không phải xin phép hay thông báo trước các quốc gia ven biển. [16] Cách tiếp cận này trước hết dựa trên cơ sở Điều 17 được đặt dưới phần tiêu đề Tiểu Mục A, Mục 3 của UNCLOS 1982 về “qua lại không gây hại trong lãnh hải” trong đó nhấn mạnh “các quy tắc áp dụng cho tất cả các loại tàu thuyền”. [17] Điều này cùng với việc UNCLOS 1982 không có điều khoản quy định tàu chiến nước ngoài phải xin phép hay thông báo trước cho các quốc gia ven biển trong lãnh hải, phần nào đó khẳng định quyền qua lại không gây hại được áp dụng cho tàu chiến, tương tự như mọi loại tàu thuyền khác. Bên cạnh đó, trong Vụ Kênh Corfu (Anh v. Albania), Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) đã làm sáng tỏ nguyên tắc quyền qua lại không gây hại qua eo biển quốc tế. Tòa cho rằng các quốc gia trong thời bình có quyền gửi tàu chiến của mình qua lại eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế mà không phải báo trước và quốc gia ven biển không được cản trở quyền này nếu việc qua lại eo biển quốc tế không làm ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh, chủ quyền, các quyền tài phán khác của các quốc gia ven biển. [18] Mặc dù phán quyết của Tòa ICJ trong Vụ Kênh Corfu có trước UNCLOS 1982 và eo biển Corfu là một eo biển chồng lấn với lãnh hải Albania, song quan điểm của Tòa trong trường hợp này là cũng là căn cứ pháp lý quan trọng ủng hộ quyền qua lại không gây hại của tàu chiến trong lãnh hải. [19] Trên thực tế, bằng chứng về thực tiễn chung đối với việc thực thi quyền qua lại không gây hại của tàu chiến cũng có thể được phản ánh qua sự cố va chạm trên Biển Đen, khi tàu tuần dương USS Yorktown và tàu khu trục USS Caron của Hải quân Hoa Kỳ đã đi vào lãnh hải của Liên Xô và va chạm với hai tàu chiến của nước này. [20] Vào năm 1989, hai cường quốc hàng hải Hoa Kỳ và Liên Xô đã đưa ra tuyên bố chung về “giải thích thống nhất các quy tắc của luật pháp quốc tế điều chỉnh quyền qua lại không gây hại”, trong đó khẳng định “tất cả các tàu, kể cả tàu chiến, bất kể chở hàng hóa, vũ khí, đều được hưởng quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải theo luật pháp quốc tế mà không cần phải thông báo trước hay xin phép”. [21] Quan điểm thứ hai được ủng hộ bởi hơn 40 quốc gia, tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ, cho rẳng quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tàu chiến nước ngoài phải thông báo hoặc xin phép trước khi vào lãnh hải của quốc gia đó. [22] Các quốc gia ủng hộ quan điểm trên viện dẫn Điều 21(1) của UNCLOS 1982 về “Các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc qua lại không gây hại”, trong đó cho phép “các quốc gia ven biển có thể định ra, phù hợp với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, các luật và quy định liên quan đến việc qua lại không gây hại ở trong lãnh hải của mình”. [23] Ngoài ra, Điều 25(3) của UNCLOS 1982 cũng cho phép các “quốc gia ven biển có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của mình”. [24] Do đó, nhóm các quốc gia ủng hộ quan điểm thứ hai cho rằng việc quốc gia ven biển yêu cầu tàu chiến nước ngoài phải xin phép hoặc thông báo trước là biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia và phù hợp với UNCLOS 1982 bởi Công ước này không cấm những yêu cầu trên. Hơn nữa, cần phải lưu ý Điều 38 về “quyền quá cảnh” và Điều 53 về “quyền qua lại vùng nước quần đảo” đều sử dụng thuật ngữ “tất cả các tàu”, trong khi Điều 17 về “quyền qua lại không gây hại” sử dụng thuật ngữ “tàu”. [25] Nhóm quốc gia ủng hộ quan điểm thứ hai cho rằng điều này có thể ngầm định tàu chiến không nằm trong Điều 17 và từ đó không thể hưởng quyền qua lại không gây hại như các loại tàu khác. III. Quyền qua lại không gây hại của tàu chiến theo quy định của pháp luật Việt Nam Nghị định 30/CP năm 1980 về “Quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước Cộng hoà xã hôi chủ nghĩa Việt Nam” đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam đặt ra quy định đối với tàu chiến nước ngoài đi vào lãnh hải. Theo đó, tại Điểm c, Điều 3 quy định “tàu thuyền quân sự (bao gồm cả tàu chiến và tàu bổ trợ) muốn vào vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam phải xin phép Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (qua đường ngoại giao) ít nhất ba mươi ngày trước, và sau khi được phép vào, phải thông báo cho các nhà đương cục quân sự Việt Nam (qua Bộ Giao thông vận tải nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) bốn mươi tám giờ trước khi bắt đầu đi vào vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam”. [26] Tiếp đó, tại Khoản 2 Điều 6 của Nghị định số 55 của Chính phủ ban hành năm 1996 về “hoạt động của tàu quân sự nước ngoài vào thăm nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định: “việc xin phép vào thăm của tàu quân sự (trừ tàu thăm chính thức) thực hiện qua đường ngoại giao chậm nhất là 30 ngày trước ngày dự kiến tàu vào cảng (trừ khi có thủ tục khác đã được quy định trong Hiệp định hoặc thoả thuận giữa hai Chính phủ).” [27] Như vậy, tính đến thời điểm trước khi Luật Biển Việt Nam năm 2012 có hiệu lực, Việt Nam vẫn yêu cầu tàu chiến của quốc gia khác khi đi vào lãnh hải phải thông báo, xin phép trước. [28] Những quy định có thể xuất phát từ việc sức mạnh hải quân của Việt Nam ở thời điểm đó còn hạn chế và chưa thể kiểm soát các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải, đặc biệt là tàu chiến tàu chiến. [29] Tuy nhiên, khi Luật Biển Việt Nam năm 2012 được ban hành và có hiệu lực, quy chế pháp lý đối với tàu chiến nước ngoài đã có sự thay đổi. Theo đó, tại Khoản 2, Điều 12 của Luật này quy định “Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.” [30] Điều này có nghĩa là quy định về việc tàu chiến nước ngoài phải xin phép trước Chính phủ Việt Nam và thông báo Bộ Giao thông vận tải sau khi được cho phép tại Nghị định 30/CP năm 1980 đã bị huỷ bỏ và tàu quân sự nước ngoài chỉ cần thông báo trước cho Việt Nam khi thực thi quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải. [31] Quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài không phải là một đề tài mới. Có thể thấy, quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải là một quyền quan trọng trong việc thúc đẩy tự do thương mại giữa các quốc gia. Song, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, vấn đề về quyền qua lại của tàu chiến vẫn là mối lo ngại đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo sự phát triển của lịch sử, mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau về quyền qua lại không gây hại của tàu chiến khi tiến vào vùng lãnh hải của mình. Do đó, các quốc gia cần có quy định nội luật rõ ràng, minh bạch để tránh những hiểu lầm và xung đột trong tương lai. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] [22] [29] Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường, ‘Quyền đi qua không gây hại của tàu quân sự nước ngoài trong lãnh hải theo quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam’ (2012) 28 Tạp chí Luật học 8 < https://www.google.com/url?q=https://js.vnu.edu.vn/LS/article/view/1122/1090&sa=D&source=docs&ust=1679535352925062&usg=AOvVaw0GbNbEEu4WzzX-aRvxJIqp > truy cập 11 tháng 03 năm 2023. [2] U.S. Naval War College Digital Commons, ‘U.S. Naval War College Research’ < https://digital-commons.usnwc.edu/ > truy cập 15 tháng 03 năm 2023. [3] Donald Rothwell, Alex Oude Elferink, Karen Scott, Tim Stephens,, De’ doveri dei principi neutrali verso i principi guerreggianti e di questi verso i Neutrali , (Oxford University Press 2017). [4] [6] [7] Donald Rothwell, Alex Oude Elferink, Karen Scott, Tim Stephens, The Oxford Handbook of the Law of the Sea (Oxford University Press) (2017) Oxford University Press < https://www.cambridge.org/core/journals/american-journal-of-international-law/article/abs/oxford-handbook-of-the-law-of-the-sea-edited-by-donald-r-rothwell-alex-g-oude-elferink-karen-n-scott-and-tim-stephens-oxford-new-york-oxford-university-press-2015-pp-lxx-997-index-235/FB1A372DDC5272C0669FD3D005E51304 > truy cập 08 tháng 03 năm 2023. [5] International institute for Law of the Sea Studies, ‘The Hague Conference for the Codification of International Law (1930)’ (2021) < http://iilss.net/the-hague-conference-for-the-codification-of-international-law-1930/ > truy cập ngày 15 tháng 03 2023. [8] Điều 29 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [9] Điều 18(1) Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [10] [13] [28] [31] Trần Hữu Duy Minh, ‘UNCLOS: Lãnh Hải (Territorial Sea)’ ( Luật pháp Quốc tế, 2017), < https://iuscogens-vie.org/2017/04/19/17/ > truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2023. [11] Điều 18(2) Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [12] ‘Lãnh hải là gì? Chiều rộng của lãnh hải? Chế độ pháp lý của lãnh hải?’ ( Cổng thông tin điện tử tỉnh Cà Mau, 2014) < https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=gioithieu.chitiet&urile=wcm%3Apath%3A/camaulibrary/camauofsite/gioithieu/chuyende/biendaoquehuong/tulieuvanban/fdgty346346 > truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2023. [14] Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [15] Điều 20 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [16] [19] Tôn Anh Đức, ‘Innocent Passage of Warships, Asia-Pacific Journal of Ocean Law and Policy’ (2016) Asia-Pacific Journal of Ocean Law and Policy < Innocent Passage of Warships in: Asia-Pacific Journal of ... - BrillBrillhttps://brill.com › journals › apoc › article-p210_6 > truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2023. [17] Tiểu Mục A, Mục 3 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [18] Corfu Channel Case (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland v. Albania), Judgement of April 9th, I949 ICJ Reports, 1949 < https://www.icj-cij.org/sites/default/files/case-related/1/001-19490409-JUD-01-00-EN.pdf > truy cập ngày 14 tháng 03 năm 2023. [20] John Broder, 2 Soviet Vessels Bump U.S. Navy Warships in Black Sea (1988) Los Angeles Times < https://www.latimes.com/archives/la-xpm-1988-02-13-mn-10863-story.html > truy cập ngày 12 tháng 03 năm 2023. [21] Kari Hakapää, ‘Innocent Passage’ (2013) Oxford Public International Law. < https://www.ilsa.org/Jessup/Jessup18/Second%20Batch/OPIL_Innocent_Passage.pdf > truy cập ngày 14 tháng 03 năm 2023. [23] Điều 21(1) Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [24] Điều 25(3) Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [25] Điều 25 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. [26] Điểm c, Điều 3 Nghị định số 30/CP 1980 về quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. [27] Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 55/CP 1996 về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài vào thăm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. [30] Khoản 2 Điều 12 Luật Biển Việt Nam 2012.

  • [15] HIỆP ƯỚC THƯỢNG TẦNG KHÔNG GIAN - VĂN KIỆN PHÁP LÝ QUỐC TẾ ĐẦU TIÊN VỀ VŨ TRỤ

    Tác giả: Lê Nhật Quỳnh, Phan Nguyễn Quỳnh Nhi Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ và Liên Xô cùng các đồng minh của mình đã bắt đầu một cuộc chiến kéo dài hàng thập kỷ, phân chia thế giới thành hai cực. Cuộc chiến này tuy không gây ra đối đầu trực tiếp nhưng lại là khởi đầu cho một giai đoạn lịch sử được biết đến với tên gọi “Chiến tranh Lạnh”. Để chiến thắng trong cuộc chiến tranh đặc biệt này, bên cạnh những âm mưu chính trị, quân sự, kinh tế, cả hai bên đều tin rằng cần phải tập trung vào thúc đẩy phát triển công nghệ, một trong số đó là công nghệ liên quan tới vũ trụ.[1] Năm 1957, Liên Xô phóng thành công vệ tinh Sputnik vào vũ trụ, khởi đầu cho “Cuộc chạy đua vào không gian”. Hai năm sau đó, Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower đã khởi xướng Dự án Mercury với mục tiêu đưa tàu vũ trụ có người lái vào quỹ đạo. Ngày 12/04/1961, nhà du hành vũ trụ Liên Xô Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên bay vào vũ trụ. Ngay sau đó, vào ngày 25/05/1961, Tổng thống Kennedy đã kêu gọi khoản đầu tư lên đến 9 tỷ đô la trong 5 năm cho chương trình không gian nhằm bảo vệ danh dự của Hoa Kỳ.[2] Trước cuộc chạy đua căng thẳng này của Hoa Kỳ và Liên Xô, Hiệp ước Thượng tầng Không gian (OST) đã được ra đời nhằm ngăn chặn cuộc đua vào không gian và xung đột vũ trang xảy ra tại khu vực rộng lớn này. [3] Do đó, bài viết này sẽ tập trung phân tích vai trò quan trọng của Hiệp ước này đối với sự phát triển của các hoạt động bên ngoài không gian. 1. Hoàn cảnh ra đời Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và cuộc chạy đua căng thẳng giữa Hoa Kỳ - Liên Xô đã đặt ra nhu cầu về một văn kiện pháp lý điều chỉnh việc khám phá không gian, thử nghiệm vũ khí và yêu sách lãnh thổ dựa trên nguyên tắc khoảng không vũ trụ là của toàn nhân loại và nghiêm cấm các quốc gia thử nghiệm vũ khí hạt nhân hay vũ khí huỷ diệt hàng loạt (Weapons of Mass Destruction - WMD) tại đây. Chủ đề về bảo tồn không gian vũ trụ đã được đề cập từ những năm 1950 tại Liên hợp quốc. Năm 1963, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua hai nghị quyết về không gian vũ trụ mà sau đó trở thành cơ sở cho Hiệp ước Thượng tầng Không gian. Nghị quyết số 1884 của Liên hợp quốc kêu gọi các quốc gia kiềm chế không lắp đặt WMD ngoài vũ trụ. Nghị quyết số 1962 của Liên hợp quốc đặt ra các nguyên tắc pháp lý về thăm dò vũ trụ, trong đó quy định tất cả các quốc gia đều có quyền tự do khám phá và sử dụng không gian.[4] Hoa Kỳ và Liên Xô đã đệ trình các dự thảo hiệp ước ngoài không gian riêng biệt lên Đại hội đồng Liên hợp quốc vào tháng 06/1966. Tháng 12 cùng năm, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã soạn thảo và thông qua bản văn kiện soạn thảo về Hiệp ước thượng tầng không gian. Hiệp ước được mở để ký tại Washington, Moscow, London vào ngày 27/01/1967 và chính thức có hiệu lực vào ngày 10/10/1967.[5] 2. Nội dung chính của Hiệp ước Nguyên tắc pháp lý cốt lõi của Hiệp ước Thượng tầng Không gian 1967 là res communis , nghĩa là không gian là lãnh thổ thuộc sở hữu chung của nhân loại. Như vậy, khoảng không vũ trụ không phải là lãnh thổ vô chủ (res nullius); các quốc gia không thể tự tuyên bố chủ quyền ở bất kỳ khu vực nào trong không gian.[6] Nội dung chính của Hiệp ước được điều chỉnh xung quanh nguyên tắc này, cụ thể như sau: Thứ nhất , về các quyền tự do.[7] Hai quyền tự do quan trọng đã được nêu ra ở Điều I của Hiệp ước, cụ thể: 1. Quyền tự do khai thác và sử dụng khoảng không vũ trụ, kể cả Mặt trăng và các thiên thể khác, không phân biệt đối xử ở bất kỳ hình thức nào, dựa trên cơ sở bình đẳng và phù hợp với luật pháp quốc tế; 2. Quyền nghiên cứu khoa học được tiến hành tự do trong khoảng không vũ trụ, kể cả Mặt trăng và các thiên thể khác. Thứ hai , về nguyên tắc res communis . Khoảng không vũ trụ, kể cả Mặt trăng và các thiên thể khác, không thuộc lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào bằng bất kỳ hình thức chiếm hữu lãnh thổ nào. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nhất ở Điều II của Hiệp ước. Thứ ba , về hoạt động khai thác, thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ. Quy định tại Điều III, các hoạt động khai thác, thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ cần phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên hợp quốc, và khẳng định sự cần thiết giữ gìn yếu tố hoà bình trong các hoạt động này.[8] Điều IV quy định một số biện pháp phi quân sự hóa cũng như quy định việc sử dụng khoảng không vũ trụ phải nhằm mục đích hòa bình. Các hoạt động quân sự đều bị cấm, trừ khi cho mục đích nghiên cứu khoa học, khám phá hòa bình và các mục đích hòa bình khác. Thứ tư , về hoạt động trợ giúp, hợp tác quốc tế và trách nhiệm của các quốc gia thành viên.[9] Với các nhà du hành vũ trụ, những người được coi là “sứ giả của loài người trong khoảng không vũ trụ”, cần được các quốc gia hỗ trợ trong các trường hợp tai nạn, gặp sự cố hoặc hạ cánh khẩn cấp (Điều VI). Các quốc gia chịu trách nhiệm quốc tế cho các hoạt động quốc gia ở khoảng không vũ trụ (Điều VI); có trách nhiệm bồi thường thiệt hại (Điều VI) và có quyền đăng ký vật thể vũ trụ và quyền tài phán với các vật thể đó (Điều VII, VIII). Ngoài ra, các quốc gia phải tránh gây ô nhiễm có hại cho không gian bên ngoài, đồng thời tham khảo ý kiến của các quốc gia khác liên quan đến các thí nghiệm có hại tiềm ẩn (Điều IX). Bên cạnh đó, các quốc gia cần thúc đẩy hợp tác và hiểu biết, hỗ trợ đa phương trong hoạt động thăm dò, khai thác khoảng không vũ trụ (Điều III, IX, X) và cần thông báo cho Tổng thư ký Liên hợp quốc về các hoạt động trong không gian (Điều V, IX). 3. Thành công và thách thức trong việc thực thi Hiệp ước a. Thành công Kể từ khi có hiệu lực pháp lý, Hiệp ước đã đạt được một số thành công nhất định. Xét mục đích ra đời của văn kiện này, Hiệp ước đã thành công ngăn chặn hoạt động thử nghiệm vũ khí hạt nhân hay WMD tại khu vực vũ trụ của Liên Xô và Hoa Kỳ. Được đông đảo cộng đồng quốc tế xem như “Bản Hiến chương” của vũ trụ,[9] Hiệp ước là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên điều chỉnh các hoạt động trong khoảng không vũ trụ đưa ra các quyền tự do khai thác và sử dụng, quyền tự do nghiên cứu khoa học khoảng không vũ trụ. Các nguyên tắc nền tảng nhằm thiết lập một khuôn khổ cơ bản cho hoạt động sử dụng và khám phá không gian vì mục đích hòa bình của các quốc gia cũng được quy định trong Hiệp ước. Bên cạnh đó, Hiệp ước cũng khẳng định khoảng không vũ trụ là của nhân loại, không thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Bên cạnh đó, Hiệp ước là tiền đề để cộng đồng quốc tế xây dựng những văn kiện pháp lý khác liên quan tới các hoạt động ở vũ trụ, đóng góp vào quá trình hoàn thiện luật pháp quốc tế về vũ trụ. Một số Hiệp ước được đưa ra sau khi Hiệp ước Thượng tầng Không gian có giá trị, có thể kể đến như: Hiệp ước về cứu hộ nhà du hành vũ trụ, trao trả nhà du hành vũ trụ và các vật thể được phóng vào vũ trụ (Hiệp ước về cứu hộ 1968) - được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 2345; Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra (Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1972) - được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 2777; Công ước về Đăng ký các vật thể được phóng vào khoảng không vũ trụ (Công ước về đăng ký 1975) - được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 3235, v.v. Ngoài ra, Hiệp ước cũng có tác động quan trọng đến hoạt động hoàn thiện nội luật quốc gia về khoảng không vũ trụ. Một số các quốc gia đã ban hành luật khoảng không vũ trụ, như Anh (Luật khoảng không vũ trụ 1986), Thụy Điển (Luật về Hoạt động vũ trụ số 9 1982), Australia (Luật Hoạt động vũ trụ 1998, sửa đổi năm 2002), v.v. Cho tới thời điểm hiện tại, đa phần các quốc gia trên thế giới đều là thành viên của Hiệp ước. Như vậy, với nhân loại nói chung, Hiệp ước là khởi đầu của hoạt động khám phá và sử dụng khoảng không vũ trụ một cách hòa bình và dựa trên luật pháp quốc tế. Hiệp ước là nền tảng cho tiến trình hình thành và phát triển của pháp luật về khoảng không vũ trụ; là điều ước quốc tế quan trọng đối với hoạt động xây dựng hệ thống pháp luật quốc tế đương đại thể.[11] b. Thách thức Các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc áp dụng và thực thi Hiệp ước là do văn kiện này không có những quy định cụ thể liên quan tới vấn đề an ninh và tư hữu hoá khoảng không vũ trụ. Một trong những mục đích và nguyên tắc quan trọng của Hiệp ước này đó là “sử dụng vì mục đích hòa bình.” Trải qua nhiều năm, yếu tố cấu thành của việc sử dụng vì mục đích hòa bình vẫn đối mặt với nhiều tranh cãi, bởi bản thân từ “hoà bình” có nhiều cách giải thích khác nhau. “Hòa bình” có thể được hiểu là không có bạo lực hoặc vũ lực hay việc không tham gia vào chiến tranh hoặc bạo lực.[12] “Sử dụng vì mục đích hòa bình” được hiểu là các hành động “không gây hấn,” và loại trừ các hành vi liên quan tới quân đội.” Như vậy, việc sử dụng không gian vũ trụ vì mục đích hòa bình không hoàn toàn loại trừ các mục đích sử dụng quân sự, mặc dù điều này đã phần nào không được khuyến khích bởi Hiệp ước này.[13] Tuy Liên hợp quốc cho phép Hội đồng Bảo an thiết lập đội quân gìn giữ hòa bình, và đội quân này được phép sử dụng vũ lực trong một số trường hợp.[14] Thế nhưng, điều này chứng minh rằng việc sử dụng vũ lực hoặc quân đội để bảo vệ hoà bình là một điều cần thiết và không thể tránh khỏi. Do đó, thách thức đầu tiên mà Hiệp ước này cần giải quyết đó là việc hợp pháp hóa việc thực hiện các hoạt động gìn giữ hòa bình trong đó việc sử dụng lực lượng quân sự, nếu không thể thiết lập các căn cứ quân sự và thực hiện các cuộc diễn tập quân sự để đối phó với những quốc gia chọn không tôn trọng các nghị quyết của Liên hợp quốc. Hiệp ước cũng không loại trừ các lợi ích vượt ra ngoài lãnh thổ của các quốc gia, tức là lợi ích của doanh nghiệp tư nhân.[15] Ngày nay, việc sử dụng và thăm dò không gian bên ngoài hiện đang ngày càng được cung cấp nguồn lực và thúc đẩy bởi nguồn vốn tư nhân. Hoa Kỳ có kế hoạch tư nhân hóa hoàn toàn Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) vào năm 2024.[16] Đồng thời, không gian vũ trụ đang trở thành nơi cạnh tranh của các chủ thể thương mại cung cấp dịch vụ du lịch vũ trụ, kết nối vệ tinh và giám sát khí hậu, chưa kể đến việc khai thác các hành tinh.[17] Cho tới thời điểm hiện tại, Hiệp ước cần trả lời được hai câu hỏi: (i) Các quốc gia có quyền được hưởng và chia sẻ lợi ích từ những hoạt động của chủ thể thương mại không, và (ii) chủ thể thương mại trong lĩnh vực này có được thực hiện các hoạt động thương mại về hoạt động vũ trụ nhân danh quốc gia không.[18] Như vậy, thách thức tiếp theo đối với Hiệp định đó là phải ứng phó kịp thời với sự phát triển của thương mại và tư nhân hoá hoạt động ngoài vũ trụ. Nhằm mục đích hạn chế việc chạy đua vũ trang và đảm bảo hoà bình tại khoảng không vũ trụ, Hiệp ước Thượng tầng Không gian là một trong những văn kiện pháp lý quan trọng đầu tiên trong việc quy định những nguyên tắc cơ bản của các quốc gia trong việc sử dụng và khai thác không gian này. Trải qua hơn 50 năm áp dụng, Hiệp ước này đã góp phần góp phần thúc đẩy các quốc gia phát triển và đẩy mạnh các hoạt động ngoài vũ trụ trên cơ sở bảo vệ môi trường hoà bình bên ngoài khoảng không. Tuy nhiên, với sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ và sự bất ổn của tình hình thế giới hiện nay, Hiệp ước cần có những quy định cụ thể hơn để đáp ứng kịp thời với sự phát triển của nhân loại. Để trình bày các vấn đề trên, nhóm tác giả đã tham khảo quan điểm từ nhiều nguồn khác nhau tuy nhiên không thể tránh khỏi các sai sót. Nhóm tác giả rất mong nhận được các nhận xét, đóng góp từ thầy/cô và các bạn đọc. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Department of Education and Public Programs, John F. Kennedy Presidential Library and Museum, ‘Kennedy’s Quest: Leadership in Space’ < https://www.jfklibrary.org/sites/default/files/2019-05/space%20web%20lesson%20plan%20final%202.pdf > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [2] JFK Library, ‘President Kennedy’s special message to the Congress on urgent national needs’ (May 25, 1961) < https://www.jfklibrary.org/archives/other-resources/john-f-kennedy-speeches/united-states-congress-special-message-19610525 > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [3] Annette Froehlich (eds.), ‘A Fresh View on the Outer Space Treaty’ Springer International Publishing (2018), vii. [4] ‘The Outer Space Treaty at a Glance’ Ams Control Association (10/2020) < https://www.armscontrol.org/factsheets/outerspace > truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2023. [5] Paul G. Dembling, Daniel M. Arons, ‘The Evolution of the Outer Space Treaty’ (1967) < https://core.ac.uk/download/pdf/188046313.pdf > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [6] John Hickman, ‘Still crazy after four decades: The case for withdrawing from the 1967 Outer Space Treaty’ (2007) < https://www.thespacereview.com/article/960/1 > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [7] [8] [11] Hoàng Trung Kiên, ‘Pháp luật về khoảng không vũ trụ - tiếp cận từ góc độ luật học so sánh’ (2009) < https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6150/1/000500000025.pdf > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [9]. [10] He Qizhi, ‘The Outer Space Treaty in Perspective’ Volume 25, Number 2, page 93 Journal Of Space Law (1997) < https://airandspacelaw.olemiss.edu/pdfs/jsl-25-2.pdf > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023; Hoàng Trung Kiên, Pháp luật về khoảng không vũ trụ - tiếp cận từ góc độ luật học so sánh (2009) < https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6150/1/000500000025.pdf > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [12] Annette Froehlich, ‘A Fresh View on the Outer Space Treaty-Springer International Publishing’ (2018), trang 41. [13],[15],[17] Ann Deslandes, ‘The Bold Future of the Outer Space Treaty’ (2018), Daily Jstor < https://daily.jstor.org/the-bold-future-of-the-outer-space-treaty/ > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [14] United Nations Peacekeeping, ‘Mandates and the legal basis for peacekeeping’ < http://www.un.org/en/peacekeeping/operations/pkmandates.shtml > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [16] Christian Davenport, ‘The Trump administration wants to turn the International Space Station into a commercially run venture’ NASA document shows (2018), The Washington Post < https://www.washingtonpost.com/news/the-switch/wp/2018/02/11/the-trump-administration-wants-to-turn-the-international-space-station-into-a-commercially-run-venture/ > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023. [18] Gbenga Oduntan, ‘Aspects of the International Legal Regime concerning Privatization and Commercialization of Space Activities’ (2016) < https://www.jstor.org/stable/26396156 > truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023.

  • [13] ĐỐI TƯỢNG BẢO VỆ CỦA LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ (LNĐQT)

    Tác giả: Lê Nhật Quỳnh, Dương Duy Khang Các cuộc chiến tranh, xung đột trên khắp thế giới luôn gây ra nhiều thiệt hại đáng kể về người và của. Vì thế, LNĐQT đã xây dựng một bộ các quy tắc nhằm bảo vệ một số đối tượng, giảm thương vong cũng như hạn chế các hành vi mang tính chất vô nhân đạo. Việc xác định cụ thể các đối tượng bảo vệ nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của LNĐQT. I. Dân thường và mục tiêu dân sự 1. Dân thường Dân thường được bảo vệ trong mọi trường hợp trừ khi họ trực tiếp tham gia chiến đấu.[1] Việc xác định dân thường được dựa vào phương pháp loại trừ. Theo Điều 50(1) Nghị định thư I, các đối tượng không phải tù bình chiến tranh theo các khoản 1,2,3,6 Điều 4(A) của Công ước Geneva về đối xử với tù bình chiến tranh (Công ước Geneva III) và không phải chiến binh theo Điều 43 Nghị định thư I là dân thường. Điều 43(2) Nghị định thư I quy định mọi thành viên của lực lượng vũ trang đều là chiến binh trừ nhân viên y tế và tôn giáo.[2] Lực lượng vũ trang của một bên xung đột bao gồm tất cả lực lượng, nhóm và đơn vị có tổ chức đặt dưới sự chỉ huy chịu trách nhiệm với bên đó về hành vi của cấp dưới của mình.[3] Bên cạnh đó, khi không thể xác định liệu họ là dân thường hay không, LNĐQT suy đoán mọi người là dân thường.[4] Bên cạnh đó, dân thường sẽ được hưởng quy chế bảo hộ theo Điều 4 Công ước Geneva IV về bảo vệ dân thường trong chiến tranh với các điều kiện sau: (i) tại bất kỳ thời điểm nào và bằng bất kỳ phương thức nào, trong một cuộc xung đột hay chiếm đóng, họ bị rơi vào tay quốc gia mà họ không phải là công dân; (ii) công dân của quốc gia không phải là thành viên của Công ước và không được bảo vệ bởi quốc gia của họ; (iii) công dân của một quốc gia trung lập và bị rơi vào lãnh thổ của một quốc gia là một bên của xung đột trong trường hợp hai quốc gia này không có quan hệ ngoại giao bình thường; (iv) công dân của một quốc gia là đồng minh của một quốc gia là một bên của xung đột trong trường hợp hai quốc gia này không có quan hệ ngoại giao bình thường; và (v) không thuộc các trường hợp được hưởng quy chế bảo vệ theo các Công ước Geneva 1949 còn lại. II. Mục tiêu dân sự Xác định mục tiêu dân sự cũng được dựa trên phương pháp loại trừ: mục tiêu dân sự là tất cả mục tiêu không phải là mục tiêu quân sự.[5] Các mục tiêu dân sự đều phải được bảo vệ và nghiêm cấm các hành vi tấn công vào các mục tiêu này theo LNĐQT.[6] Các mục tiêu quân sự là những mục tiêu về bản chất, địa điểm, mục đích hoặc việc sử dụng các mục tiêu này đóng góp hiệu quả vào hoạt động quân sự và việc phá hủy một phần hay toàn bộ, việc thu giữ hay vô hiệu hóa các mục tiêu này, trong tình huống tại khoảng thời gian đó, đem lại một lợi thế quân sự chắc chắn.[7] Như vậy, hai đặc điểm để xác định một mục tiêu quân sự là: (i) khả năng đóng góp hiệu quả vào hoạt động quân sự; (ii) chắc chắn phải đạt được một lợi thế quân sự từ việc phá hủy, thu giữ, hay vô hiệu hóa các mục tiêu này. Tương tự như dân thường, trong trường hợp có nghi ngờ rằng một mục tiêu thường được sử dụng cho mục đích dân sự có đang được dùng nhằm đóng góp hiệu quả vào hoạt động quân sự hay không, các mục tiêu trên không được xem là dùng cho mục đích quân sự.[8] III. Người bị thương, bị bệnh và bị đắm tàu Trong LNĐQT, các bên xung đột có nghĩa vụ phải tôn trọng, bảo vệ, và chăm sóc người bị thương, bị bệnh và bị đắm tàu trong mọi tình huống và ở bất kỳ nơi đâu.[9] Về nghĩa vụ tôn trọng, các bên xung đột phải kiềm chế không được tấn công, lạm dụng, gây chấn thương hay bất cứ hành vi nào có thể gây tổn thương và gây hại tới cả dân thường và thành viên lực lượng vũ trang.[10] Về nghĩa vụ bảo vệ, các bên trong xung đột phải chủ động bảo vệ các đối tượng trên khỏi việc bị hại, đối xử vô nhân đạo và cướp bóc; bảo đảm các quyền của họ, bao gồm việc tìm kiếm và thu thập họ, sơ tán khỏi vùng chiến đấu, bảo đảm chăm sóc y tế.[11] Trong mọi trường hợp và bất kỳ thời điểm, các bên xung đột phải đối xử nhân đạo người bị thương, người bị bệnh, và bị đắm tàu và chăm sóc y tế một cách không phân biệt ngoại trừ trên cơ sở y tế.[12] Nhằm áp dụng quy chế trên, Điều 8(a) Nghị định thư I định nghĩa người bị thương và bị bệnh, kể cả dân thường và chiến binh, là những người không có bất kỳ hành động chống đối và bởi vì chấn thương, bệnh tật, rối loạn hay tàn tật về thể chất hoặc tinh thần, bao gồm cả trẻ sơ sinh, sản phụ hay bất kỳ người nào cần được chăm sóc hay hỗ trợ y tế ngay lập tức. Theo Điều 8(b) Nghị định thư I, người bị đắm tàu là người không có bất kỳ hành động chống đối và đang gặp nguy hiểm trên biển hoặc trong những vùng nước khác do không may mắn, hay do tàu hay máy bay vận chuyển họ. Điều kiện chung quan trọng của người bị thương, bị bệnh, và bị đắm tàu là không có hành động chống đối. Mặc dù LNĐQT không yêu cầu chứng minh tình trạng bị thương, bị bệnh và bị đắm tàu, hành động chống đối sẽ khiến họ không được hưởng quy chế nêu trên.[13] IV. Tù binh chiến tranh Tù binh chiến tranh sẽ được hưởng quy chế bảo hộ ngay khi họ bị rơi vào tay địch cho đến khi được thả ra và trở về quốc gia của mình.[14] Điều kiện hưởng quy chế bảo hộ tù binh chiến tranh là hành động đầu hàng hoặc việc được xem là hors de combat [15] trên phần lãnh thổ được kiểm soát bởi đối phương.[16] Bên xung đột có quyền giam giữ tù binh chiến tranh nhằm ngăn chặn họ tiếp tục tham gia vào xung đột.[17] Các tù binh chiến tranh được đối xử nhân đạo trong mọi tình huống và nghiêm cấm mọi hành vi của bên giam giữ mà gây ra cái chết hay ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của tù binh.[18] Nhân phẩm và các quyền sống, quyền cá nhân và các quyền về chính trị, tôn giáo và tư tưởng được tôn trọng.[19] Bên cạnh đó, các tù bình chiến tranh cũng có quyền được trao đổi tin tức với gia đình.[20] Các bên giam giữ phải đảm bảo các điều kiện tối thiểu về giam giữ, thức ăn và quần áo theo Điều 25 đến 32 Công ước Geneva III. Bên giam giữ không có quyền trừng phạt hay truy tố tù binh chiến tranh theo pháp luật của bên bắt giữ vì lý do tham gia chiến đấu.[21] Nhằm áp dụng quy chế trên, LNĐQT đã định nghĩa tù binh chiến tranh là thành viên của lực lượng vũ trang (chính quy hoặc không chính quy hoặc thuộc trường hợp tổng động viên) mà bị rơi vào tay địch[22] theo những điều kiện được quy định ở Điều 4 Công ước Geneva III. Theo đó, bốn điều kiện sau đây cần được thỏa mãn nhằm hưởng quy chế tù binh chiến tranh: (i) họ được chỉ huy bởi người đứng đầu chịu trách nhiệm cho người thuộc cấp dưới của mình; (ii) họ mang dấu hiệu rõ ràng có thể nhận dạng được ở một khoảng cách xa; (iii) công khai mang vũ khí; (iv) tuân thủ luật và tập quán chiến tranh khi hoạt động.[23] Quy chế tù binh chiến tranh cũng được áp dụng đối với dân thường khi họ phối hợp với lực lượng vũ trang nhưng không phải là thành viên chính thức (như là phóng viên chiến tranh, thành viên đơn vị lao động hay chăm sóc cho quân nhân, v.v.) khi họ rơi vào tay địch.[24] Trong các trường hợp có thể, người chiến binh có nghĩa vụ tự phân biệt mình với dân thường nhưng lại không thực hiện nghĩa vụ này, trong khi họ đang tham gia một cuộc tấn công hay hoạt động chuẩn bị tấn công sẽ không được hưởng quy chế tù binh chiến tranh.[25] Tóm lại, những quy định của LNĐQT về phạm vi áp dụng và đối tượng bảo vệ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và đối tượng trong một xung đột vũ trang và góp phần tạo nên giá trị thực tiễn của ngành luật này. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bất kỳ thắc mắc hay ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nils Melzer, Etienne Kuster, A Comprehensive Introduction to International Humanitarian Law , p 78. [2] Điều 43(2) Nghị định thư I; Rule 3 in Jean-Marie Henckaerts and Louise Doswald-Beck, Customary International Humanitarian Law, Volume 1: Rules. [3] Điều 43(1) Nghị định thư I; Rule 4 in Jean-Marie and Louise, Customary International Humanitarian Law, Volume 1: Rules. [4] Điều 50(1) Nghị định thư I: “[...] Trong trường hợp có nghi ngờ rằng liệu một người có phải dân thường hay không, người đó được xem là dân thường.”. [5] Điều 51(2) Nghị định thư I. [6] Điều 33 Công ước Geneva IV; Điều 52(1)(2) Nghị định thư I; Rule 7 in Jean-Marie and Louise, Customary International Humanitarian Law, Volume 1: Rules. . [7] Điều 52(2) Nghị định thư I. [8] Điều 52(3) Nghị định thư I. [9] Điều 4, 12 Công ước Geneva I; Điều 5, 12(1) Công ước Geneva II; Điều 16(1) Công ước Geneva IV; Điều 10(1) Nghị định thư I trong Phạm Lan Dung, Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế , tr 344. [10] Điều 18(2) Công ước Geneva I; Điều 17(1) Nghị định thư I; Rule 111 in Jean-Marie and Louise, Customary International Humanitarian Law, Volume 1: Rules in Nils Melzer, Etienne Kuster, A Comprehensive Introduction to International Humanitarian Law , p 136. [11] Điều 15 Công ước Geneva I; Điều 18 Công ước Geneva II; Rules 109 and 111 in Jean-Marie and Louise, Customary International Humanitarian Law, Volume 1: Rules in Nils Melzer, Etienne Kuster, A Comprehensive Introduction to International Humanitarian Law , p 136. [12] Điều 12(2)(3) Công ước Geneva I và II; Điều 9(1) và Điều 10(2) Nghị định thư I; Rule 110 in Jean-Marie and Louise, Customary International Humanitarian Law, Volume 1: Rules in Nils Melzer, Etienne Kuster, A Comprehensive Introduction to International Humanitarian Law , p 136. [13] Nils Melzer, Etienne Kuster, A Comprehensive Introduction to International Humanitarian Law , p 135. [14] Điều 5(1) Công ước Geneva III. [15] Theo Cambridge Dictionary “hors de combat” mang nghĩa “ngoài vòng chiến đầu”, < https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/hors-de-combat > truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023; Theo ICRC, các điều kiện để một chiến binh được xem là “hors de combat” là: (i) họ bị bắt giữ bởi phía địch; (ii) họ thể hiện rõ ràng ý định đầu hàng, hoặc (iii) họ bị mất khả năng tự vệ, < https://casebook.icrc.org/a_to_z/glossary/hors-de-combat > truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023. [16] Marco Sassòli, International Humanitarian Law: Rules, controversies, and solutions to problem arising in warfare (Edward Elgar Publishing Limited 2019), tr 260 trong Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế , tr 347. [17] Điều 21 Công ước Geneva III; Nils Melzer, Etienne Kuster, A Comprehensive Introduction to International Humanitarian Law , p 175. [18] Điều 13 Công ước Geneva III. [19] Điều 14, 17 Công ước Geneva III; Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế , tr 348. [20] Điều 70 Công ước Geneva III. [21] Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế , tr 348. [22] Điều 4 Công ước Geneva III; Điều 44(1) Nghị định thư I; Điều 1,2 các Quy tắc La-Hay; Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế , tr 346. [23] Điều 4(A)(2) Công ước Geneva III. [24] Điều 4(A)(4); Điều 5 Công ước Geneva III. [25] Điều 44(3) Nghị định thư I; Rule 106 in in Jean-Marie and Louise, Customary International Humanitarian Law, Volume 1: Rules.

  • [12] PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ

    Tác giả: Lê Nhật Quỳnh, Dương Duy Khang Vì các mục đích nhân đạo, Luật Nhân đạo quốc tế (LNĐQT) được xây dựng nhằm hạn chế các tác động của chiến tranh. Trong đó, các chế định về phạm vi áp dụng có ý nghĩa quan trọng đối với việc áp dụng các quy định của LNĐQT. Phạm vi áp dụng của LNĐQT có thể được tìm thấy trong Điều 2(1) chung của bốn Công ước Geneva 1949.[1] Theo đó, các quy định của Công ước phải được áp dụng trong những trường hợp mà chiến tranh xảy ra do có tuyên chiến, dù được thể hiện qua các hành động thù địch hay bằng một tuyên bố chính thức.[2] Bên cạnh đó, sự chiếm đóng một phần hay toàn bộ lãnh thổ của một Bên ký kết cũng thuộc phạm vi áp dụng của LNĐQT, bất kể có sự kháng cự bằng vũ trang hay không.[3] Các quy định của LNĐQT cũng cần được tuân thủ bởi các Bên ký kết, kể cả khi một Bên trong xung đột vũ trang không phải thành viên của Công ước Geneva 1949. Ngoài ra, bên đó sẽ bị ràng buộc bởi Công ước khi họ chấp nhận và áp dụng các điều khoản trong Công ước.[4] Các điều khoản của Công ước có thể được áp dụng mà không cần thiết phải có sự công nhận tình trạng chiến tranh của các Bên ký kết.[5] Bên ngoài các cuộc xung đột vũ trang, các quy định khác của LNĐQT như các hiệp ước về cấm phát triển, tàng trữ, sản phẩm và bán một số loại vũ khí nhất định vẫn ràng buộc các quốc gia thành viên thực hiện nghĩa vụ của mình.[6] Như vậy, có thể thấy, phạm vi áp dụng của LNĐQT là rất rộng; LNĐQT được áp dụng với mọi xung đột vũ trang bất kể hình thức tuyên chiến, công nhận hay mức độ chiếm đóng. Đối với các trường hợp chưa đạt đến ngưỡng xung đột vũ trang, ví dụ như việc sử dụng vũ lực đối với các nhóm và các nhóm thuộc thẩm quyền một chính phủ, các quy định của LNĐQT sẽ không được áp dụng mà các quy định của luật nhân quyền quốc tế sẽ điều chỉnh các vấn đề trên.[7] Các Công ước Geneva 1949 và các Nghị định thư bổ sung không có định nghĩa cụ thể về “xung đột vũ trang”.[8] Vì thế, thực tiễn quốc gia và ý kiến học giả có vai trò quan trọng khi xác định ý nghĩa pháp lý và nội dung của khái niệm này.[9] Dù vậy, LNĐQT phân biệt hai loại xung đột vũ trang là xu đột vũ trang quốc tế (IAC) giữa hai hay nhiều quốc gia và xung đột vũ trang không mang tính quốc tế (NIAC) giữa lực lượng chính phủ và các lực lượng phi chính phủ hay giữa những lực lượng đó. 1. Xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế (IAC) Sự tồn tại của IAC được xác định dựa vào tư cách pháp lý của các bên xung đột và bản chất xung đột giữa các bên này.[11] Điều 1(4) Nghị định thư bổ sung về bảo hộ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang quốc tế (Nghị định thư I) quy định LNĐQT không chỉ áp dụng với các quốc gia mà còn áp dụng với các dân tộc đấu tranh chống lại sự đô hộ của thực dân, sự chiếm đóng của nước ngoài và các chế độ phân biệt chủng tộc nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết.[12] Như vậy, các chủ thể trên vẫn có tư cách pháp lý là chủ thể của luật quốc tế và có thể được xem là “Bên ký kết” trong IAC nhằm áp dụng các quy định của LNĐQT. Mặc dù ít được đề cập trong các án lệ và công trình của học giả, một ý định gây chiến có thể ngầm hiểu là điều kiện cần để một IAC xảy ra.[13] Như thế, các hành vi không ngầm mang ý định gây chiến như hành vi gây hại vô ý hay việc sử dụng vũ lực của các cá nhân ngoài sự cho phép của quốc gia họ đại diện mà có khả năng quy kết trách nhiệm quốc gia không thể dẫn đến một IAC. Phạm vi áp dụng của LNĐQT đối với IAC rất rộng và vì thế, một IAC tồn tại còn phụ thuộc vào thực tế của tình huống xung đột.[14] Một số trường hợp IAC được xác định là hành động sử dụng vũ lực chống lại một quốc gia khác, đối với lực lượng vũ trang hay dân thường và/hoặc mục tiêu dân sự của quốc gia thù địch.[15] Hiện nay, do bản chất của IAC có thể thay đổi nhanh chóng nên sẽ có nhiều khó khăn khi xác định sự tồn tại của một IAC.[16] Một số ví dụ dẫn đến sự thay đổi của IAC là sự tham gia của các lực lượng đa quốc gia hay tấn công mạng.[17] Ngoài ra, vấn đề liệu hành động vũ lực đối với một nhóm vũ trang phi chính phủ trên lãnh thổ của quốc gia khác có dẫn đến IAC và áp dụng LNĐQT hay không vẫn là vấn đề gây tranh cãi.[18] 2. Xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế (NIAC) Xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế (NIAC) được đề cập trong Điều 3 chung của các Công ước Geneva mà không có định nghĩa cụ thể. Theo đó, NIAC là một xung đột vũ trang “không mang tính chất quốc tế” và “xảy ra trên lãnh thổ của một Bên ký kết”.[19] Như vậy, xung đột giữa lực lượng vũ trang của một quốc gia với các nhóm vũ trang phi nhà nước hay giữa các nhóm đó với nhau đều được xem là NIAC.[20] Ngày nay, khi các Công ước Geneva đã được phê chuẩn trên phạm vi gần như toàn cầu (196 quốc gia thành viên), điều kiện về lãnh thổ ít có ý nghĩa hơn.[21] Ngoài ra, Điều 3 chung cũng không đặt ra điều kiện cần phải có sự công nhận tình trạng tham chiến hay sự ủng hộ, kiểm soát lãnh thổ hay động cơ chính trị để được xem là một bên xung đột của NIAC.[22] Điều 1(1) Nghị định thư bổ sung về tăng cường việc bảo hộ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế (Nghị định thư II) đã mô tả chi tiết các điều kiện áp dụng đối với NIAC. một NIAC tồn tại khi: (i) xung đột vũ trang diễn ra trên lãnh thổ một Bên ký kết; (ii) xung đột vũ trang giữa lực lượng vũ trang của Bên ký kết và các nhóm vũ trang ly khai hay với các nhóm vũ trang có tổ chức khác; (iii) các nhóm vũ trang phải có: (a) sự chỉ huy trách nhiệm và (b) sự kiểm soát đối với một phần lãnh thổ nhằm tiến hành các hoạt động quân sự phối hợp và thường xuyên và áp dụng Nghị định thư này.[23] Khác với IAC, NIAC được xác định bởi các tiêu chí cụ thể và khách quan.[24] Bên cạnh đó, các trường hợp không phải xung đột vũ trang cũng được xác định, gồm các hỗn loạn và căng thẳng nội bộ, như là bạo loạn và hành vi bạo lực đơn lẻ và tự phát và các hành vi khác có tính chất tương tự.[25] Mặt khác, việc đặt ra các tiêu chuẩn quá cao đối với các nhóm vũ trang phi nhà nước có thể khiến các quy định của LNĐQT khó được áp dụng và từ đó làm giảm giá trị của LNĐQT. Nhìn chung, LNĐQT thừa nhận hai điều kiện để xác định một xung đột là NIAC: (i) việc sử dụng vũ lực phải đạt đến một cường độ nhất định; và (ii) các nhóm vũ trang phải có mức độ tổ chức nhất định.[26] Một số tiêu chí được sử dụng để xác định cường độ sử dụng vũ lực là số lượng, thời gian và tần suất các cuộc đối đầu, các loại vũ khí, mức độ thương vong, mức độ phá hủy, sự tham gia của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, v.v.[27] Một số tiêu chí được sử dụng để đánh giá mức độ tổ chức là hệ thống chỉ huy, cơ chế và quy định kỷ luật, việc tồn tại trụ sở, sự kiểm soát một phần lãnh thổ, khả năng tiếp cận nguồn vũ khí, trang bị quân sự, xây dựng quân đội, tiền hành chiến dịch quân sự, v.v.[28] Cũng như IAC, tính chất của NIAC cũng thay đổi theo tình hình thực tế. Khi một IAC liên quan đến một hành vi tấn công vào lãnh thổ bên ngoài mà có sự đồng thuận của quốc gia láng giềng, các cuộc tấn công đó được xem như là một phần của NIAC ban đầu.[29] Khi không có sự đồng thuận, các chiến dịch ở lãnh thổ nước ngoài có thể khiến một NIAC trở thành IAC.[30] Trong trường hợp có sự can thiệp của quốc gia bên ngoài đối với vùng lãnh thổ đặc biệt, IAC và NIAC có thể đồng thời diễn ra.[31] Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bất kỳ thắc mắc hay ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Điều 2(1) chung: “Ngoài những quy định phải được thi hành ngày trong thời bình, Công ước này sẽ được áp dụng trong mọi trường hợp chiến tranh có tuyên chiến, hoặc bất kỳ xung đột vũ trang nào khác có thể nổ ra giữa hai hay nhiều Bên ký kết, cho dù một trong một trong các Bên đó không công nhận tình trạng chiến tranh; [...]”. [2], [15] Jean-Marie Henckaerts et al. (eds), Commentary on the First Geneva Convention: Convention (I) for the Amelioration of the Condition of the Wounded and the Sick in Armed Forces in the Field, 2016 , Art. 2, para. 204 ( Hereinafter “ICRC Commentary on the First Geneva Convention'' ) in Phạm Lan Dung, Textbook on International Law , p 330. [3] Điều 2(1) chung: “[...] Công ước này được áp dụng đối với mọi trường hợp chiếm đóng một phần hay toàn bộ lãnh thổ của Bên ký kết, kể cả sự chiếm đóng đó không đối mặt với bất kỳ sự kháng cự bằng vũ trang nào [...].”. [4] Điều 2(1) chung: “[...] Mặc dù một trong các Bên xung đột không phải là thành viên của Công ước này, các Bên là thành viên của Công ước này vẫn sẽ bị ràng buộc bởi Công ước này trong mối quan hệ qua lại giữa họ. Các Bên đó cũng sẽ bị ràng buộc bởi Công ước trong mối quan hệ với Bên xung đột không phải là thành viên, nếu như Bên này chấp nhận và áp dụng các điều, khoản trong Công ước này.”. [5], [6], [7], [9], [11], [20], [24], [27], [29], [30] Nils Melzer, Etienne Kuster, A Comprehensive Introduction to International Humanitarian Law . [8]. Kkienerm, ‘Counter-Terrorism Module 6 Key Issues: Categorization of Armed Conflict’ ( United Nations Office on Drugs and Crime , July 2018), < https://www.unodc.org/e4j/zh/terrorism/module-6/key-issues/categorization-of-armed-conflict.html > truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2023. [10] ‘How Is the Term “Armed Conflict” Defined in International Humanitarian Law?’ ( ICRC , 17 March 2008), < https://www.icrc.org/en/doc/resources/documents/article/other/armed-conflict-article-170308.htm#:~:text=International%20humanitarian%20law%20distinguishes%20two,or%20between%20such%20groups%20only > truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2023. [12] Điều 1(4) Nghị định thư I. [13], [21], [22], [31] Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế, tr 332. [14] ICTY, The Prosecutor v. Fatmir Limaj et al. , Trial Chamber II (Judgment), 30 November. [16], [17] ICRC Commentary on First Geneva Convention paras. 245-256, in Pham Lan Dung, Textbook on International Law p 333. [18] Marco Sassòli, International Humanitarian Law: Rules, controversies, and solutions to problem arising in warfare (Edward Elgar Publishing Limited 2019), p 171 in Pham Lan Dung, Textbook on International Law, p 334. [19] Điều 3 chung: “Trong trường hợp một cuộc xung đột vũ trang không có tính chất quốc tế xảy ra trên lãnh thổ của một Bên ký kết, các Bên xung đột bị ràng buộc phải áp dụng, như là cấp độ tối thiểu, các điều khoản, sau đấy [...]”. [23] Điều 1(1) Nghị định thư II: “Nghị định thư này [...] áp dụng đối với các cuộc xung đột vũ trang [...] diễn ra trong lãnh thổ của một Bên ký kết giữa lực lượng vũ trang ly khai hoặc các nhóm vũ trang có tổ chức khác dưới sự chỉ huy có trách nhiệm, thực hiện được việc kiểm soát một phần lãnh thổ đủ để cho phép các nhóm này tiến hành các hoạt động quân sự thường xuyên và có tính phối hợp và để thực thi Nghị định thư này [...].”. [25] Điều 1(1) Nghị định thư II: “[...] Nghị định thư này sẽ không được áp dụng đối với các trường hợp hỗn loạn hay căng thẳng nội bộ, như là bạo loạn, các hành vi bạo lực đơn lẻ và tự phát và các hành vi khác có tính chất tương tự, vì không phải là xung đột vũ trang.”. [26] The Prosecutor v. Dusko Tadic , (Judgement) [1997] ICTY IT-94-1-T paras. 561-568; The Prosecutor v. Fatmir Limaj , (Judgement) [2005] ICTY IT-03-66-T, para. 84; Marco Sassòli, xem chú thích số 20, tr 181; Nils Melzer, Etienne Kuster, xem chú thích số 5, tr 69; ICRC, xem chú thích số 10 trong Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế , tr 334. [28] ICTY, The Prosecutor v. Ramush Haradinaj et al. , Trial Chamber I (Judgment), Case No. IT-04-84-T, 3 April 2008, para. 60. See also ICRC, Opinion Paper, op. cit. (note 70), p. 3 in Nils Melzer, Etienne Kuster, supra note 5, p 69.

  • [11] NGUỒN VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ

    Tác giả: Nguyễn Quỳnh Diệp, Lương Vũ Khánh Ly Luật Nhân đạo Quốc tế là một ngành luật thuộc Công pháp Quốc tế, được ra đời với mục đích hạn chế những tác động khủng khiếp của các cuộc xung đột vũ trang. Đồng thời, ngành luật này còn đề ra trách nhiệm của các quốc gia và các nhóm vũ trang phi quốc gia trong một cuộc xung đột vũ trang. Bài viết sau đây sẽ giới thiệu về nguồn và các nguyên tắc cơ bản của Luật Nhân đạo Quốc tế. I. Nguồn của Luật Nhân đạo Quốc tế 1. Điều ước quốc tế a. Công ước Geneva (I) về Cải thiện điều kiện của Thương binh, Bệnh binh thuộc lực lượng vũ trang trên bộ Công ước Geneva I đại diện cho bốn Công ước Geneva về Thương binh và Bệnh binh. Công ước được ký kết vào năm 1864, sửa đổi vào năm 1906 và chính thức thông qua vào năm 1949. Công ước bao gồm 39 điều về việc bảo vệ thương binh, bệnh binh cũng như các nhân viên y tế và tôn giáo, các đơn vị y tế và phương tiện vận chuyển y tế. Ngoài ra, văn kiện này còn bao gồm hai Phụ lục về Khu vực Bệnh viện và Quy định Minh chứng (“model regulations”) cho nhân viên y tế và tôn giáo. b. Công ước Geneva (II) về Cải thiện điều kiện của Thương binh, Bệnh binh và Những người bị đắm tàu thuộc lực lượng vũ trang trên biển Công ước Geneva II là văn kiện thay thế cho Công ước Hague 1907 về Thích ứng với Chiến tranh Hàng hải dựa trên các Nguyên tắc của Công ước Geneva I và được thông qua vào năm 1949. Công ước Geneva II theo sát các quy định của Công ước Geneva I về mặt nội dung và cấu trúc. Nội dung của Công ước bao gồm các quy định về chiến tranh trên biển, bao gồm 63 điều và một Phụ lục về minh chứng cho nhân viên y tế và tôn giáo. c. Công ước Geneva (III) về Đối xử với Tù binh trong Chiến tranh Công ước Geneva III là văn kiện thay thế cho Công ước về Tù binh Chiến tranh năm 1929,[1] và được thông qua vào năm 1949. Công ước bao gồm 143 điều và năm phụ lục. Công ước Geneva III đã mở rộng phạm vi quy chế về tù binh chiến tranh phù hợp với Công ước Geneva I và Công ước Geneva II. Các quy định này được thể hiện chính xác hơn, đặc biệt là về vấn đề lao động của tù binh chiến tranh, nguồn tài chính và việc bảo vệ tù binh chiến tranh. Công ước thiết lập nguyên tắc rằng các tù binh chiến tranh sẽ được trả tự do và hồi hương ngay lập tức sau khi chấm dứt các hoạt động chiến sự. d. Công ước Geneva (IV) về Bảo hộ Dân thường trong Chiến tranh Công ước Geneva IV quy định các vấn đề liên quan đến lực lượng tham chiến và được thông qua trước năm 1949 trong bối cảnh Chiến tranh Thế giới thứ hai. Công ước bao gồm 159 điều và ba Phụ lục về mẫu thỏa thuận cơ sở chữa bệnh và vùng an toàn, quy chế mẫu về cứu trợ nhân đạo và mẫu thẻ. Phần lớn Công ước đề cập đến tình trạng và cách đối xử với các những người được bảo vệ, phân biệt giữa hoàn cảnh của người nước ngoài trên lãnh thổ của một trong các bên xung đột và thường dân trên lãnh thổ bị chiếm đóng, trong đó, nêu rõ các nghĩa vụ của Quốc gia chiếm đóng đối với dân thường và có các điều khoản chi tiết về cứu trợ nhân đạo cho dân cư trên lãnh thổ bị chiếm đóng. e. Nghị định thư bổ sung về Bảo vệ Nạn nhân của các xung đột vũ trang Nghị định thư I được thông qua vào năm 1977. Nghị định thư I bổ sung định nghĩa về xung đột vũ trang quốc tế (“International Armed Conflict” sau đây gọi là “IAC”), phát triển những quy định của Công ước Geneva I và Công ước Geneva II và một số nội dung khác. f. Nghị định thư bổ sung về Bảo vệ Nạn nhân của các xung đột vũ trang phi quốc tế Nghị định thư II được thông qua vào năm 1977. Nghị định thư II đã phát triển và bổ sung cho Điều 3 chung của bốn Công ước Geneva, và là những quy định duy nhất của Luật Nhân đạo Quốc tế áp dụng với xung đột vũ trang phi quốc tế (“Non-international armed conflict” sau đây gọi là “NIAC”). g. Nghị định thư bổ sung liên quan đến việc thông qua một biểu tượng đặc biệt bổ sung Nghị định thư III được thông qua vào năm 2005. Nghị định thư III bao gồm những quy định mới về biểu tượng chữ thập đỏ, đồng thời văn kiện này cho phép sử dụng biểu tượng chữ thập đỏ như một phương tiện bảo vệ (“protective device”) và như một thiết bị chỉ thị với các biểu tượng được công nhận khác nhằm tăng cường bảo vệ các dịch vụ y tế của lực lượng vũ trang cũng như nhằm mục đích ngăn chặn sự phổ biến của các biểu tượng khác.[2] h. Tập quán quốc tế Sự phát triển vượt bậc của tập quán quốc tế trong Luật Nhân đạo Quốc tế được đánh dấu qua việc Tòa án Hình sự quốc tế Nam Tư Cũ (“ICTY”) đã áp dụng tập quán và đưa ra phán quyết khẳng định tập quán quốc tế đối với xung đột IAC và NIAC.[3] Việc soạn thảo và tổng hợp các tập quán Luật Nhân đạo Quốc tế đã được bắt đầu với sự ra đời của bản dự thảo của Tiến sĩ Francis Lieber trong Bản hướng dẫn cho Chính phủ Quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường.[4] Văn bản này được Tổng thống Lincoln ban hành dưới dạng Sắc lệnh chung số 100 (Decree No.100) vào năm 1863 trong Cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.[5] Với số lượng gồm 161 nguyên tắc tập quán Luật Nhân đạo Quốc tế áp dụng cho cả IAC và NIAC.[6] Tập quán Luật Nhân đạo Quốc tế cũng được hình thành từ thực tiễn chung (state practice) được chấp nhận như là luật ( opinio juris ), xác định trong các báo cáo của Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế (“ICRC”).[7] Tập quán Luật Nhân đạo Quốc tế có tính ràng buộc đối với tất cả các chủ thể của luật quốc tế. Theo đó, các tập quán Luật Nhân đạo Quốc tế có thể kể tên như: nguyên tắc cấm sử dụng vũ khí sinh học,[8] nguyên tắc cấm sử dụng đạn nổ trong cơ thể con người để chống lại con người,[9] và nguyên tắc cấm các hành vi hoặc đe dọa bạo lực nhằm rắc nỗi kinh hoàng trong dân chúng.[10] 2. Các nguyên tắc pháp luật chung a. Yêu cầu cơ bản về nhân đạo Yêu cầu cơ bản về nhân đạo được phản ánh trong Điều 3 chung của bốn Công ước Geneva. Các Yêu cầu cơ bản tạo thành các “tiêu chuẩn tối thiểu” (“minimum yardstick”) được áp dụng cho tất cả các xung đột vũ trang,[11] và được thừa nhận là nguyên tắc pháp luật chung của Luật Nhân đạo Quốc tế.[12] Các Yêu cầu cơ bản về nhân đạo đã xuất hiện trong một số án lệ Luật Nhân đạo Quốc tế nổi tiếng. Ví dụ, trong Vụ Prosecutor v. Dusko Tadic aka "Dule" (1995), ICTY cho rằng hành vi sử dụng vũ khí của quốc gia bị cấm trong xung đột vũ trang nhưng được cho phép khi quốc gia đó đàn áp các cuộc nổi loạn xảy ra trên lãnh thổ của Quốc gia đó, và thông qua người của quốc gia đó, được thể hiện qua các Yêu cầu cơ bản về nhân đạo và lẽ thông thường.[13] b. Điều khoản Martens Điều khoản Martens được đặt theo tên của Fyodor Fyodorovich Martens, người đã đưa ra điều khoản này lần đầu tiên trong Lời nói đầu của Công ước Hague năm 1899.[14] Mặc dù có nhiều cách diễn giải khác nhau, Điều khoản Martens được hiểu rằng nếu một hành vi không bị cấm một cách rõ ràng thì hành vi này không được tự động cho phép trên thực tế. Cách hiểu rộng nhất của Điều khoản Martens là hành vi trong xung đột vũ trang không chỉ được xét xử theo các hiệp ước và tập quán mà còn theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế.[15] 3. Nguồn bổ trợ a. Án lệ Án lệ được sử dụng như một loại nguồn bổ trợ phổ biến trong Luật Nhân đạo Quốc tế. Theo đó, các án lệ có vai trò giải thích, và thường được công bố bởi các tòa hình sự quốc tế, ví dụ như Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), Tòa ICTY. b. Học thuyết của các học giả nổi tiếng Học thuyết của các học giả nổi tiếng được sử dụng như một loại nguồn bổ trợ phổ biến trong Luật Nhân đạo Quốc tế. Một số ấn phẩm nổi tiếng có thể kể tên như cuốn “Sổ tay Luật Nhân đạo Quốc tế” ("The Handbook of International Humanitarian Law") viết bởi Dieter Fleck, cuốn “Luật Nhân đạo Quốc tế: Quy tắc, Tranh cãi và Giải pháp cho các Vấn đề Phát sinh trong Chiến tranh" (“International Humanitarian Law: Rules, Controversies, and Solutions to Problems Arising in Warfare”) của Marco Sassòli và Antoine A. Bouvier. c. Luật mềm Luật mềm tuy không có giá trị ràng buộc nhưng lại được coi là nguồn giải thích có giá trị trong Luật Nhân đạo Quốc tế. Luật mềm bao gồm các hướng dẫn, bình luận của các tổ chức quốc tế có chuyên môn về Luật Nhân đạo Quốc tế, bình luận chung của ICRC. Một số văn kiện được coi là luật mềm trong Luật Nhân đạo Quốc tế như Bộ quy tắc ứng xử của Liên hợp quốc dành cho các quan chức thực thi pháp luật 1979 (“CCLEO”) và Các nguyên tắc cơ bản về Việc sử dụng vũ lực và vũ khí của các quan chức thực thi pháp luật 1990 (“BPUFF”). II. Các nguyên tắc cơ bản của Luật Nhân đạo Quốc tế 1. Nguyên tắc phân biệt Theo Điều 48 Nghị định thư bổ sung I, các bên tham gia xung đột chỉ được tấn công trực tiếp vào các mục tiêu quân sự,[16] được xác định là những mục tiêu có đóng góp hiệu quả cho hành động quân sự và việc phá hủy hoặc vô hiệu hóa mục tiêu đó mang lại lợi thế quân sự nhất định. Các cuộc tấn công vào bất kỳ mục tiêu nào, ngoài các mục tiêu kể trên, đều trái với Luật Nhân đạo Quốc tế. 2. Nguyên tắc tương xứng Điều 51(5)(b) Nghị định thư bổ sung I chứa đựng quy định cấm các cuộc tấn công có khả năng gây thương vong ngẫu nhiên cho dân thường, thiệt hại cho các mục tiêu dân sự, hoặc cả hai tới mức vượt quá lợi thế quân sự trực tiếp và cụ thể đã được dự tính.[17] Nguyên tắc này nhằm giảm thiểu tác hại gây ra cho thường dân và các đối tượng dân sự trong xung đột vũ trang. Do không được quy định cụ thể trong Luật Nhân đạo Quốc tế, việc xác định tính tương xứng khi tấn công vẫn gặp nhiều thách thức trên thực tế khi người tấn công phải đánh giá tính tương xứng trước khi thực hiện tấn công, trong khi đó, thiệt hại của tấn công lại chỉ được biết sau khi tấn công xảy ra.[18] 3. Nguyên tắc nhân đạo Nguyên tắc nhân đạo là một nền tảng cho luật nhân đạo quốc tế. Nguyên tắc này bảo vệ các chiến binh đã hạ vũ khí, bị loại khỏi cuộc chiến vì ốm đau, vết thương và những dân thường không tham gia vào cuộc chiến bằng cách quy định rằng họ phải luôn được đối xử nhân đạo mà không bị phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, tôn giáo hoặc đức tin, giới tính, dòng dõi hoặc sự giàu có hoặc bất kỳ tiêu chí tương tự nào khác.[19] 4. Nguyên tắc cần thiết quân sự Nguyên tắc về sự cần thiết quân sự chỉ cho phép sử dụng lực lượng cần thiết để đạt được mục tiêu hợp pháp của một cuộc xung đột. Điều 35 Nghị định Thư bổ sung I nghiêm cấm việc sử dụng vũ khí, đạn dược, vật liệu và phương pháp chiến tranh gây thương tích quá mức hoặc gây ra đau khổ không cần thiết, cũng như các phương pháp hoặc phương tiện chiến tranh có mục đích hoặc có thể gây ra thiệt hại rộng rãi, lâu dài và nghiêm trọng cho môi trường tự nhiên. 5. Nguyên tắc cẩn trọng Nguyên tắc cẩn trọng đề ra quy tắc dù cuộc tấn công có nhằm vào mục tiêu quân sự và đảm bảo tính tương xứng, các bên vẫn có nghĩa vụ cẩn trọng để tránh và giảm thiểu thiệt hại đối với dân thường và các mục tiêu dân sự.[20] Nguyên tắc cẩn trọng cần được áp dụng độc lập với nguyên tắc tương xứng, nghĩa là, kể cả khi những tổn thất có thể xảy ra không vượt quá mức so với lợi thế quân sự dự kiến đạt được thì các bên vẫn có nghĩa vụ lựa chọn phương tiện và phương thức chiến tranh nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại đối với dân thường.[21] Nghĩa vụ này đặt ra nghĩa vụ cho cả hai bên tham chiến. Bên tấn công có nghĩa vụ chính là đảm bảo đã thực hiện mọi biện pháp khả thi để phân biệt mục tiêu dân sự và mục tiêu quân sự. Còn bên bị tấn công có nghĩa vụ chính là nỗ lực di dời dân thường và các mục tiêu dân sự ra khỏi khu vực lân cận của mục tiêu quân sự. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bất kỳ thắc mắc hay ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] ICRC, ‘Convention relative to the Treatment of Prisoners of War. Geneva, 27/07/192 truy cập ngày 20/05/2023. [2] ICRC, ‘Protocol additional to the Geneva Conventions of 12 August 1949, and relating to the Adoption of an Additional Distinctive Emblem (Protocol III), 8 December 2005’ truy cập ngày 20/05/2023. [3] [18] Marco Sassòli,’ International Humanitarian Law: Rules, controversies, and solutions to problems arising in warfare’ (Edward Elgar Publishing Limited, 2019), p.46, p.362. [4] The Instructions for the government of armies of the United States in the field 1863 (USA). [5] Jean-Marie Henckaerts and others, ‘Customary International Humanitarian Law’, Vol. 1 (Cambridge University Press, 2005) xxxi. [6] [21] Nils Melzer, ‘International Humanitarian Law : A Comprehensive Introduction’ (ICRC Publications 2019), p.17, p.120. [7] Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế, Điều 38(1)(b). [8] Jean-Marie Henckaerts and others, ‘Customary International Humanitarian Law’, Vol. 1 (Cambridge University Press 2005) 256 - 258. [9] Như trên 272 - 274. [10] Như trên 8 - 11. [11] Case concerning Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua v. United States) [1986] ICJ Rep 114 § 218. [12] Corfu Channel (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland v. Albania) [1949] ICJ Rep 4 § 22. [13] The Prosecutor v. Dusko Tadíc aka “Dule” [1995], ICTY § 119. [14] Pustogarov V, ‘Fyodor Fyodorovich Martens (1845–1909) a Humanist of Modern Times’ (1996) International Review of the Red Cross (1961 - 1997), 300-314. [15] Pilloud C and others, ‘Commentary on the Additional Protocols of 8 June 1977’ (Nijhoff; Lancaster 1987), 39; N.Singh and E. McWhinney, ‘Nuclear Weapons and Contemporary International Law’ (2nd ed., Nijhoff, 1989) 46-47. [16][19][20] Nghị định thư bổ sung I liên quan đến việc bảo vệ các nạn nhân dân sự của chiến tranh quốc tế, 12/08/1949, Điều 48, Điều 3(1), Điều 57. [17] Luật Tập quán Nhân đạo Quốc tế, Quy tắc số 14 < https://ihl-databases.icrc.org/en/customary-ihl > truy cập ngày 15/05/2023.

  • [4] KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN ƯU ĐÃI, MIỄN TRỪ NGOẠI GIAO VÀ LÃNH SỰ

    Tác giả: Nguyễn Khánh Linh, Tăng Bảo Đan Các cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự và các thành viên của cơ quan là những yếu tố rất quan trọng trong quan hệ quốc tế, bởi họ là đại diện về nhiều khía cạnh chính trị, văn hóa, kinh tế, hình ảnh của một quốc gia trên lãnh thổ một quốc gia khác. Chính vì vai trò đặc biệt này, các cơ quan và thành viên ngoại giao, lãnh sự nhận được một số ưu đãi hay miễn trừ đặc biệt trong luật pháp quốc tế nhằm bảo đảm nhiệm vụ của họ được thực hiện một cách tốt nhất. 1. Định nghĩa về quyền ưu đãi miễn trừ Quyền ưu đãi miễn trừ là tổng hợp các ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự và thành viên của cơ quan đó.[1] Mục đích ra đời của các ưu đãi miễn trừ này là nhằm bảo đảm các cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự và viên chức ngoại giao, lãnh sự có thể thực hiện tốt chức năng của mình.[2] Sâu xa hơn, điều này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng chủ quyền trong luật pháp quốc tế, khi các ưu đãi miễn trừ đặc biệt cho các viên chức ngoại giao trên là hệ quả của các miễn trừ liên quan chủ quyền và quyền độc lập, bình đẳng của các quốc gia - họ đại diện cho quốc gia trên nhiều mặt.[3] Hơn nữa, chính vì vai trò đặc biệt này mà việc họ nhận được những đặc quyền là thiết thực.[4] Cốt lõi của quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao và lãnh sự là sự cần thiết của việc cho phép thực hiện chức năng ngoại giao và chức năng lãnh sự một cách tự do, không bị cản trở và duy trì sự tôn trọng giá trị truyền thống lâu đời trong ứng xử ngoại giao quốc tế.[5] 2. Đối tượng và hiệu lực Ba đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao gồm: (1) cơ quan đại diện ngoại giao, (2) cơ quan lãnh sự và (3) thành viên của cơ quan.[6] Quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao, lãnh sự bắt đầu có hiệu lực lên cơ quan đó khi được thành lập theo hiệp định giữa hai nước và kết thúc khi cơ quan chấm dứt chức năng.[7] Đối với viên chức ngoại giao, quyền ưu đãi miễn trừ sẽ có hiệu lực khi họ nhập cảnh nước tiếp nhận để nhậm chức và kết thúc khi: (1) kết thúc nhiệm kỳ,[8] (2) nước cử thông báo từ bỏ quyền ưu đãi miễn trừ, (3) bị nước tiếp nhận tuyên bố “persona non grata” (người không được chào đón)[9] hoặc (4) họ qua đời. 3. Nội dung các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự. Quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự nằm trong phạm vi của Luật ngoại giao - lãnh sự, vì vậy, nguồn của các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự cũng nằm trong nguồn của Luật ngoại giao - lãnh sự. Trong lịch sử, những ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự đã được hình thành từ lâu trong lịch sử dưới dạng các hiệp ước, hiệp định, thỏa thuận viết giữa các bên. Ở thời điểm hiện tại, trong số các điều ước quốc tế chứa đựng quy phạm về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, nổi bật nhất là Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự.[10] 3.1 Quyền ưu đãi, miền trừ cho cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự a. Quyền được treo quốc kỳ, quốc huy Theo Điều 20 của Công ước Viên 1961, cơ quan đại diện ngoại giao và người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao có quyền treo cờ và quốc huy của nước cử đại diện ở trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao, kể cả nhà ở của người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao và trên các phương tiện giao thông của người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao. Theo Điều 29 của Công ước Viên 1963, cơ quan lãnh sự sẽ được treo quốc kỳ tại trụ sở, nhà riêng của người đứng đầu cơ quan lãnh sự và trên phương tiện giao thông của người đứng đầu đó, chỉ khi được dùng vào công việc chính thức (official business) thay vì mọi lúc. Việc thực hiện quyền này cũng cần phải xét đến pháp luật, quy định và tập quán của nước tiếp nhận. Một ví dụ có thể kể đến là Rhodesia (trước đây là Nam Rhodesia, hiện nay là Zimbabwe) khi treo quốc kỳ mới sau độc lập tại cơ quan đại diện ngoại giao của nước này tại London. Sau nhiều năm đàm phán không có kết quả về vấn đề độc lập, vào lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 năm 1965, Thủ tướng Rhodesian là Ian Smith và Nội các của ông đã ký Tuyên ngôn Độc lập khỏi Quốc hội Anh, trong khi vẫn giữ sự tôn kính với chế độ quân chủ lúc bấy giờ, đại diện là Nữ hoàng Rhodesia.[11] Theo sau sự kiện độc lập, vào năm 1968, Rhodesia đã thay thế quốc kỳ cũ có Cờ hiệu Anh màu xanh lam nhạt và chiếc khiên có hình Vũ khí của Nam Rhodesia, với một lá cờ hai màu xanh lá cây và trắng của Rhodesia độc lập.[12] Điều này đã khiến Nội các Anh phật ý và có mong muốn được gỡ quốc kỳ này và yêu cầu Rhodesia hoàn nguyên quốc kỳ cũ tại trụ sở. Tuy nhiên, Rhodesia có quyền miễn trừ ngoại giao và lá cờ không vi phạm luật. Quốc kỳ này chỉ có thể bị gỡ xuống nếu có thể chứng minh được rằng "có một sự e ngại hợp lý về việc vi phạm hòa bình mà không thể ngăn chặn bằng các biện pháp khác."[13] b. Quyền bất khả xâm phạm về trụ sở Theo Điều 1 của Công ước Viên 1961, trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao (premises of the mission) là những Tòa nhà hoặc bộ phận của Tòa nhà và đất đai thuộc nhà đó được dùng vào các mục đích của cơ quan, trong đó bao gồm cả nhà ở của trưởng đoàn (người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao), bất kể ai là chủ sở hữu. Theo đó, tại Điều 22 của Công ước Viên 1961, quyền này được quy định với ba nội dung chính: (i) Trụ sở là bất khả xâm phạm (inviolable) và chính quyền nước sở tại không thể vào trừ khi có sự đồng ý của trưởng đoàn, (ii) nghĩa vụ của nước sở tại - phải thi hành mọi biện pháp thích đáng để bảo vệ trụ sở, và (iii) các nội thất, đồ đạc, tài sản và phương tiện đi lại của cơ quan đại diện được miễn trừ khỏi việc bị khám xét, trưng dụng, tịch biên hoặc thi hành án. Theo Điều 31 của Công ước Viên 1963, nội dung của quyền miễn trừ của trụ sở bao gồm (i) chính quyền nước sở tại không được vào trụ sở nếu không có sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan lãnh sự, song có thể vào trong các trường hợp đặc biệt như hỏa hoạn hay tai nạn khẩn cấp để bảo vệ kịp thời, (ii) nghĩa vụ thi hành mọi biện pháp thích đáng để bảo vệ cơ quan lãnh sự, (iii) trụ sở cơ quan, đồ đạc, tài sản và phương tiện giao thông có thể bị trưng dụng vì mục đích quốc phòng hay công cộng. Đặc biệt, quyền bất khả xâm phạm về trụ sở không áp dụng cho nhà riêng của người đứng đầu cơ quan lãnh sự. Phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) về vụ kiện giữa Pháp và Guinea Xích đạo có thể được coi là phép thử đối với các giới hạn của việc áp dụng Điều 22 của Công ước Viên 1961. Vụ việc liên quan đến việc Pháp khám xét biệt phủ trên đường 42 avenue Foch, căn nhà mà thuộc về Teodorin Obiang - con trai của người cầm quyền Guinea Xích Đạo. Khi Guinea Xích đạo cho rằng căn nhà được hưởng quyền miễn trừ của trụ sở và nhấn mạnh rằng căn nhà dành riêng cho hoạt động ngoại giao và thỏa mãn định nghĩa của một trụ sở (premise).[14] Tuy nhiên, Pháp cho rằng nước sở tại đã luôn công nhận trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao ở một địa chỉ khác và luôn phản đối việc lạm dụng quyền lực và áp dụng quyền miễn trừ đối với tmột người (national) không hoạt động ngoại giao.[15] Theo đó, phán quyết của ICJ nghiêng về Pháp và nhấn mạnh rằng trụ sở phải được dùng vào các mục đích của cơ quan đại diện ngoại giao.[16] c. Quyền bất khả xâm phạm về hồ sơ lưu trữ và tài liệu Theo Điều 24 của Công ước Viên 1961, hồ sơ lưu trữ và tài liệu của cơ quan đại diện ngoại giao là bất khả xâm phạm bất cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Dù hồ sơ không được định nghĩa tại Công ước Viên 1961, song khi đối chiếu cùng với Điều 1(k) của văn kiện này, hồ sơ lãnh sự hoặc/và hồ sơ của cơ quan đại diện ngoại giao bao gồm các loại giấy tờ, tài liệu, thư tín, sách, phim, băng ghi âm, sổ sách, mất mã, phiếu chỉ dẫn cùng các đồ đạc giữ các thứ đó. Theo Điều 33 của Công ước Viên 1963 quy định rằng hồ sơ và tài liệu lãnh sự, thư từ chính thức của cơ quan lãnh sự cũng được hưởng quyền bất khả xâm phạm tương tự. d. Quyền tự do thông tin, liên lạc Quyền tự do thông tin liên lạc có vai trò quan trọng để cơ quan đại diện có thể thực hiện được các chức năng của mình, trong đó trực tiếp nhất là chức năng “tìm hiểu những phương tiện hợp pháp điều kiện và sự tiến triển của tình hình nước nhận và báo cáo tình hình đó cho Chính phủ nước cử đại diện”.[17] Theo đó, thư từ chính thức (official correspondence) và túi ngoại giao (diplomatic bag) là bất khả xâm phạm.[18] Túi ngoại giao cần phải bao gồm các gói (packages) bên ngoài thể hiện rõ ràng về tính chất của chúng (dấu) và chỉ có thể chứa các tài liệu ngoại giao hoặc vật phẩm dành cho mục đích sử dụng chính thức.[19] Giao thông viên ngoại giao mang túi ngoại giao, khi làm nhiệm vụ, được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể và không bị bắt, bị giam giữ dưới bất kỳ hình thức nào.[20] e. Quyền được miễn thuế, lệ phí và thuế quan Nước cử đại diện và người đứng đầu của cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự được miễn tất cả các thứ thuế và lệ phí của Nhà nước tiếp nhận, của địa phương hoặc của thành phố đánh vào nhà cửa của cơ quan đại diện ngoại giao mà họ là chủ nhà, hay là người thuê, trừ các thứ thuế hoặc lệ phí để trả công những công việc phục vụ cụ thể.[21] Tuy nhiên, việc miễn thuế nêu tại điều này không áp dụng đối với các loại phí và thuế phải nộp theo pháp luật của Nước tiếp nhận bởi những người ký hợp đồng với Nước cử hoặc người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao/cơ quan lãnh sự.[22] Đối với quyền được miễn thuế quan, nước tiếp nhận quy định việc được nhập khẩu và miễn thuế nhập khẩu, cũng như thuế và lệ phí liên quan khác, trừ phí lưu kho, cước vận chuyển và cước phí về những dịch vụ tương tự, đối với đồ vật dùng vào công việc chính thức của cơ quan đại diện ngoại giao/cơ quan lãnh sự.[23] 3.2 Quyền ưu đãi, miền trừ cho cá nhân là thành viên cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự a. Các quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự Đối với viên chức ngoại giao, Điều 1 của Công ước Viên 1963 quy định viên chức ngoại giao bao gồm những thành viên phái đoàn ngoại giao (members of the mission), cụ thể bao gồm: Trưởng phái đoàn (head of mission) và nhân viên phái đoàn ngoại giao (the members of the staff of the mission). Bên cạnh đó, những người cùng sống chung một hộ với viên chức ngoại giao và không phải là công dân nước tiếp nhận hoặc người thường trú tại nước tiếp nhận cũng được hưởng các quyền ưu đãi miễn trừ như viên chức ngoại giao.[24] Về viên chức lãnh sự, Điều 1 Công ước Viên 1963 quy định về viên chức lãnh sự (consular officer) bao gồm trưởng cơ quan lãnh sự (head of consular post) và những người khác có quyền thực thi chức năng lãnh sự. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc mang hộ chiếu ngoại giao không đồng nghĩa là cá nhân đó có thể hưởng quyền miễn trừ ngoại giao, lãnh sự, bởi vì họ không nằm trong các phái đoàn ngoại giao.[25] Theo đó, các viên chức ngoại giao có các quyền ưu đãi, miễn trừ rộng hơn các viên chức lãnh sự. Dù viên chức ngoại giao và viên chức lãnh sự đều có quyền bất khả xâm phạm thân thể,[26] song viên chức lãnh sự có thể bị bắt hoặc bị giam giữ để chờ xét xử khi phạm trọng tội theo quyết định của cơ quan tư pháp có thẩm quyền của nước tiếp nhận.[27] Tương tự với quyền miễn trừ xét xử hình sự, dân sự, hành chính; khi viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ về hình sự, dân sự và hành chính, cũng như không có nghĩa vụ làm chứng; thì viên chức lãnh sự chỉ được hưởng quyền miễn trừ với các hành vi thi hành chức năng lãnh sự,[28] không được hưởng quyền miễn trừ vụ kiện dân sự về hợp đồng nếu được ký kết cá nhân hoặc kiện bồi thượng thiệt hại tai nạn giao thông.[29] Vào ngày 27 tháng 10 năm 1998, Tổng lãnh sự Mỹ Douglas Kent tại Vladivostok (Nga) đã liên quan đến một vụ tai nạn xe hơi khiến chàng trai trẻ Alexander Kashin bị tàn tật.[30] Tổng lãnh sự Kent không bị truy tố tại Nga vì có quyền miễn trừ hình sự, sau đó ông cũng không bị khởi kiện dân sự tại tòa án Hoa Kỳ. Mặc dù Công ước Viên 1963 quy định rằng quyền miễn trừ lãnh sự không áp dụng đối với các vụ kiện dân sự liên quan đến tai nạn giao thông.[31 Thế nhưng vào năm 2006, Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ đã đưa ra phán quyết rằng, vì Tổng lãnh sự Kent đang sử dụng phương tiện của mình cho mục đích lãnh sự nên không thể kiện Kent theo khía cạnh dân sự.[32] Ngoài ra, viên chức ngoại giao và viên chức lãnh sự được hưởng (i) Quyền tự do đi lại, (ii) Quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, tài sản, tài liệu, thư tín, (iii) Quyền được miễn thuế, lệ phí, miễn khám và khai báo hải quan, và (iv) Quyền được miễn áp dụng qui định về an sinh xã hội, đóng góp cá nhân. b. Các quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho nhân viên hành chính, kỹ thuật và nhân viên phục vụ Trong nhân viên của phái đoàn ngoại giao được chia làm ba nhóm: Viên chức ngoại giao có hàm ngoại giao (members of diplomatic staff), Nhân viên hành chính và kỹ thuật (members of the administrative and technical staff), và Nhân viên phục vụ (members of the service staff).[33] Đối với cơ quan lãnh sự, ngoài viên chức lãnh sự còn có nhân viên lãnh sự (consular employee), nhân viên phục vụ (member of the service staff).[34] Theo đó, nhân viên hành chính - kỹ thuật nếu không phải là công dân nước sở tại hoặc không thường trú ở nước này, về cơ bản được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ như viên chức ngoại giao, bao gồm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nơi ở; quyền miễn trừ xét xử về hình sự; quyền được miễn thuế và lệ phí đối với thu nhập cá nhân và một số quyền ưu đãi hải quan nhất định.[35] Nhân viên phục vụ cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự nếu không phải là công dân nước sở tại hoặc không thường trú ở nước này, được hưởng các quyền miễn trừ đối với các hành vi thực hiện trong khi thừa hành công vụ của mình, được miễn trừ các thứ thuế và lệ phí về tiền công thu được từ công vụ.[36] Nhìn chung, khái niệm về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự là một nội dung có lịch sử lâu đời của luật pháp quốc tế, từ Hy Lạp cổ đại, thời kỳ Trung cổ ở châu Âu đến Phục Hưng, và sau đó là quasi extra territorium (lãnh thổ bên ngoài) của Hugo Grotius.[37] Ngay từ khi các quốc gia độc lập hình thành, một số tập quán đã phát triển quy định cách thức đối xử của một quốc gia với sứ thần của nước khác.[38] Các học thuyết và tập quán về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự dần được pháp điển hóa trong các công ước quốc tế - Công ước Viên 1961 và 1963 và trở thành nền tảng vững chắc cho các quốc gia để bảo vệ nhân viên, viên chức và trụ sở khi thực hiện công tác ngoại giao, lãnh sự tại các quốc gia khác. Từ đó, lợi ích quốc gia được bảo đảm và thúc đẩy cho sự hợp tác hòa bình, tôn trọng lẫn nhau của các quốc gia. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bất kỳ thắc mắc hay ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1], [2] Phạm Lan Dung, Giáo trình Luật Quốc tế, tr.384. [3],[4] Malcolm Shaw, International Law. Xem thêm: Diplomatic Privileges and Immunities, The American Journal of International Law, Vol.26, No.1, Supplement: Research in International Law (1932). [5] Diplomatic Privileges and Immunities, The American Journal of International Law, Vol.26, No.1, Supplement: Research in International Law (1932), tr.25. [6],[7], [10] Công ước Viên 1961 và Công ước Viên 1963. [8] Điều 39(2), Công ước Viên 1961. [9] Điều 9, Công ước 1961 và Điều 23, Công ước Viên 1963. [11] A. Skeen, Prelude to Independence – Skeen’s 115 Days (Cape Town: Nasionale Boekhandel, 1966); J.R.T. Wood, So Far and No Further! Rhodesia’s bid for independence during the retreat from Empire 1959-1965 (Johannesburg: 30 South Publishers, 2005), 471 and D. Lowry, ‘Rhodesia 1890-1980 ‘The Lost Dominion’’, in R. Bickers (ed), Settlers and Expatriates: Britons over the seas (Oxford: Oxford University Press, 2010), 112-113. [12] A History of Southern Rhodesia: Early days to 1934 (London, Chatto and Windus, 1965), R. Blake, A History of Rhodesia (New York, Alfred A. Knopf, 1978). [13] P. Baxter, Rhodesia – Last Outpost of the British Empire 1890-1980 (Alberton, Galago, 2010), C.J.M. Zvobgo, A History of Zimbabwe and Postscript: Zimbabwe, 2001-2008 (Newcastle-upon-Tyne: Cambridge Scholars, 2009) and A.S. Mlambo, A History of Zimbabwe (New York, Cambridge University Press, 2014). [14] Memorial of the Republic of Equatorial Guinea, Case concerning Immunities and Criminal Proceedings (Equatorial Guinea v. France), Volume 1, 3 January 2017, International Court of Justice, truy cập tại https://www.icj-cij.org/public/files/case-related/163/163-20170103-WRI-01-00-EN.pdf . [15] Counter-memorial of the French Republic, Case concerning Immunities and Criminal Proceedings (Equatorial Guinea v. France), 15619 C, 6 December 2018, International Court of Justice, truy cập tại https://www.icj-cij.org/public/files/case-related/163/163-20181206-WRI-01-00-EN.pdf . [16] Immunities and Criminal Proceedings (Equatorial Guinea v. France), Judgment, I.C.J. Reports 2020, p. 300, truy cập tại https://www.icj-cij.org/public/files/case-related/163/163-20201211-JUD-01-00-EN.pdf . [17] Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. tr.390. [18] Điều 27, Công ước Viên 1961. [19] Điều 27(4), Công ước Viên 1961. [20] Điều 27(5), Công ước Viên 1961. [21] Điều 23(1), Công ước Viên 1961 và Điều 32(1), Công ước Viên 1963. [22] Điều 23(2), Công ước Viên 1961 và Điều 32(2), Công ước Viên 1963. [23] Điều 36, Công ước Viên 1961 và Điều 30, Công ước Viên 1963 [24] Điều 37(1), Công ước Viên 1961 [25] Trần Hữu Duy Minh, Quyền miễn trừ, ưu đãi ngoại giao và lãnh sự Truy cập ngày 09/02/2023. [26] Điều 29, Công ước Viên 1961 và Điều 41, Công ước Viên 1963 [27] Điều 41(1), Công ước Viên 1963. [28],[29] Điều 43(1), Công ước Viên 1963. [30],[31] Immunity shelters former US Consul from Russian invalid, Vladivostok News, 17 August 2006, truy cập tại https://web.archive.org/web/20080505012445/http://vn.vladnews.ru/issue531/Crime_watch/Immunity_shelters_former_US_Consul_from_Russian_invalid [32] United States Court of Appeals, Ninth Circuit. Aleksandr Nikolaevich KASHIN, Plaintiff-Appellee, United States of America, Defendant-Appellee, v. Douglas Barry KENT, Defendant-Appellant, No.04-56703, Decided: August 10, 2006. [33] Điều 1, Công ước Viên 1961 [34] Điều 1, Công ước Viên 1963 [35] Điều 37(2), Công ước Viên 1961 và Điều 43,46,47,49, 50 Công ước Viên 1963 [36]Khoản 3, Điều 37, Công ước Viên 1963 và Khoản 2 Điều 49, Công ước Viên 1963 [37] The History of Diplomatic Immunity . By Linda S. Frey and Marsha L. Frey. Columbus: Ohio State University Press, 1999. [38] Malcolm N. Shaw, International Law, 6ht ed. (Cambridge University Press 2008) 750-751.

  • [3] CÁC YẾU TỐ HÌNH THÀNH TẬP QUÁN QUỐC TẾ

    Tác giả: Tăng Bảo Đan, Phan Nguyễn Quỳnh Nhi Ở bài viết trước, nhóm tác giả đã cung cấp cho bạn đọc những kiến thức tổng quan, cơ bản về các loại nguồn của luật quốc tế. Để tiếp nối chủ đề của tháng, bài viết này sẽ đi tới phân tích chi tiết hơn về một trong những nguồn chính của luật quốc tế, đó chính là tập quán quốc tế. Tập quán quốc tế là một trong những nguồn của luật quốc tế, được ghi nhận tại Điều 38(1)(b) của Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ):“Tập quán quốc tế, như là bằng chứng về một thực tiễn chung được chấp nhận như luật.”. Từ định nghĩa trên, có thể thấy rằng tập quán quốc tế được hình thành bởi hai yếu tố: “thực tiễn chung” và “được chấp nhận như luật.” 1. Thực tiễn chung (State practice) Thực tiễn chung là các hành vi, hoạt động của các quốc gia trên thực tế, và các hành vi, hoạt động đó hình thành một mô-típ ứng xử của các quốc gia khi gặp cùng một vấn đề.[1] Những thực tiễn này được xác định dựa trên tổng hợp thực tiễn của các quốc gia, bao gồm tập hợp các hành vi và tuyên bố của các quốc gia.[2] Bằng chứng về thực tiễn chung của các quốc gia thường được đánh giá dựa trên nhiều nguồn, phổ biến nhất bao gồm các hình thức chính thức như văn bản, tuyên bố, phát biểu của chính phủ, cơ quan đại diện quốc gia, cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ quan phát ngôn của Bộ Ngoại giao quốc gia đó.[3] Thực tiễn chung cấu thành một tập quán quốc tế cần thỏa mãn hai yếu tố: tính phổ quát đại diện và tính nhất quán.[4] Tính phổ quát đại diện ở đây nhằm chỉ số lượng quốc gia có chia sẻ cùng thực tiễn chung, trong đó tính nhất quán đề cập tới sự tương thích trong thực tiễn của các quốc gia đó. Tuy nhiên, thực tiễn chung không yêu cầu sự phổ quát hoàn toàn và sự nhất quán tuyệt đối, tức là không yêu cầu việc thực tiễn đó phải xuất hiện tất cả các quốc gia trên thế giới và thực tiễn đó không cần thiết phải giống nhau tuyệt đối.[5] Từ đó có thể rút ra kết luận rằng: hầu hết các trường hợp một số quốc gia không chia sẻ cùng một thực tiễn chung không cản trở việc một tập quán quốc tế ra đời. Tuy nhiên, trên thực tế, một số tình huống khi thực tiễn chung thiếu vắng tại một số quốc gia có lợi ích bị ảnh hưởng đặc biệt có thể ngăn cản một quy định tập quán quốc tế hình thành. Trường hợp này là việc cấm vũ khí hạt nhân khi các quốc gia sở hữu chúng ngăn chặn việc hình thành tập quán quốc tế có nội dung liên quan như Hoa Kỳ, Nga, Ấn Độ, Triều Tiên.[6] 2. Được chấp nhận như luật (Opinio juris) Khi được đặt trong cùng câu chữ với “thực tiễn chung”, cụm từ này có thể được hiểu rằng các quốc gia tuân theo với niềm tin thực tiễn này là bắt buộc theo một quy định pháp lý của luật quốc tế.[7] Yếu tố này thường được gọi bằng thuật ngữ latinh - opinio juris sive necessitatis, gọi tắt là opinio juris. Một quốc gia không phải là một cá nhân nên nếu hiểu theo nghĩa đen, một quốc gia không thể có “niềm tin.” Theo Nguyên tắc 4 trong tài liệu Trách nhiệm pháp lý quốc tế của Quốc gia của Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) năm 2001, hành động của một quốc gia thường được thể hiện qua những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền như Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính Phủ, hoặc Quốc hội.[8] Opinio juris giúp chúng ta phân biệt với các quy tắc lễ nghi, bởi yếu tố này giúp đảm bảo các thực tiễn chung cấu thành một tập quán quốc tế được hình thành không phải vì thuận tiện, xã giao, nghi thức hay xuất phát từ quan điểm đạo đức, quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, mà xuất phát từ niềm tin rằng họ có nghĩa vụ phải thực hiện một hành vi pháp lý nào đó theo luật quốc tế.[9] Từ định nghĩa nêu trên, có thể hiểu rằng, chỉ bằng việc các quốc gia ứng xử theo một mô-típ nhất định không đủ để chứng minh thực tiễn đó là tập quán quốc tế. Yếu tố opinio juris vô cùng quan trọng trong việc xác định liệu một quy tắc đã trở thành một tập quán quốc tế hay chưa. Tuy nhiên, việc xác định này không hề dễ dàng, bởi vì hành động của các quốc gia khi tham gia vào quan hệ quốc tế thường xuất phát từ rất nhiều lý do khác nhau, và không phải hành động nào cũng xuất phát từ một lý do pháp lý. Yếu tố opinio juris thường được thể hiện qua hành vi của các quốc gia trên diễn đàn đa phương, ví dụ như thái độ của các quốc gia đối với nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc.[10] Sở dĩ như vậy vì một nghị quyết được thông qua theo cơ chế đồng thuận hoặc nhận được sự nhất trí của tuyệt đại đa số, và sau đó những quy định trong bản nghị quyết này lại được xác nhận lại trong bản nghị quyết khác. Một cách khác để tìm thấy opinio juris đó là thông qua việc các quốc gia tham gia vào điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương. [11] Trong Vụ Thềm lục địa (Libya v. Malta) 1985, Tòa ICJ đã khẳng định: “Các công ước đa phương có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc ghi lại và xác định các quy tắc có nguồn gốc từ tập quán quốc tế, hoặc thậm chí là phát triển lên tập quán đó.”[12] Có hai lý do để giải thích cho điều này. Thứ nhất, điều ước quốc tế quy định các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia, qua đó thể hiện được quan điểm của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Thứ hai, việc ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt, gia nhập thường trải qua quá trình lấy ý kiến tư vấn giữa những người đứng đầu Nhà nước. Do đó, nếu muốn chứng minh một quy định của các điều ước quốc tế đa phương đồng thời là quy định của tập quán quốc tế, điều ước quốc tế đa phương có thể là một công cụ hỗ trợ hiệu quả. Tuy nhiên, bằng chứng opinio juris cần tập trung vào các quốc gia không phải là thành viên của các điều ước đó, bởi việc các quốc gia tuân thủ theo một điều ước quốc tế có thể bị nhầm lẫn với nguyên tắc thiện chí thực hiện, pacta sunt servanda.[13] 3. Xác định tập quán quốc tế thông qua các yếu tố khác Trên thực tế, việc xác định một tập quán quốc tế dựa theo hai yếu tố “thực tiễn chung” và “được chấp nhận như luật” (opinio juris) rất khó để được thực hiện vì tính phức tạp của cả hai yếu tố này. Thay vì vậy, các tập quán quốc tế thường được chứng minh và xác định thông qua hai nguồn bổ trợ: án lệ, hay cụ thể là các quyết định tư pháp của cơ quan tài phán quốc tế và công trình nghiên cứu của các học giả có uy tín. Thông thường, các cơ quan tài phán chỉ tuyên bố sự tồn tại của một tập quán quốc tế, tiêu biểu là trong Vụ Hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua và chống lại Nicaragua (1986) khi Tòa ICJ tuyên bố nguyên tắc không đe dọa hay sử dụng vũ lực là một quy định tập quán quốc tế.[14] Một thực tiễn nữa của việc xác định tập quán quốc tế thông qua nguồn bổ trợ là danh sách các tập quán quốc tế trong luật nhân đạo quốc tế được các học giả thuộc Hội Chữ Thập đỏ nghiên cứu và công bố với hai cuốn riêng về thực tiễn chung và opinio juris. 4. So sánh tập quán quốc tế và tập quán địa phương, khu vực Bên cạnh tập quán chung, tồn tại các tập quán chỉ hình thành trong quan hệ của một số quốc gia như trường hợp Vụ Quyền qua lại trên lãnh thổ Ấn Độ (1960). Trong vụ việc này, Tòa ICJ đã công nhận giữa Bồ Đào Nha và Ấn Độ tồn tại tập quán cho phép Bồ Đào Nha qua lại trên lãnh thổ Ấn Độ nhằm tới hai thuộc địa của mình nằm trong đó.[15] Những tập quán này được gọi là tập quán khu vực. Yếu tố cấu thành tập quán khu vực giống như tập quán quốc tế, bao gồm thực tiễn chung và opinio juris, nhưng tiêu chuẩn thỏa mãn hai yếu tố này của tập quán khu vực này cao hơn so với tập quán quốc tế.[16] Sự hình thành của các tập quán khu vực này về bản chất rất phụ thuộc vào việc hành vi cụ thể của một bên có được đồng thuận bởi (các) quốc gia khác như một biểu hiện của chấp hành luật hay không.[17] Tóm lại, tập quán khu vực là một trường hợp ngoại lệ xuất phát từ sự hình thành tự nhiên của tập quán quốc tế, vì vậy các nhà làm luật thường linh hoạt tiếp cận nó thay vì thực sự cấu thành một lý thuyết rập khuôn về sự đồng tình của các quốc gia bị ràng buộc bởi loại tập quán này.[18] 5. Kết luận Là một nguồn chính của luật quốc tế, tập quán quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tính ràng buộc của một hành vi pháp lý đối với các quốc gia. Tuy nhiên, việc xác định tập quán quốc tế không hề dễ dàng, bởi mỗi yếu tố có những yêu cầu và tranh cãi khác nhau, nên nơi chúng ta có thể tìm thấy các tập quán hiệu quả nhất là thông qua phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế. Cần lưu ý rằng, việc tồn tại một tập quán không có nghĩa là tập quán đó ràng buộc tất cả các quốc gia, mà cần phải xác định xem đó là tập quán quốc tế, tập quán địa phương hay tập quán khu vực. Trong quá trình nghiên cứu, với nền tảng kiến thức còn hạn chế nên sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy, nhóm tác giả mong được nhận sự góp ý từ các thầy, cô và độc giả để có thể hoàn thiện bài viết này. Nếu có bất kỳ thắc mắc hay ý kiến đóng góp nào, hãy cho chúng tôi biết qua email. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1], [2], [4], [5], [9], [10], [11]: Phạm Lan Dung (2021), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Thế giới. [3], [16], [17], [18]: Malcolm N. Shaw (2017), Cambridge University Press, 8th ed, p60, 68, 69. [5], [13]: Vụ Các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua và chống lại Nicaragua (Nicaragua/Mỹ) (Phán quyết) [1986] ICJ Rep 92, [186] [188], tr. 88-89. [6] H Thurlway, The Sources of International Law, in trong MD Evans International Law, 4th ed. (Oxford University Press 2014) 91, tr.103. [7] Vụ thềm lục địa Biển Bắc (Cộng hòa Liên bang Đức/ Đan Mạch; Cộng hòa Liên bang Đức/ Hà Lan) (Phán quyết) [1969] ICJ Rep 3, tr.20, 45 [27][77] [8] ILC, Trách nhiệm pháp lý quốc tế của Quốc gia của Ủy ban Luật pháp quốc tế. [10] Ronald Alcala, The Lieber Institute, Opinio juris and the essential role of States < https://lieber.westpoint.edu/opinio-juris-essential-role.../ >truy cập ngày 11 tháng 01 năm 2023. [12] Vụ thềm lục địa (Libya v. Malta) (Phán quyết) [1985] ICJ Rep 27, tr.20. [13] Brian D. Lepard, Customary international law: A new theory with practical applications, Chapter 13. [15] Vụ Quyền qua lại trên lãnh thổ Ấn Độ (Bồ Đào Nha/ Ấn Độ) (Phán quyết) [1960] ICJ Rep 125, tr.60.

bottom of page